BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
HÀ DUY HOÀNG NAM
ĐẶT TIỀN ĐỂ BẢO ĐẢM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
ĐẶT TIỀN ĐỂ BẢO ĐẢM
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380104
Người hướng dẫn khoa học : TS. Võ Thị Kim Oanh
Học viên
: Hà Duy Hoàng Nam
Lớp
: Cao học Luật, Khóa 32
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân
tôi. Mọi lý luận, nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự tìm hiểu, phân tích
dưới sự hướng dẫn của Giáo viên hướng dẫn. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ đều
có nguồn gốc rõ ràng, bảo đảm độ tin cậy, khách quan, chính xác.
Người cam đoan
Hà Duy Hoàng Nam
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng Hình sự
CHXHCNVN : Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
TTHS
: Tố tụng Hình sự
VAHS
: Vụ án Hình sự
VNDCCH
: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
XHCN
: Xã Hội Chủ Nghĩa
CQTHTT
BPNC
: Cơ quan tiến hành tố tụng
: Biện pháp ngăn chặn
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẶT TIỀN ĐỂ BẢO
ĐẢM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM....................................... 8
1.1. Lý Luận chung về biện pháp đặt tiền để bảo đảm............................ 8
1.1.1. Khái niệm .......................................................................................... 8
1.1.2. Ý nghĩa của đặt tiền để bảo đảm ..................................................... 10
1.2. Cơ sở quy định biện pháp đặt tiền để bảo đảm trong tố tụng hình
sự Việt Nam................................................................................................ 13
1.3. Quá trình phát triển của pháp luật tố tụng hình sự về đặt tiền để
bảo đảm từ 1945 đến trước 2015 ............................................................. 15
1.3.1. Từ 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 1988 . 15
1.3.2. Từ năm 1988 đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ...................... 19
1.3.3. Từ 2003 đến trước năm 2015 .......................................................... 20
1.4. Biện pháp đặt tiền để bảo đảm trong tố tụng hình sự một số nước
trên thế giới ................................................................................................ 30
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ
BIỆN PHÁP ĐẶT TIỀN ĐỂ BẢO ĐẢM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .. 35
2.1. Quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2015 về đặt tiền để bảo đảm .. 35
2.1.1. Căn cứ áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm ............................. 35
2.1.2. Đối tượng áp dụng đặt tiền để bảo đảm ......................................... 38
2.1.3. Thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng đặt tiền để bảo đảm ...... 40
2.2. Thực tiễn áp dụng, bất cập và nguyên nhân ................................... 49
2.2.1. Thực tiễn áp dụng ........................................................................... 49
2.2.2. Hạn chế, bất cập và nguyên nhân ................................................... 56
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ĐẶT
TIỀN ĐỂ BẢO ĐẢM .................................................................................... 59
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng đặt tiền để bảo đảm ............. 59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng đặt tiền để bảo đảm ........... 61
3.2.1. Giải pháp về pháp luật .................................................................... 62
3.2.2. Giải pháp khác ................................................................................ 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm
giam, thể hiện tính nhân đạo trong tố tụng hình sự và hướng tới mục tiêu xây
dựng nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa. Dựa trên tinh thần cải cách tư
pháp của Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị trong thời
kỳ hội nhập: “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng
tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”
Biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm trong Tố tụng hình sự
không cách ly bị can, bị cáo khỏi xã hội; làm cho tâm lý bị can, bị cáo thoải
mái hơn khi đưa ra xét xử. Hơn nữa, nếu áp dụng biện pháp này có thể góp
phần làm giảm việc bắt giữ người trái pháp luật, giảm bớt các vụ án oan
sai. Đồng thời, trong thực tế cũng làm giảm sự quá tải tại các trại tạm giam,
nhà tạm giữ.
Trong BLTTHS 1988 đã đề cập đến biện pháp ngăn chặn đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm nhưng quy định chung chung và chỉ áp dụng
được đối với người nước ngoài. BLTTHS 2003 biện pháp đặt tiền hoặc tài
sản có giá trị để bảo đảm đã quy định rõ hơn, mở rộng đối tượng áp dụng,
chủ thể tiến hành. Hiện nay, biện pháp này được quy định tại điều 122
BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể hơn và rút kinh nghiệm từ thực tiễn áp
dụng BLTTHS 2003 đã bỏ đi cụm từ “hoặc tài sản có giá trị” vì thực tiễn áp
dụng nếu cho đặt tài sản có giá trị để bảo đảm thì bao gồm những loại tài sản
nào, có giá trị bao nhiêu đã gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan chức năng
khi áp dụng1. Quan điểm của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp là giảm các
biện pháp mang tính giam giữ và tăng các biện pháp không giam giữ. Tuy
nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm còn ít và khi nghiên
cứu học viên nhận thấy có các vấn đề:
Võ Thị Kim Oanh (Chủ biên) (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự năm
2015, Nhà xuất bản Hồng Đức.
1
2
Quy định có cụ thể, nhưng thực tế rất ít trường hợp được áp dụng mà
nguyên nhân chủ yếu là cơ quan tố tụng ngại, lo có thể phát sinh những
tình huống phức tạp, không đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử2. Ví
dụ vụ việc cụ thể: Vụ tai nạn nghiêm trọng ở khu vực Hàng Xanh (Q.Bình
Thạnh, TP.HCM). Khuya 21.10.2018, bà Nguyễn Thị Nga (47 tuổi, ngụ
Q.12, TP.HCM) sau khi nhậu đã điều khiển ô tô BMW chạy trên đường
Điện Biên Phủ, hướng từ Q.1 về Q.Bình Thạnh với tốc độ cao. Đến ngã tư
Hàng Xanh, xe của bà Nga tông vào nhiều xe máy đang dừng đèn đỏ và 1
taxi làm 1 người tử vong, nhiều người bị thương... Cơ quan CSĐT Công an
Q.Bình Thạnh đã khởi tố vụ án “vi phạm các quy định về tham gia giao
thông đường bộ”, khởi tố, bắt tạm giam bà Nga để phục vụ điều tra. Bị can
cùng gia đình có đề nghị được đặt tiền để tại ngoại; cơ quan tiến hành tố
tụng liên quan có xin ý kiến cấp trên, nhưng do vụ án đang được dư luận
quan tâm, việc đặt tiền bảo đảm lại chưa thực hiện bao giờ nên các cơ quan
tiến hành tố tụng ngại áp dụng. Tháng 02/2019 cơ quan điều tra Công an
Quận Bình Thạnh thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi
khỏi nơi cư trú, đồng thời có lệnh cấm xuất cảnh đối với bà Nga. Lý do bị
can được tại ngoại là: “có nơi cư trú rõ ràng, được bảo lãnh của gia đình, có
7 bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can, đồng thời bà
Nga tích cực bồi thường cho bị hại nên không nhất thiết phải tạm giam.
Như vậy, cơ quan điều tra Công an Quận Bình Thạnh đã không áp dụng
biện pháp đặt tiền để bảo đảm mà quyết định áp dụng biện pháp cấm đi
khỏi nơi cư trú. Đây là một lựa chọn không thể khác hơn vì sau khi cân
nhắc kỹ, xét thấy việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú mang lại
hiệu quả cao hơn, đảm bảo hơn khi có sự kết hợp giám sát bị can từ chính
quyền địa phương3.
Đối tượng đặt tiền để bảo đảm còn hẹp, theo quy định hiện nay chỉ là
bị can, bị cáo hoặc người thân thích của họ4. Vụ việc cụ thể: Cuối năm
Phan Thương, Đặt tiền để được tại ngoại, vì sao ít áp dụng?, https://thanhnien.vn/thoi-su/dat-tien-de-duoctai-ngoai-vi-sao-it-ap-dung-1090875.html, (truy cập ngày 25/02/2020).
3
Phạm Thị Tuyết Mai (2020), Biện pháp đặt tiền để bảo đảm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Kỷ yếu hội
thảo biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự ngày 29/7/2020.
4
Phạm Thị Tuyết Mai (2020), tlđd (3).
2
3
2015, ông Byron McLaughlin (61 tuổi, quốc tịch Diminicana) từng có đơn
cầu cứu đến Báo Thanh niên về trường hợp thuộc cấp của mình là người
Việt Nam, bị tạm giam điều tra về hành vi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản”. Việc thuộc cấp bị tạm giam đã khiến 4 công ty của ông tại Bình
Dương phải ngưng sản xuất và gần 700 công nhân tạm thời không có việc
làm. Để hạn chế thiệt hại do hành trình tố tụng kéo dài, ông Byron
McLaughlin tự nguyện nộp 3 tỉ đồng (ông cho rằng tương đương với số tiền
tranh chấp) vào tài khoản tạm giữ của cơ quan điều tra; đồng thời có đơn xin
đặt tiền để bảo đảm thay đổi biện pháp tạm giam cho tại ngoại, nhưng cơ
quan tiến hành tố tụng không chấp nhận5. Trong vụ việc trên, đối tượng xin
đặt tiền để bảo đảm không phải bị can cũng không phải là người thân thích
của bị can như quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, trong xã hội
ngày càng phát triển thì các quan hệ mới sẽ hình thành và các vấn đề mới
phát sinh đều có thể xảy ra, chẳng hạn như ví dụ nêu trên. Do đó, quy định
của pháp luật phải hướng tới thực tế cuộc sống. Như vậy, cần bổ sung vào
điều kiện về đối tượng đặt tiền để bảo đảm không chỉ là bị can, bị cáo hoặc
người thân thích của họ, mà có thể áp dụng khi có đơn yêu cầu của bị can, bị
cáo và có cam đoan của thủ trưởng cấp trên của bị can, bị cáo (nếu thủ
trưởng cấp trên là người nước ngoài thì họ phải là tổng giám đốc, giám đốc)
đồng thời kèm theo cam đoan đó là khoản tiền đặt phải nhiều hơn từ 3 lần
trở lên so với mức tiền mà pháp luật đã quy định.
Chế tài quy định trong trường hợp bị can, bị cáo vi phạm cam đoan tại
Khoản 5 điều 122 bộ luật tố tụng hình sự 2015 “Nếu vi phạm thì số tiền đã
đặt bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước” chưa đủ tính răn đe. Trong trường
hợp đối với một số hành vi gây nguy hiểm lớn cho xã hội, bị can, bị cáo thì
chế tài này chưa đủ tính răn đe cho bị can, bị cáo; rất có khả năng họ sẵn sàng
chấp nhận mất số tiền đã đặt. Như vậy, ngoài quy định về chế tài nêu trên còn
quy định thêm việc bị can, bị cáo vi phạm cam đoan về việc thực hiện nghĩa
vụ của mình cũng được xem là một tình tiết tăng nặng đối với bị can, bị cáo
khi đưa vụ án ra xét xử.
Phan Thương, Đặt tiền để được tại ngoại, vì sao ít áp dụng?, https://thanhnien.vn/thoi-su/dat-tien-de-duoctai-ngoai-vi-sao-it-ap-dung-1090875.html, (truy cập ngày 25/02/2020).
5
4
Quy định tại khoản 1 điều 122 BLTTHS 2015: “Căn cứ tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị
can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ
hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm”. Đối tượng được áp dụng
biện pháp đặt tiền để bảo đảm căn cứ vào nhân thân người phạm tội nhưng thực
tế sẽ có trường hợp: Nhân thân đủ điều kiện nhưng căn cứ vào loại tội phạm là
tội phạm rất nghiêm trọng. Do đó, nếu áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm
trong trường hợp này thì sẽ khó khăn cho công tác quản lý khi tội phạm rất
nghiêm trọng này vi phạm cam đoan về nghĩa vụ đặt tiền6. (Ví dụ: Nếu bị can,
bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội thì sẽ tốn thời gian, công sức truy nã).
Xuất phát từ các lý do trên, để góp phần hoàn thiện về mặt pháp lý và
nâng cao hiệu quả áp dụng thực tiễn. Tôi đã chọn đề tài “Đặt tiền để bảo
đảm theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ
luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các loại sách chuyên khảo:
Sách Bình luận Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 của nhóm tác giả
Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia,
năm 2018. Sách này đề cập đến một số kết quả nghiên cứu và sự trải nghiệm
trên các cương vị công tác khác nhau, các tác giả đã diễn giải một cách cụ thể,
cô đọng tinh thần và nội dung của từng Điều luật trong đó đã có sự phân tích
đánh giá Điều 122 “Đặt tiền để bảo đảm”. Bên cạnh đó, các tác giả còn giải
quyết các tình huống phát sinh từ thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ thông tin
mà sách cung cấp, học viên có thể đưa ra được một số nhận định và đánh giá
về biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Do vậy, cuốn sách có nhiều thông tin giá trị
có thể làm tài liệu nghiên cứu đối với luận văn.
Sách Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự
năm 2015, Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Nhà xuất bản Hồng Đức, năm 2016.
Nội dung quyển sát gồm hai phần: Phần thứ nhất tổng hợp bài viết của nhiều
6
Phạm Thị Tuyết Mai (2020), tlđd (3).
5
tác giả trình bày, phân tích và đánh giá những chế định pháp lý nổi bật mới
được ghi nhận, được sửa đổi trong bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Điển
hình, bài viết liên quan tới đề tài là “Một số điểm mới trong các quy định về
biện pháp ngăn chặn của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015” của TS. Võ Thị
Kim Oanh và Nghiên cứu sinh Trịnh Duy Thuyên. Phần thứ hai là so sánh nội
dung Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
giúp tác giả có cơ sở trong việc đối chiếu hai bộ luật này về biện pháp đặt tiền
để bảo đảm. Do vậy, cuốn sách này cũng có nhiều thông tin giá trị có thể làm
tài liệu nghiên cứu đối với luận văn.
Giáo trình:
Sách Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam (tái bản có sủa đổi, bổ
sung), Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức,
năm 2018. Tài liệu này mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát chung về
biện pháp đặt tiền để bảo đảm mà không tập trung nghiên cứu chuyên sâu về
vấn đề mà luận văn đặt ra. Tuy nhiên, cuốn sách này chứa nhiều thông tin nền
tảng giá trị có thể làm tài liệu nghiên cứu đối với luận văn.
Các bài viết tạp chí, tham luận hội thảo:
Bảo vệ con người bằng pháp luật tố tụng hình sự, bài viết của Tiến sỹ
Nguyễn Ngọc Chí, tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội (2007); Nguyễn
Văn Tuấn, Một số ý kiến về việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trí, tạp
chí tòa án nhân dân số 01 tháng 01 năm 2009.; Các bài viết này chủ yếu đề
cập đến những quy định về tổng quát của biện pháp đặt tiền để bảo đảm, chỉ
ra một số vướng mắc và nêu ra một số giải pháp về nội dung mà luận văn
muốn nói đến chứ chưa đi sâu vào phân tích cụ thể về lý do tại sao có tâm lý
ngại áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm. Tuy nhiên, các bài viết, tạp chí
trên cũng có nhiều nội dung để tác giả nghiên cứu phục vụ cho việc nghiên
cứu đề tài luận văn của học viên.
Phạm Thị Tuyết Mai, Biện pháp đặt tiền để bảo đảm theo luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
ngày 29/7/2020. Bài viết đã phân tích về quy định đặt tiền để bảo đảm theo
6
quy định hiện hành và đã chỉ ra một số điểm bất cập trong thực tiễn áp dụng
biện pháp đặt tiền để bảo đảm; kiến nghị một số giải pháp nhằm tháo gỡ các
bất cập này. Bài viết đã cung cấp nhiều ý tưởng cho quá trình nghiên cứu luận
văn của học viên.
Luận văn:
Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Lê Thị Kim Âu, Người hướng dẫn: TS.
Nguyễn Duy Thuân; Biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt nam : Khóa luận tốt nghiệp / Đường
Nguyễn Thanh Thảo; Người hướng dẫn: ThS. Lê Huỳnh Tấn Duy. Luận văn
tham khảo đã cung cấp những cơ sở lý luận về biện pháp đặt tiền để bảo đảm.
Luận văn trên được nghiên cứu khi luật tố tụng hình sự 2015 chưa ra đời nên
chưa có những phân tích theo luật mới. Tuy nhiên, nguồn tham khảo này cũng
vô cùng quý giá và gợi mở cho học viên nhiều ý tưởng.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp đặt tiền để
bảo đảm trong tố tụng hình sự và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả áp dụng biện pháp này.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp
nghiên cứu
Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu về không gian:
Luận văn khảo sát thực tiễn biện pháp đặt tiền để bảo đảm trong Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu về thời gian:
Số liệu thu thập phục vụ nghiên cứu biện pháp đặt tiền để bảo đảm
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được áp dụng trên lãnh thổ Việt Nam
từ năm 2015 cho đến hiện nay.
7
Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận
Luận văn được trình bày trên quan điểm nhận thức chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử
dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của
chủ nghĩa Mac-Lênin. Bên cạnh đó, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học: được sử dụng ở các
chương của luận văn nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa về quá
trình chứng minh của Tòa án: thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: được sử dụng ở các chương của
luận văn nhằm đánh giá quá trình phát triển của Bộ Luật Tố tụng Hình sự Việt
Nam. Từ đó đánh giá được những điểm mới, tiến bộ cũng như những vướng
mắc của BLTTHS hiện hành so với BLTTHS trước đây về việc thu thập,
kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự.
Phương pháp nghiên cứu thống kê: dùng để thống kê các số liệu của
ngành Tòa án thông qua Báo cáo tổng kết ngành Tòa án; số liệu từ Cục thống
kê tội phạm và công nghê thông tin của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao;
một số số liệu có liên quan khác nhằm làm rõ các vướng mắc được nêu ra
trong luận văn.
Phương pháp nghiên cứu tình huống: nghiên cứu các án điển hình
liên quan đến việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của Tòa án trong giai
đoạn XXST nhằm chứng minh tầm quan trọng khi đưa ra được các quy định
chặt chẽ về việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của TA trong giai đoạn
XXST vụ án hình sự.
8
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẶT TIỀN ĐỂ BẢO ĐẢM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lý Luận chung về biện pháp đặt tiền để bảo đảm
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là chế định trong pháp luật
tố tụng hình sự. Mục đích của biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là để
kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ
gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc
để bảo đảm thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm,
cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.7
Trong luật tố tụng hình sự đưa ra mục đích của biện pháp ngăn chặn
mà không đưa ra khái niệm tổng quát. Theo từ điển bách khoa, khái niệm
biện pháp ngăn chặn được định nghĩa như sau: “Biện pháp ngăn chặn là
biện pháp có tính bắt buộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
đối với bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhằm phòng
ngừa và ngăn chặn hành vi cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi
hành án, bảo đảm thực hiện đúng đắn các nhiệm vụ khác của tố tụng hình
sự”8. Như vậy, với định nghĩa này thì biện pháp ngăn chặn là biện pháp
mang tính cưỡng chế tố tụng hình sự nên biện pháp này không mang tính
trừng trị hay cải tạo đối với bị can, bị cáo mà hướng đến mục đích ngăn
chặn các hành vi cản trở hoạt động, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Qua đó, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, xử lý thỏa đáng,
nghiêm minh.9
Điều 109 Luật tố tụng hình sự 2015
Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Hà Nội, tr.225
9
Lê Thị Kim Âu (2011), Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ luật học, Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Duy Thuân
7
8
9
Theo từ điển Luật học: “Biện pháp cưỡng chế là biện pháp cưỡng chế
về mặt tố tụng do điều tra viên, kiểm sát viên và tòa án áp dụng đối với bị can,
bị cáo nếu có đủ căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử, cản trở việc xác minh sự thật về vụ án hoặc sẽ tiếp tục hoạt
động phạm tội, cũng như để bảo vệ việc thi hành án”10
Theo tác giả Nguyễn Duy Thuân: “Biện pháp ngăn chặn là những biện
pháp cưỡng chế trong TTHS bao gồm bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm do người có thẩm
quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị bắt, bị tạm giữ nhằm ngăn chặn
họ tiếp tục phám tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử”11. Thi hành án là một khâu quan trọng nhưng khái niệm này không
ghi nhận, hành vi phạm tội được kết tội nhưng không được thi hành thì mục
đích của TTHS không đạt được.
Dựa vào phân tích trên, khái niệm tổng quát có thể được định nghĩa
như sau: “Biện pháp ngăn chặn là cách thức thực hiện tính quyền lực nhà
nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục được
pháp luật tố tụng hình sự quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi người
tham gia tố tụng buộc họ phải thực hiện nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn
chặn bị can, bị cáo cản trở, gây khó khăn cho các hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án, góp phần bảo vệ lợi ích hợp pháp của tổ
chức, công dân.”
Khái niệm đặt tiền để bảo đảm:
Chế định đặt tiền để bảo đảm đã có lịch sử từ năm 1988 nhưng hiện nay
vẫn chưa có khái niệm được quy định rõ ràng cả trong luật tố tụng hình sự và
các tài liệu khoa học pháp lý. Dựa vào khoản 1 điều 122 luật tụng hình sự
2015 quy định: “Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm
giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân
và tình trạng tài sản của bị”
10
11
Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách khoa Hà Nội 1999, tr.49
Nguyễn Duy Thuân (2006), Các biện pháp ngăn chặn trong TTHS, Trường Đại học An ninh nhân dân, tr.9
10
Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm
giam, thể hiện tính nhân đạo trong tố tụng hình sự và hướng tới mục tiêu xây
dựng nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ Nghĩa. Dựa trên tinh thần cải cách tư
pháp của Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị trong thời
kỳ hội nhập: “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng
tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình
phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm”
Biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm trong Tố tụng hình sự
không cách ly bị can, bị cáo khỏi xã hội; làm cho tâm lý bị can, bị cáo thoải
mái hơn khi đưa ra xét xử. Hơn nữa, nếu áp dụng biện pháp này có thể góp
phần làm giảm việc bắt giữ người trái pháp luật, giảm bớt các vụ án oan
sai. Đồng thời, trong thực tế cũng làm giảm sự quá tải tại các trại tạm giam,
nhà tạm giữ.
1.1.2. Ý nghĩa của đặt tiền để bảo đảm
Quy định về biện pháp ngăn chặn nói chung hay đặt tiền để bảo đảm
nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ý
nghĩa được thể hiện ở chỗ sau12:
- Biện pháp ngăn chặn góp phần đảm bảo cho hoạt động của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng được thuận tiện, việc chứng minh vụ án đạt kết
quả cao. Quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải
thực hiện nhiều hoạt động tố tụng khác nhau nhằm thu thập chứng cứ chứng
minh tội phạm, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật. Quá trình này đòi hỏi sự nghiêm túc của người tiến hành
tố tụng mà còn dựa vào sự tích cực hợp tác của những người tham gia tố tụng
như bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng nhưng không phải lúc nào
người tham gia tố tụng cũng tự nguyện thực hiện nghĩa vụ. Nhiều trường hợp
những người tham gia tố tụng còn cố tình trốn tránh hoặc gây cản trở cho các
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2020), Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Hồng ĐứcHội luật gia Việt Nam, tr.285
12
11
hoạt động tố tụng. Do đó, để ngăn chặn những hành vi gây cản trở này, pháp
luật quy định cơ quan có thẩm quyền được áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong những trường hợp cần thiết, đối với những đối tượng nhất định nhằm
bảo đảm cho hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành thuận lợi, hiệu quả, vụ
án được giải quyết nhanh chóng và đúng đắn. Qua đó, góp phần thực hiện có
hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, thể hiện thái độ nghiêm
khắc của Nhà nước với người có hành vi gây thiệt hại đến lợi ích xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
- Biện pháp ngăn chặn góp phần hạn chế sự xâm phạm đến quyền cơ bản
của công dân. Biện pháp ngăn chặn không phải là hình phạt và hoàn toàn
không có mục đích trấn áp, trừng trị người bị áp dụng. Tuy nhiên, việc áp dụng
biện pháp này xâm phạm trực tiếp các quyền cơ bản của công dân đã được hiến
pháp quy định tại Điều 20 Hiến pháp 2013 “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam,
giữ người do luật định.”. Nên đòi hỏi phải có các bảo đảm nhằm hạn chế sự
lạm quyền từ phía các chủ thể tiến hành tố tụng. Đây là nguyên tắc pháp chế
đối với các hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Biện pháp ngăn chặn
không phải biện pháp được áp dụng tràn lan mà phải thật sự là kết quả của việc
cân nhắc, so sánh và giải quyết mâu thuẫn giữa yêu cầu của quá trình giải quyết
vụ án hình sự với sự tước bỏ tạm thời hay hạn chế các quyền cơ bản của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người có thẩm quyền phải tiến hành các biện pháp
có thể trước khi sử dụng các biện pháp ngăn chặn, “thường xuyên kiểm tra tính
hợp pháp và cần thiết của biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi
những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần
thiết13”. Việc tùy tiện áp dụng những biện pháp này như là bắt oan, bắt không
đúng thủ tục, sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá thời hạn luật định là
13
Điều 8 BLTTHS năm 2015
12
những vi phạm pháp luật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Tùy vào mức độ vi phạm mà có thể chịu trách nhiệm
bồi thường với thiệt hại gây ra cho người bị oan. Vì vậy, pháp luật đã quy định
chặt chẽ căn cứ, chủ thể, đối tượng và trình tự thủ tục áp dụng biện pháp ngăn
chặn. Chủ thể tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiệm ngặt quy định nhằm bảo
đảm hiệu quả áp dụng các biện pháp này trong việc phát hiện, khám phá và
phòng ngừa tội phạm. Đồng thời góp phần bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân, tránh sự xâm phạm tùy tiện, trái pháp luật. Đặt tiền để bảo đảm thể hiện
nguyên tắc nhân đạo theo tư tưởng xuyên suốt, bao trùm mang tính chủ đạo
trong pháp luật Nhà nước ta. Điều 13 Luật tố tụng hình sự Việt Nam quy định:
“Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật.” Như vậy, một người được xem là có tội hay không khi có
bản án có hiệu lực pháp luật, trong các giai đoạn tố tụng trước khi đưa ra xét xử
thì người bị buộc tội vẫn chưa là người phạm tội và họ cần có đầy đủ quyền
của một công dân. Sự nhân đạo thể hiện ở chỗ khi áp dụng biện pháp này thì
người bị buộc tội không bị tước đoạt tự do mà họ vẫn sống cùng với gia đình,
người thân. Thực tế có nhiều trường hợp gia đình khánh kiệt tài sản vì bị bắt,
con cái không có người nuôi dưỡng; cuộc sống của chúng sẽ đi theo một hướng
khác khi cha/ mẹ bị bắt, tâm lý trẻ em thường dễ bị ảnh hưởng bởi những sự kỳ
thị dư luận. Hay trường hợp người bị buộc tội có thể là chủ doanh nghiệp làm
ăn phát đạt, nếu bắt người này tạm giam thì sẽ có những hậu quả xấu cho gia
đình, những người lao động mà đồng lương phụ thuộc vào người chủ doanh
nghiệp. Mặc dù, bản chất pháp luật là mang tính công bằng, không có sự phân
biệt đối với bất kỳ ai thực hiện hành vi phạm pháp. Tuy nhiên, đối với một số
đối tượng nói trên nếu bắt họ tạm giam thì sẽ có những hậu quả thiệt hại về lợi
ích cho những đối tượng liên quan đến họ, ví dụ như: Nếu người chủ doanh
nghiệp không bị tạm giam thì họ có thể ký kết các hợp đồng kinh tế tạo công ăn
việc làm, thu nhập cho những người lao động họ thuê. Đây là khía cạnh văn
minh và nhân đạo của đặt tiền để bảo đảm14.
14
Lê Thị Kim Âu (2011), tlđd (9).
13
Ngoài ra, đặt tiền để bảo đảm còn có ý nghĩa là biện pháp ngăn chặn
dùng để thay thế biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự do cơ quan tiến
hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi họ hoặc người thân thích dùng
tiền để cam đoan bị can, bị cáo sẽ không vi phạm nghĩa vụ luật định15. Ngoài
ra, thực tế hiện nay; nhà tạm giữ, tạm giam ở các địa phương đang trong tình
trạng quá tải; việc áp dụng đặt tiền để bảo đảm cho bị can, bị cáo tại ngoại sẽ
giảm gánh nặng cho Nhà nước.
1.2. Cơ sở quy định biện pháp đặt tiền để bảo đảm trong tố tụng
hình sự Việt Nam
Căn cứ điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự,
kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến
pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Quy
định này đã thể hiện sự công nhận, tôn trọng, bảo vệ, cam kết của Việt Nam
đối với cộng đồng quốc tế trong đảm bảo quyền con người, quyền tự do công
dân. Quyền này chỉ bị hạn chế với hai điều kiện: Khi thật cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng và phải được quy định trong luật. Cũng tại điều 20 Hiến pháp
2013 khẳng định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Không ai bị bắt nếu không có
quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ người do
luật định…”. Như vậy, căn cứ vào Hiến pháp 2013 đặt tiền để bảo đảm được
quy định nhằm góp phần hạn chế sự xâm phạm đến quyền cơ bản của công
dân. Đặt tiền để bảo đảm không phải là hình phạt và hoàn toàn không có mục
đích trấn áp, trừng trị người bị áp dụng.
15
Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2020), tlđd (12), tr.20
14
Ngoài ra, căn cứ vào điều 10 Công ước quốc tế về quyền dân sự và
chính trị (ICCPR) quy định “những người bị tước tự do phải được đối xử
nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con người”; Khoản 2 Điều
này quy định: “a) Trừ những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được
giam giữ tách biệt với những người đã bị kết án và phải được đối xử theo
chế độ riêng, phù hợp với quy chế dành cho những người bị tạm giam. b)
Những bị can chưa thành niên phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn
và phải được đưa ra xét xử càng sớm càng tốt. Điều 5 Tuyên ngôn quốc tế về
quyền con người (UDHR) quy định “không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử
phạt một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm”; Điều 7 Công
ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) quy định “không ai có thể
bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân
phẩm; Điều 9 Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (UDHR) quy định
“không ai bị bắt, giam giữ hay lưu đày một cách tùy tiện”; Điều 9 Công ước
quốc tế về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) quy định “mọi người có quyền
hưởng tự do và an toàn cá nhân, không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ”;
Khoản 2, điều 20 Hiến pháp 2013 hiến định và cụ thể hóa “Không ai bị bắt
nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn
của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt,
giam, giữ người do luật định”. Từ những quy định trong Công ước quốc tế
về quyền dân sự và chính trị (ICCPR) thì đặt tiền để bảo đảm cần thiết phải
được quy định để bảo đảm các quyền dân sự của con người, khi không tước
đi sự tự do của người bị buộc tội nhưng có ràng buộc nghĩa vụ nếu như họ vi
phạm nghĩa vụ theo luật định.
Hơn nữa, tuân thủ theo nguyên tắc nhân đạo tư tưởng xuyên suốt, bao
trùm mang tính chủ đạo trong pháp luật Nhà nước ta.16 Điều 13 Luật tố tụng
hình sự Việt Nam quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.” Như vậy, một người
được xem là có tội hay không khi có bản án có hiệu lực pháp luật, trong các
16
Lê Thị Kim Âu (2011), tlđd (9).
- Xem thêm -