Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đình công theo pháp luật lao động việt nam...

Tài liệu Đình công theo pháp luật lao động việt nam

.PDF
85
1
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH NGUYỄN MẠNH HÙNG ĐÌNH CÔNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH ĐÌNH CÔNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380103 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thúy Hương Học viên: Nguyễn Mạnh Hùng Lớp: Cao học Luật Dân sự & TTDS - Khoá 30 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn “Đình công theo pháp luật lao động Việt Nam” là kết quả nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Lê Thị Thúy Hương. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn được sử dụng trong luận văn đảm bảo tính chính xác, trung thực và tuân thủ quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả Luận văn Nguyễn Mạnh Hùng DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Nội dung được viết tắt Từ viết tắt 1 Bộ luật Lao động BLLĐ 2 Hội đồng trọng tài lao động HĐTTLĐ 3 Người lao động NLĐ 4 Người sử dụng lao động NSDLĐ 5 Tổ chức Lao động quốc tế ILO 6 Tranh chấp lao động tập thể TCLĐTT MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐÌNH CÔNG .......................................................6 1.1. Lý luận chung về đình công ..............................................................................6 1.1.1. Khái niệm đình công ...................................................................................6 1.1.2. Bản chất của đình công ..............................................................................10 1.1.3. Đặc điểm của đình công ...........................................................................12 1.1.4. Ý nghĩa của đình công ..............................................................................16 1.2. Các nguyên nhân dẫn đến đình công ................................................................17 1.2.1. Nguyên nhân chủ quan .............................................................................17 1.2.2. Nguyên nhân khách quan .........................................................................24 1.3. Tác động của đình công ...................................................................................28 1.3.1. Tác động đối với người lao động .............................................................29 1.3.2. Tác động đối với người sử dụng lao động................................................30 1.3.3. Tác động đối với nền kinh tế, xã hội.........................................................31 1.4. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về đình công ..........................................33 1.5. Sự phát triển của pháp luật về đình công ở Việt Nam .................................35 1.5.1. Giai đoạn trước ngày 01/01/1995 ............................................................35 1.5.2. Giai đoạn từ 01/01/1995 đến 30/04/2013 ................................................36 1.5.3. Giai đoạn từ 01/5/2013 đến 31/12/2020 ..................................................39 1.5.4. Giai đoạn từ 01/01/2021 đến nay .............................................................40 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................42 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN ĐÌNH CÔNG TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................43 2.1. Thực trạng pháp luật về đình công ................................................................43 2.1.1. Về chủ thể có quyền đình công .................................................................43 2.1.2. Về tranh chấp lao động tập thể được giải quyết bằng đình công ............49 2.1.3. Về trình tự và thủ tục đình công ...............................................................51 2.1.4. Về thương lượng tập thể tại doanh nghiệp ...............................................54 2.1.5. Về thủ tục hoà giải trước khi đình công ...................................................56 2.1.6. Về xử lý đình công bất hợp pháp ..............................................................62 2.2. Thực tiễn thực hiện đình công tại Việt Nam .................................................63 2.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình công và giải pháp đảm bảo đình công hợp pháp .................................................................................................69 2.3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đình công ................................69 2.3.2. Giải pháp đảm bảo đình công hợp pháp ..................................................71 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................73 PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................................74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Một đất nước muốn phát triển thì cần có một nền kinh tế vững mạnh, trong đó quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng quan hệ này luôn phát sinh những tranh chấp về quyền và lợi ích trên thực tế. Để giải quyết những tranh chấp như vậy cần có các phương thức khác nhau. Theo qui định của Bộ luật Lao động năm 2019, đình công là một quyền quan trọng và là phương thức cuối cùng, quyết liệt nhất giúp người lao động (NLĐ) giải quyết những tranh chấp lao động tập thể về lợi ích đối với người sử dụng lao động. Về mặt lý luận, vấn đề đình công được qui định với 14 điều trong Bộ luật Lao động năm 2019 với tất cả các nội dung như chủ thể, trình tự, thủ tục đình công…nhưng trên thực tế các cuộc đình công diễn ra trong thời gian qua với hàng ngàn cuộc đình công hầu hết là đình công không đảm bảo các quy định của pháp luật. Trong khi đó hậu quả đình công rất lớn kể cả bản thân người lao động lẫn người sử dụng lao động cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và môi trường đầu tư của Việt Nam. Có rất nhiều nguyên nhân khiến người lao động đình công không đảm bảo theo quy định của pháp luật lao động, trong đó có một số nguyên nhân xuất phát từ chính bất cập của các quy định định pháp luật. Dường như đó chỉ là những qui định để được ra để đáp ứng về mặt lí luận và không phù hợp với thực tế. Đình công trong hiện tại và tương lai đã diễn ra và sẽ diễn ra vì với quá trình phát triển của Việt Nam với những hiệp định thương mại đa phương, song phương đã và đang được tiến hành kí kết thì sẽ phát sinh thêm rất nhiều mối quan hệ lao động mới về hình thức và nội dung. Từ đó cũng sẽ phát sinh những tranh chấp lao động tập thể về lợi ích mới và việc đình công sẽ tiếp tục diễn ra cho dù hợp pháp hay bất bất hợp pháp. Từ những lí do trên, nên tác giả chọn đề tài “Đình công theo pháp luật lao động Việt Nam” để phần nào hiểu được nguyên nhân của các cuộc đình công trong thời gian qua từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật về đình công. Bởi vì, những vấn đề chắc chắn sẽ diễn ra trên thực tế pháp luật cần có những qui định để điều chỉnh phù hợp như vậy sẽ tạo được sự ổn định cho sự phát triển trong tất cả các lĩnh vực chứ không nên đưa ra những qui định rời xa thực tế, gây khó khăn như vậy sẽ gây ra những hậu quả rất bất lợi cho sự phát triển của đất nước. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua tìm hiểu, hiện nay đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về một hoặc một số vấn đề liên quan đến đình công cụ thể như sau: Về giáo trình gồm có: - Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình luật lao động Việt Nam, nhà xuất bản Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh; - Trường đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật lao động Việt Nam, nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Các giáo trình trình bày và phân tích có hệ thống, khái quát những vấn đề liên quan đến đình công. Từ đó, cung cấp những kiến thức cơ bản về đình công theo pháp luật lao động Việt Nam. Về bài viết trên báo, tạp chí gồm có: - Trần Hoàng Hải (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Hoàn thiện cơ chế giải quyết TCLĐTT ở Việt Nam: Kinh nghiệm các nước có nền kinh tế thị trường phát triển và các nước trong khu vực, Cấp bộ, Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả đề tài nghiên cứu cách thức giải quyết TCLĐTT một số nước và tại Việt Nam. Từ đó chỉ ra những vấn đề cần rút ra khi giải quyết TCLĐTT. Tác giả cũng đề cập đến cách thức giải quyết đình công tại Việt Nam và những vấn đề cần khắc phục. - Nguyễn Quang Thành (2017), “Pháp luật quốc tế về quyền đình công và tương quan so sánh giữa pháp luật Việt Nam với một số quốc gia”, tạp chí Luật học, Trường đại học Luật Hà Nội, 2017, Số 12. Trong bài viết này tác giả so sánh pháp luật các nước về đình công với pháp luật Việt Nam. Qua đó, tác giả bài viết rút ra được khái niệm cơ bản về đình công cũng như đặc điểm và bản chất của đình công. - Lê Thị Hoài Thu (2017), “Vai trò của Công đoàn trong tổ chức, lãnh đạo đình công ở Việt Nam”, tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2017, Số 2. Trong bài viết tác giả nêu lên những vướng mắc, khó khăn khi công đoàn tổ chức thực hiện đình công. Đồng thời tác giả cũng đưa ra một giải pháp để khắc phục vấn đề này với đề xuất đáng chú ý là cho phép ban đại diện do tập thể lao động thành lập được phép tổ chức và lãnh đạo đình công. 3 Về luận án, luận văn gồm có: - Nguyễn Thị Bích (2018), Điều chỉnh pháp luật đối với thương lượng tập thể trong doanh nghiệp tại Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận án tác giả nêu ra thực trạng của thương lượng tập thể tại các doanh nghiệp Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị về vấn đề này. Đồng thời tác giả cũng đề cập đến việc vai trò của thương lượng tập thể giúp cho hạn chế và giải quyết đình công . - Lê Huỳnh Phương Chi (2009), Giải quyết đình công thông qua thương lượng và hòa giải theo pháp luật Việt Nam – So sánh với pháp luật Thụy Điển, Luận văn thạc sỹ, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận văn tác giả nghiên cứu pháp luật Thụy Điển và so sánh với pháp luật lao động Việt Nam khi giải quyết đình công bằng biện pháp thương lượng và hòa giải. - Nguyễn Lý Ngọc Thu (2009), “Pháp luật về giải quyết hậu quả đình công”, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường đại học luật thành phố Hồ Chí Minh. Trong luận văn tác giả nêu ra định nghĩa hậu quả đình công cũng như phân loại các hậu quả đình công. Đồng thời, tác giả đưa ra các cách thức để giải quyết hậu quả đình công. Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp cho người đọc nhiều vấn đề liên quan về đình công theo pháp luật lao động Việt Nam. Tuy nhiên, đánh giá chung thì có các công trình có phạm vi nghiên cứu khác nhau, có công trình chỉ nghiên cứu về một vấn đề nhỏ trong đình công, hoặc có những công trình nghiên cứu tổng quan nhưng chưa nghiên cứu toàn diện cả thực tiễn, cũng như chưa có công trình nào nghiên cứu trên cơ sở quy định của Bộ luật Lao động năm 2019. Chính vì vậy cần có đề tài nghiên cứu toàn diện về đình công theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn được thực hiện nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về đình công, phân tích quy định của pháp luật lao động Việt Nam về đình công, nguyên nhân dẫn đến đình công và thực tiễn đình công tại Việt Nam. Qua đó tác giả chỉ ra những bất cập, hạn chế dẫn đến các cuộc đình công bất hợp pháp trong thời gian qua. Những 4 kiến nghị này nhằm hoàn thiện pháp luật về đình công. Mục đích mà đề tài hướng đến là đảm bảo nếu có đình công bắt buộc xảy ra thì đó phải là một cuộc cuộc đình công hợp pháp. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Với mục đích nghiên cứu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ các vấn đề lý luận về đình công như khái niệm, bản chất, đặc điểm và ý nghĩa của đình công, nguyên nhân của đình công và tác động của đình công. - Phân tích quy định pháp luật lao động Việt Nam về đình công. - Tìm hiểu, đánh giá thực tiễn về đình công tại Việt Nam. - Tìm hiểu hạn chế, bất cập của quy định pháp luật về đình công tại Việt Nam, qua đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về đình công dưới khía cạnh lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng. Nội dung đề tài tập trung phân tích các quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về đình công, các số liệu đình công trên thực tế ở một vài cuộc đình công nổi bật trong thời gian qua để minh họa cụ thể thể hơn cho vấn đề lý luận. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Giới hạn về nội dung: Tác giả nghiên cứu tổng quan quy định pháp luật Việt Nam về đình công, trong đó tập trung là các quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Giới hạn về không gian: Tác giả tập trung nghiên cứu pháp luật đình công tại Việt Nam. Ngoài ra, tác giả có tham khảo các quy định về đình công của một số nước trong khu vực Đông Nam Á như Campuchia hoặc nước có các giai đoạn phát triển kinh tế tương tự Việt Nam như Liên bang Nga, từ đó so sánh sự khác biệt và rút ra kinh nghiệm nhằm hoàn thiện quy định pháp luật của Việt Nam về đình công. Giới hạn về thời gian: Tác giả giới hạn việc nghiên cứu từ khi Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời cho đến nay. 5 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng một số phương pháp sau: - Phương pháp lịch sử được sử dụng để tìm hiểu quy định pháp luật lao động về đình công qua từng thời kỳ tại Việt Nam. Phương pháp được sử dụng chương 1 và chương 2 của luận văn. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để nghiên cứu, đánh giá pháp luật lao động Việt Nam về đình công, cũng như phân tích, đánh giá số số liệu thực tiễn về đình công tại Việt Nam. Phương pháp được sử dụng tại cả chương 1 và chương 2 của luận văn. - Phương pháp so sánh được thực hiện khi tham khảo pháp luật các quốc gia để tìm ra những điểm khác biệt, tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các quốc gia về vấn đề đình công. Phương pháp được sử dụng ở chương 1 của luận văn. - Phương pháp thống kê được thực hiện để thu thập các số liệu thực tế về đình công tại Việt Nam, sau đó dữ liệu thu thập được sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đánh giá thực tiễn. Phương pháp được thực hiện tại chương 2 của luận văn khi nghiên cứu thực trạng đình công tại Việt Nam. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Đề tài nghiên cứu có giá trị cung cấp cái nhìn toàn diện về đình công theo pháp luật lao động tại Việt Nam. Cụ thể đề tài cung cấp cho người đọc vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn đình công tại Việt Nam. Đề tài làm rõ những điểm hạn chế, bất cập và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật có giá trị tham khảo nhằm hoàn thiện pháp luật lao động của Việt Nam nói chung. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 2 chương như sau: Chương 1. Khái quát về đình công. Chương 2. Thực tiễn đình công tại Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 6 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐÌNH CÔNG 1.1. Lý luận chung về đình công 1.1.1. Khái niệm đình công Đình công là một hiện tượng khách quan trong nền kinh tế thị trường và phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế xã hội mà nó tồn tại1. Khi nền kinh tế thị trường phát triển sẽ hình thành nên mối quan hệ giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ). Quan hệ lao động là mối quan hệ đặc biệt, NLĐ sẽ bán sức lao động của họ cho NSDLĐ để nhận lấy tiền lương và các lợi ích khác mà hai bên thỏa thuận. Do đó, bản chất quan hệ lao động được xây trên nền tảng căn bản là thỏa mãn lợi ích của các bên khi tham gia. Khi một bên cảm thấy lợi ích của mình bị xâm phạm, mâu thuẫn giữa các bên sẽ xuất hiện. Để giải quyết những mâu thuẫn này có nhiều phương thức, biện pháp khác nhau để giải quyết như thương lượng, hòa giải hay cả hai có thể yêu cầu một bên thứ ba giải quyết. Tuy nhiên, các phương thức, biện pháp trên đã được các bên sử dụng nhưng không hiệu quả hay do một bên không chịu sử dụng các phương thức này thì đình công được xem là phương thức cuối cùng, quyết liệt nhất mà NLĐ có thể áp dụng để giải quyết những tranh chấp lao động tập thể (TCLĐTT) về lợi ích với NSDLĐ. Như vậy, đình công biểu hiện cho sự bế tắc trong quan hệ lao động. Trước khi xảy ra đình công thì người lao động thường có dấu hiệu bất bình, nếu những bất bình không được giải quyết triệt để và kịp thời thì đình công sẽ xảy ra2. Đình công là một hiện tượng xã hội phát sinh và tồn tại cùng với sự tồn tại của nền kinh tế thị trường và sẽ triệt tiêu khi nền kinh tế thị trường không còn tồn tại. Có thể thấy đình công là một hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường vì vậy không thể hạn chế đình công mà cần đưa ra các quy định pháp luật về đình công phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Về khía cạnh quốc tế, có nhiều cách hiểu về khái niệm đình công. Trong đó có quan điểm đình công là một quyền thuộc quyền con người thế hệ thứ hai bao gồm các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. “Kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân, NLĐ cho mục tiêu công bằng về kinh tế, xã hội tại nhiều nước tư bản phát Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình luật lao động Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, tr.547. Lê Thanh Hà (2008), “Đình công và quan hệ lao động ở Việt Nam - thực trạng và giải pháp”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 07, tr.48. 1 2 7 triển ở thế kỷ XIX như Anh, Đức, Pháp. Đến đầu thế kỷ XX, sự ra đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên Liên bang Xô Viết (1917) và sự ra đời của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO, 1919), thì các quyền con người thế hệ thứ hai có vai trò nổi bật trong các văn bản pháp luật quốc tế và quốc gia. Sau chiến tranh thế giới hai, thế hệ quyền thứ hai tiếp tục được ghi nhận trong các công ước của ILO, Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (UDHR,1948), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR ,1966)” 3. Cụ thể Điểm d Khoản 1 Điều 8 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế văn hóa và xã hội (ICESCR) năm 1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) quy định các nước thành viên phải đảm bảo: “Quyền đình công với điều kiện là quyền này phải được thực hiện phù hợp với pháp luật của mỗi nước”. Khác với Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR ,1966), Tổ chức Lao động quốc tế (viết tắt là ILO) không trực tiếp quy định về đình công mà gián tiếp thông qua Công ước 87 năm 1948 và Công ước 98 năm 1949. Theo nội dung tại hai Công ước này thì quyền đình công được thể hiện qua quyền tự do liên kết, quyền tổ chức và thương lượng tập thể của NLĐ4. Qua đó có thể nhận thấy đình công là một quyền được đề cập một cách trực tiếp hay gián tiếp. Các quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc và ILO được khuyến nghị phải tôn trọng quyền này của NLĐ. Đồng thời phải xây dựng các quy định pháp luật về đình công phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia thành viên. Nên ILO đều không có quy định cụ thể về khái niệm đình công trên thế giới mà mỗi gia sẽ đưa ra khái niệm và phạm vi được phép đình công. Tại Việt Nam, theo từ điển Luật học thì “Đình công là sự ngừng bộ phận hoặc toàn bộ trong quá trình sản xuất, dịch vụ do tập thể những NLĐ cùng nhau tiến hành với yêu sách NSDLĐ phải thực hiện đúng nghĩa vụ của mình trong quan hệ lao động hoặc làm thỏa mãn những yêu sách và các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động”5. Đình công theo khái niệm này phải xuất phát từ TCLĐTT. Đồng thời, biểu hiện của đình công là việc ngừng việc của tập thể lao động nhằm gây sức ép buộc NSDLĐ phải thực hiện các nghĩa vụ vốn có của mình trong quan hệ lao Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Lý luận Chính trị, tr.24. 4 https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/---ed_norm/--normes/documents/normativeinstrument/wcms_645584.pdf, và https://www.ilo.org/wcmsp5/groups/public/--asia/---ro-bangkok/---ilo-hanoi/documents/publication/wcms_721935.pdf, truy cập ngày 03/09/2022. 5 Bộ Tư pháp – Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học(2006), NXB Từ điển bách khoa, NXB Tư Pháp, tr. 264. 3 8 động. Hoặc trong quá trình thực hiện quan hệ lao động thì phát sinh những những vấn đề mà NLĐ muốn NSDLĐ thỏa mãn thì tập thể NLĐ cũng có thể tiến hành đình công. Trong khái niệm này nêu lên cách thức thực hiện và mục đích của đình công nhưng không nêu lên được chủ thể tổ chức, lãnh đạo đình công. Khái niệm cũng chưa đề cập được phạm vi đình công hay TCLĐTT loại nào mới được phép tiến hành đình công. Nếu hiểu theo khái niệm này NLĐ có thể tiến hành các cuộc đình công tự phát và phạm vi đình công sẽ rất rộng. Nhìn từ khía cạnh lịch sử xuất hiện đình công, giai cấp công nhân xuất hiện khi thực dân Pháp xâm lược nước ta và đình công cũng bắt đầu xuất hiện nhưng các cuộc đình công ngoài yếu tố đơn thuần là TCLĐTT mà còn xen lẫn yếu tố chính trị. Đình công lần đầu tiên được đề cập tại Sắc lệnh 29/SL năm 1947 với cách hiểu là quyền tự do kết hợp và bãi công. Tuy nhiên với tình hình đất nước khi đó thì đây chỉ là quyền được ghi nhận trên văn bản không diễn ra trên thực tiễn vì nền kinh tế giai đoạn này chủ yếu là kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Từ năm 1986 đến năm 1994, Việt Nam bắt đầu có những thay đổi để vực dậy nền kinh tế đang gặp khủng hoảng nên khái niệm đình công cũng chưa được đề cập. Đến khi Bộ luật Lao động (viết tắt là BLLĐ) năm 1994 ra đời thì đình công được quy định là một quyền của NLĐ nhưng không đề cập đến khái niệm cụ thể. Khái niệm đình công lần đầu tiên được đề cập tại Điều 172 luật số 74/2006/QH ngày 29/11/2006 sửa đổi bổ sung một số điều luật BLLĐ 1994. Quy định “ Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể lao động để giải quyết TCLĐTT”. Với khái niệm như trên cho thấy được sự quan tâm của nhà nước đến vấn đề đình công, giúp cho NLĐ có nhận thức cơ bản về đình công. Nhưng điểm hạn chế của khái niệm này chính là không phân định về loại TCLĐTT. Nên trên thực tế NLĐ đã đình công khi có TCLĐTT về quyền và TCLĐTT về lợi ích. Đến BLLĐ năm 2012 thì tại Khoản 1 Điều 190 cũng nêu khái niệm đình công không khác biệt nhiều nhưng có quy định đình công chỉ được thực hiện khi xuất phát từ TCLĐTT về lợi ích. Điều 198 BLLĐ năm 2019 khái niệm đình công được quy định “Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của người lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động và do tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể là một bên tranh chấp lao động tập thể tổ chức và lãnh đạo”. Khái niệm tại BLLĐ năm 2019 kế thừa khái niệm của 9 các Bộ luật trước nhưng chi tiết và cụ thể hơn. Tuy nhiên, khái niệm không đề cập đến tranh chấp lao động nào thì mới được đình công mà chỉ quy định đây quyền của NLĐ khi có tranh chấp lao động xảy ra. Cùng với đó, tổ chức được phép tổ chức, lãnh đạo đình công được quy định phải là tổ chức đại diện NLĐ có quyền thương lượng tập thể là bên TCLĐT. Như vậy với khái niệm trong BLLĐ năm 2019 chưa cho thấy được giới hạn của đình công chỉ được xuất phát từ TCLĐTT về lợi ích nhưng lại quy định rõ về tổ chức đại diện NLĐ tại cơ sở là chủ thể duy nhất được phép tổ chức và lãnh đạo đình công. Việc quy định rõ tổ chức đại diện NLĐ trong khái niệm là bắt buộc vì theo Bộ luật này thì tại cơ sở không chỉ có một tổ chức đại diện NLĐ là công đoàn cơ sở mà còn có thể có thêm một tổ chức đại diện khác. Mặc dù vậy, khái niệm trên cũng giúp NLĐ nhận thức được tương đối đầy đủ về đình công và có thể sử dụng đình công một cách hợp pháp khi cần. Về phương diện khoa học pháp lý, có tác giả đã xây dựng khái niệm đình công như sau:“Đình công là sự ngừng việc triệt để, tạm thời, tự nguyện và có tổ chức của tập thể người lao động, thông qua việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về kinh tế nhằm đạt được được những yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích”6. Với khái niệm trên có thể thấy tác giả của khái niệm trên muốn khẳng định về tính ngừng việc triệt để của NLĐ khi thực hiện đình công và cách thức đấu tranh là gây thiệt hại hay đe dọa gây thiệt hại về kinh tế đối với NSDLĐ khi đình công. Về việc ngừng việc phải triệt để được nêu trong khái niệm là hợp lí nhưng với việc gây thiệt hoặc đe dọa gây thiệt về kinh tế thì có lẽ không cần thiết phải nêu trong khái niệm vì khi tiến hành đình công thì công việc sản xuất, kinh doanh sẽ bị ngưng trệ vấn đề NSDLĐ bị thiệt hại là hiển nhiên. Qua phân tích các khái niệm cùng những vấn đề liên quan có thể rút ra được khái niệm cơ bản về đình công theo pháp luật lao động Việt Nam như sau: Đình công là sự ngừng việc triệt để, tự nguyện và có tổ chức trong một thời gian nhất định của tập thể lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết TCLĐTT về lợi ích và được tổ chức, lãnh đạo bởi tổ chức đại diện NLĐ do pháp luật quy định. Nguyễn Quang Thành (2017), “Pháp luật quốc tế về quyền đình công và tương quan so sánh giữa pháp luật Việt Nam với một số quốc gia”, Tạp chí Luật học, số 12, tr.50. 6 10 1.1.2. Bản chất của đình công Bản chất của đình công được thể hiện qua nhiều góc độ khác nhau như: Dưới góc độ xã hội, trong nền kinh tế thị trường thì sức lao động trở thành một loại hàng hoá đăc biệt mà NLĐ có thể bán cho NSDLĐ để đạt được những lợi ích vật chất nhất định cho bản thân. Trong khi đó, NSDLĐ khi bỏ tiền để mua sức lao động thì mong muốn chi phí bỏ ra thấp nhất nhưng mua được sức lao động nhiều nhất có thể. Do đó, giữa NLĐ và NSDLĐ luôn tồn tại những lợi ích và những mâu thuẫn đan xen với nhau, cả hai bên đều muốn đạt được lợi ích tối đa trong mối quan hệ này nhưng lại muốn bỏ ra chi phí hay sức lao động ít nhất. Mâu thuẫn này luôn tồn tại và không bao giờ kết thúc khi cả hai bên vẫn duy trì quan hệ lao động. Khi cả hai bên điều tiết được nhu cầu lợi ích của mình một cách phù hợp thì mâu thuẫn này tạm thời được giải quyết. Nhưng chỉ cần một bên cảm thấy lợi ích bị xâm phạm sẽ thực hiện các biện pháp khác nhau để đảm bảo lợi ích của mình khiến mâu thuẫn trở nên gay gắt cần được giải quyết. Đình công chính là cách thức cuối cùng, quyết liệt nhất mà NLĐ có thể sử dụng để giải quyết các TCLĐTT về lợi ích nhưng đình công để lại hậu quả rất lớn cho chính bản thân NLĐ cũng như NSDLĐ và xã hội. Điều kiện xã hội đã tạo nên nền kinh tế thị trường với quan hệ lao động là đặc trưng của nó và đình công chỉ có thể nảy sinh khi quan hệ lao động còn tồn tại. Đình công trở thành một hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường, các chủ thể liên quan gồm NLĐ, NSDLĐ và cả nhà nước cần có một nhận thức đúng đắn về đình công. Góp phần giúp đình công trở thành một biện pháp hữu hiệu mà NLĐ sử dụng khi không còn biện pháp nào khác để đấu tranh bảo vệ quyền lợi của họ. Để đạt được yêu cầu trên cần có các quy định pháp luật về đình công phù hợp với điều kiện xã hội của nước ta. Dưới góc độ kinh tế, đình công là một biện pháp đấu tranh kinh tế mà NLĐ sử dụng nhằm gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về kinh tế đối với NSDLĐ nhằm đạt được đòi hỏi về quyền và lợi ích trong TCLĐTT thông qua việc ngừng việc tập thể. Điều này thể hiện rõ trên thực tế, khi đình công xảy ra thì việc sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ sẽ bị ngưng trệ dẫn đến thiệt hại về kinh tế là điều tất yếu. Bên cạnh đó, chính bản thân những NLĐ khi tham gia đình công cũng không nhận được lương và những lợi ích khác trong thời gian đình công. 11 Ngoài ra, theo cách thể hiện gián tiếp của ILO thì đình công có thể không xuất phát từ việc TCLĐTT giữa NLĐ và NSDLĐ mà còn có thể xuất phát từ những chính sách của nhà nước, những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của NLĐ. Nếu xem xét đình công như trên thì đình công xảy ra trên diện rộng sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế là rất lớn. Tuy nhiên theo pháp luật lao động Việt Nam thì đình công chỉ ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của NLĐ và NSDLĐ và có phạm vi hẹp. Do vậy có thể thấy đình công là biện pháp cuối cùng, bất khả kháng, quyết liệt nhất mà NLĐ có thể sử dụng để giải quyết tranh chấp với NSDLĐ vì chắc chắn hậu quả của đình công sẽ gây thiệt hại về kinh tế không ít thì nhiều cho cả hai bên. Ngoài ra, nếu đình công xảy ra trên diện rộng sẽ làm tê liệt nền kinh tế của đất nước, khiến các nhà đầu tư nước ngoài ngần ngại đầu tư vào một môi trường bất ổn. Chính vì vậy, dù pháp luật lao động Việt Nam quy định phạm vi đình công hẹp trong TCLĐTT về lợi ích nhưng những ảnh hưởng về kinh tế cũng rất lớn. Dưới góc độ pháp lý, theo pháp luật quốc tế thì đình công là quyền được pháp luật thừa nhận nhưng phải phù hợp với pháp luật của từng quốc gia cụ thể được quy định tại Khoản 1 Điều 8 Công ước quốc tế về quyền kinh tế và xã hội (IESCR) năm 1966. Đình công cũng được đề cập một cách gián tiếp Công ước 87 năm 1948 Quy định về quyền tự do hiệp hội và về quyền được tổ chức và Công ước 98 năm 1949 Quy định về áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể, của ILO. Các công ước trên mặc dù không đề cập trực tiếp đến đình công nhưng góp phần giúp cho đình công được tiến hành dễ dàng và phù hợp hơn với điều kiện thực tế của từng quốc gia. Tại một số quốc gia cụ thể quyền đình công cũng được pháp luật các nước quy định phù hợp với pháp luật của quốc gia mình như: Thổ Nhĩ Kỳ (Điều 54), Thụy Sỹ (Điều 28), Tây Ban Nha (Điều 28), Ý (Điều 40)…trong khi đó, một số nước như Thái Lan, Singapore, Ấn Độ và Maylaysia lại tìm cách hạn chế đình công bởi nhiều lí do khác nhau về an, chính trị.7 Từ đó, đình công trở thành một hiện tượng được quốc tế và các quốc gia thừa nhận thông qua các quy định pháp luật cụ thể. Đình công xuất hiện ở Việt Nam khi thực dân Pháp xâm lược nước ta hình thành nên các công xưởng, đồn điền tập trung đông đảo lực lượng NLĐ. Nhưng khi đó chưa có pháp luật của nước ta quy định về vấn đề này mà chỉ có các cuộc đình Nguyễn Quang Thành (2017), “Pháp luật quốc tế về quyền đình công và tương quan so sánh giữa pháp luật Việt Nam với một số quốc gia”, Tạp chí Luật học, số 12, tr.41. 7 12 công tự phát. Các cuộc đình công này ban đầu cũng mang đặc điểm của một cuộc đình công thông thường nhưng trong điều kiện nước ta đang bị xâm lược thì các cuộc đình công dần có yếu tố chính trị nhiều hơn. Thời điểm này nước ta chưa có các quy định về đình công, khi nước ta giành được chính quyền năm 1945 nhưng đến Sắc lệnh 29/SL năm 1947 thì đình công lần đầu tiên được đề cập. Từ thời điểm đó đến năm 1994, Việt Nam trong tình trạng chiến tranh, nền kinh tế tập trung, bị cấm vận và chưa mở cửa…nên đình công trở thành một vấn đề không được chú trọng và không diễn ra trên thực tế. Khi nước ta bắt đầu mở cửa hội nhập, nền khi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành, đình công bắt đầu diễn ra trên thực tế. Các quy định pháp luật về đình công cũng được xây dựng từ BLLĐ năm 1994 và được hoàn thiện, sửa đổi với hiện tại là BLLĐ năm 2019. BLLĐ năm 2019 có 14 điều luật quy định về vấn đề đình công có nội dung phù hợp với điều kiện Việt Nam và pháp luật quốc tế. Việt Nam cũng đã và đang tiến hành kí kết các công ước của ILO để hoàn thiện pháp luật lao động phù hợp với với pháp luật lao động quốc tế. 1.1.3. Đặc điểm của đình công Đình công có những đặc điểm tiêu biểu sau: Thứ nhất, đây là sự ngừng việc tạm thời của tập thể NLĐ. Sự ngừng việc tạm thời thể hiện là một đặc điểm đặc trưng của đình công vì đây là sự ngừng việc được pháp luật quy định và bảo vệ. Sự ngừng việc này không mang tính tự phát mà được sự thống nhất từ tập thể NLĐ khi muốn đấu tranh với NSDLĐ để đòi quyền lợi của mình. Trong mối quan hệ lao động, khi NLĐ muốn ngừng việc thì cần có sự cho phép của NSDLĐ hoặc khi chấm dứt hợp đồng lao động. Nhưng ở đình công thì sự ngừng việc này mang ý nghĩa hoàn toàn khác vì nó không cần đến sự cho phép của NSDLĐ cũng không nhằm mục đích kết thúc hợp đồng lao động được kí kết giữa hai bên. Và ngừng việc khi đình công được pháp luật quy định nên NSDLĐ không được có hành vi gây bất lợi, cản trở NLĐ tham gia đình công. Sự ngừng việc này không chỉ là sự ngừng việc của các cá nhân đơn lẻ mà là sự ngừng việc đồng loạt của tập thể NLĐ theo pháp luật lao động Việt Nam. Cụ thể pháp luật lao động Việt Nam ghi nhận sự ngừng việc đồng loạt không nhất thiết 13 phải là sự đồng ý của tất cả NLĐ mà chỉ cần có trên 50% NLĐ được lấy ý kiến đồng ý để tiến hành đình công. Mục đích của sự ngừng việc tập thể NLĐ nhằm gây sức ép với NSDLĐ để đạt được những yêu cầu mà tập thể NLĐ mong muốn. Ngoài ra, sự ngừng việc thể hiện tính chất tạm thời vì chỉ diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định. Thứ hai, sự ngừng việc trong đình công phải triệt để. Ngừng việc trong quá trình đình công của NLĐ phải triệt để, yếu tố này là một trong những dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa đình công với sự ngừng việc không triệt để như lãn công, làm việc cầm chừng của NLĐ. Đối với các hành vi ngừng việc không triệt để có thể bị xem là hành vi vi phạm hợp đồng lao động và vi phạm kỷ luật lao động8. Các hành vi lãn công, làm việc cầm chừng có cùng đặc điểm với ngừng việc của đình công là có sự ngừng việc trong một khoảng thời gian nhất định với mục đích muốn NSDLĐ đáp ứng các yêu cầu của NLĐ. Nhưng sự ngừng việc này không được pháp luật quy định nên NLĐ sẽ không được pháp luật bảo vệ. NSDLĐ hoàn toàn có thể căn cứ vào các hành vi này để xử lý kỷ luật với NLĐ hay sa thải thải NLĐ vì vi phạm hợp đồng lao động. Tính chất triệt để thể hiện sự đấu tranh quyết liệt nhất của NLĐ cũng như giúp cho NLĐ tránh những bất lợi không cần thiết từ phía NSDLĐ. Bởi lẽ, nếu NLĐ đã tuyên bố đình công nhưng vẫn đi làm để được hưởng lương hay một số quyền lợi khác vì không muốn mất thu nhập trong thời gian tham gia đình công thì NSDLĐ hoàn toàn dựa vào điều này để gây bất lợi cho NLĐ. Qua đó có thể thấy, khi NLĐ tiến hành đình công để giải quyết tranh chấp với NSDLĐ thì tập thể NLĐ sẽ hoàn toàn không tham gia làm việc dưới bất kỳ hình thức nào cho NSDLĐ nữa. Nếu không ngừng việc triệt để thì bên phía NSDLĐ sẽ dựa vào đó để xử lý kỷ luật hay có những hành vi bất lợi khác đối với NLĐ. Sự ngừng việc triệt để sẽ đe dọa tới lợi ích quan trọng nhất của NSDLĐ là lợi ích về kinh tế. Từ đó buộc NSDLĐ phải tiến hành thỏa thuận với NLĐ để giải quyết những vấn đề mà NLĐ yêu cầu. Thứ ba, sự ngừng việc trong đình công phải xuất phát từ ý chí tự nguyện của tập thể NLĐ. 8 Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình luật lao động, Nxb. Hồng Đức, tr.464. 14 Ý chí tự nguyện của tập thể NLĐ là một trong những yếu tố bắt buộc phải có khi tiến hành đình công. Khi đó thể hiện đúng thực trạng chính bản thân NLĐ cảm thấy quyền lợi không được NSDLĐ đảm bảo và NLĐ không còn cách nào khác để buộc NSDLĐ đáp ứng những yêu cầu của mình nên tự nguyện thực hiện quyền đình công. Điều này thể hiện thông qua việc lấy ý kiến của tập thể người lao động trước khi đình công và phải được một tỉ lệ nhất định thì mới được đình công. Và trong khái niệm đình công được quy định trong BLLĐ năm 2019 việc thể ý chí tự nguyện của tập thể NLĐ được quy định là một tiêu chí bắt buộc để nhận biết đình công. “Nếu một NLĐ bị những NLĐ khác ép buộc, cưỡng bức tham gia vào đình công thì người đó không phải đang sử dụng quyền đình công của bản thân mình. Bên cạnh đó, nếu đình công xảy ra do sự tác động bởi một thế lực nên phải ngừng việc tạm thời không xuất phát từ ý chí chủa quan của NLĐ thì cũng được thừa nhận theo quy định pháp luật về lao động”9. Tác giả cho thấy việc NLĐ tham gia đình công sẽ không bị tác động bởi bất kỳ lý do nào mà chỉ xuất phát từ chính mong muốn của NLĐ. Trong trường hợp vì một lí do nào đó NLĐ bị bắt buộc tham gia đình công như sự cả nể đồng nghiệp, bị ép buộc, lôi kéo…hay vì bất kỳ một lí do nào khác nhưng không xuất phát từ chính quyền lợi của NLĐ thì những trường hợp đó NLĐ không thực hiện đúng quyền đình công của mình. Và NLĐ sẽ không được pháp luật bảo vệ khi tham gia đình công trong các trường hợp này. Thứ tư, sự ngừng việc phải có tổ chức và được lãnh đạo, tổ chức bởi tổ chức đại diện NLĐ. Xuất phát từ bản chất đình công là sự ngừng việc của tập thể NLĐ, với số lượng lớn người lao động nên phải có sự lãnh đạo và tổ chức. Đình công là hoạt động có sự tham gia của đông đảo NLĐ với các hình thức khác nhau như ngừng việc tập thể và gửi văn bản yêu cầu đến NSDLĐ đáp ứng các nguyện vọng của mình. Bên cạnh đó là hình thức tụ tập đông người tại nơi sản xuất, kinh doanh của NSDLĐ với băng rôn, khẩu hiệu để nêu lên kiến nghị của họ. Đối với hình thức tập trung đông người tại nơi làm việc để đưa ra yêu sách, kiến nghị nếu không được kiểm soát bởi một tổ chức nhất định sẽ dẫn đến tình trạng NLĐ sẽ có những hành vi gây thiệt hại cho NSDLĐ. Khi quyết định tiến hành đình công thì mâu thuẫn giữa Nguyễn Quang Thành (2017), “Pháp luật quốc tế về quyền đình công và tương quan so sánh giữa pháp luật Việt Nam với một số quốc gia”, Tạp chí Luật học, số 12, tr.44. 9
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan