Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện gia bình tỉnh bắc ninh...

Tài liệu đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện gia bình tỉnh bắc ninh

.PDF
94
148
113

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THAO ĐÀO TẠO CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở HUYỆN GIA BÌNH TỈNH BẮC NINH Ngành: Quản trị kinh doanh Mã số : 60.34.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ TUẤN HƯNG HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. TÊN TÁC GIẢ NGUYỄN THỊ THAO MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ CẤP HUYỆN .................................................................... 5 1.1. Khái luận về công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện ............................... 5 1.2 Khái niệm đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện. nội dung, hình thức và phương pháp đào tạo ............................................................................................................11 1.3. Bài học kinh nghiệm đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở một số địa phương .............................................................................................................................. 28 Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ CỦA HUYỆN GIA BÌNH TỈNH BẮC NINH ...................................... 34 2.1. Khái quát chung về huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh ................................................... 34 2.2. Thực trạng đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế của huyện gia bình tỉnh bắc ninh.............................................................................................................................. 36 2.3. Đánh giá chung về đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh ............................................................................................................ 58 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ Ở HUYỆN GIA BÌNH TỈNH BẮC NINH.. 67 3.1. Phương hướng đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình đến năm 2020..................................................................................................................... 67 3.2. Giải pháp chủ yếu đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình ................................................................................................................................... 71 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 81 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Diễn biến số lượng cán bộ, công chức, viên chức theo khối giai đoạn 2012 – 2016. ................................................................................................................. 36 Bảng 2.2: Số lượng công chức QLNN của huyện Gia Bình .............................. 37 Bảng 2.3: Số lượng công chức QLNN về kinh tế của huyện Gia Bình .................... 38 Bảng 2.4: Cơ cấu công chức quản lý nhà nước huyện Gia Bình ........................ 39 Bảng 2.5: Cơ cấu công chức QLNN về kinh tế huyện Gia Bình ........................ 41 Bảng 2.6: Số lượng, cơ cấu công chức QLNN về kinh tế huyện Gia Bình so sánh với đội ngũ công chức QLNN của huyện năm 2016 .................................................... 41 Bảng 2.7. Trình độ đào tạo đội ngũ công chức QLNN huyện Gia Bình giai đoạn 2012- 2016 .................................................................................................................... 42 Bảng 2.8: Trình độ đào tạo đội ngũ công chức QLNN về kinh tế huyện Gia Bình giai đoạn 2012 – 2016 ................................................................................................... 44 Bảng 2.9: Chất lượng công chức QLNN về kinh tế huyện Gia Bình so sánh với công chức QLNN của huyện năm 2016 ........................................................................ 46 Bảng 2.10: Bảng tổng hợp chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức QLNN về kinh tế ........................................................................................................................... 48 Bảng 2.11: Kết quả đánh giá mức độ phù hợp của công tác đào tạo,bồi dưỡng cán bộ, công chức QLNN về kinh tế cấp huyện ........................................................... 50 Bảng 2.12: Một số mục tiêu của các chương trình đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ, CC QLNN về kinh tế ở huyện Gia Bình ...................................................................... 53 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, cùng với vốn khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực được thừa nhận như một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia. Đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính Nhà nước là những người trực tiếp tham mưu cho chính quyền các cấp xây dựng, tổ chức và triển khai công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển kinh tế - xã hội, là nhân tố quyết định hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước. Do vậy cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước về kinh tế là một trong những nội dung của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2005 - 2015. Tại thời điểm cuối của giai đoạn nhìn về chặng đường đã qua, có thể nói, công tác đào tạo, bồi dưỡng đã có những bước tiến rõ rệt, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ công chức. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng hiện nay vẫn còn bộc lộ những hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trước yêu cầu đổi mới toàn diện cùng với xu thế hội nhập, vai trò của công chức, đặc biệt là công chức quản lý nhà nước về kinh tế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về năng lực chuyên môn lẫn phẩm chất chính trị đạo đức cách mạng trong giai đoạn hiện nay để gánh vác vận mệnh đất nước trở thành khâu then chốt và cấp thiết. Gia Bình là huyện được tái lập từ tháng 9 năm 1999, nằm ở xa trung tâm tỉnh kinh tế chậm phát triển và sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Đội ngũ công chức QLNN về kinh tế với số lượng còn thiếu nhiều so với chỉ tiêu biên chế được giao, trình độ chuyên môn, năng lực, kỹ năng hành chính còn nhiều hạn chế. Mục tiêu mà Đại hội Đảng bộ huyện Gia Bình lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015 - 2020, đã đặt ra: Tiếp tục đẩy mạnh công tác qui hoạch phát triển kinh tế- xã hội; tăng cường đầu tư đào tạo kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội; điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn đầu tư phát triển nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo hướng 1 hiện đại. Đến năm 2020 tỷ trọng nông nghiệp chiếm 26,3%, công nghiệp- đào tạo cơ bản chiếm 45,3%, dịch vụ chiếm 37,4% [4, tr 20]. Để thực hiện được mục tiêu đó, đòi hỏi chất lượng công chức QLNN về kinh tế của huyện phải được nâng cao đáp ứng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ở địa phương. Xuất phát từ thực tế trên, tác giả chọn đề tài: “Đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Quản trị kinh doanh. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề đào tạo, bỗi dưỡng cán bộ công chức nói chung và công chức quản lý nhà nước về kinh tế nói riêng là công tác quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Đã có nhiều công trình được công bố dưới những góc độ, mức độ, hình thức thể hiện khác nhau, tiêu biểu của các tác giả. - Nghiên cứu của GS.TSKH Nguyễn Minh Đường (2013) : “ Đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh mới”. Nội dung bài viết hướng vào việc lý giải sự cần thiết phải đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh mới. Trong đó có đề xuất một số định hướng về đào tạo nhân lực nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới và thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Đỗ Nguyễn Quang Minh( 2014): Đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại Sở Lao động thương binh và xã hội Tỉnh Đồng Pháp. Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh- Đại học kinh tế Quốc dân. Tác giả đã đưa ra những phân tích từ lý luận, thực trạng và giải pháp cho việc đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tại một cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực lao động thương binh xã hội cấp tỉnh là sở Lao động thương binh và xã hội tại tỉnh Đồng Tháp. Phân tích mang tính xem xét chung và cho toàn bộ đội ngũ nhân lực ở cơ quan Sở trong đó bao gồm cả cán bộ, công chức, viên chức. - Luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh Đặng Thị Hương(2010): “ Đào tạo cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế”. Luận án đã hệ thống cơ sở lý luận về đào tạo cán bộ quản lý trong các 2 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, phân tích thực trạng đào tạo cán bộ quản lý của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam giai đoạn 2006- 2010, đồng thời đề xuất một số giải pháp hoàn thiện đào tạo cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Nội dung Luận án chỉ đề cập đến đối tượng cán bộ quản lý tại doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, với các biện pháp đào tạo nguồn nhân lực trong doanh nghiêp. Nhìn chung, các bài viết, công trình trên đã đưa ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cán bộ, công chức cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tiếp cận từ góc độ đào tạo công chức quản lý nhà nước cấp huyện ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Do đó việc nghiên cứu đề tài“ Đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh” sẽ vẫn còn dư địa cho việc phân tích nghiên cứu. Đặc biệt hơn nữa, đây là địa bàn gắn với vị trí công việc hiện tại của học viên nên điều này sẽ càng mang lại không chỉ ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc cho công tác đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá đúng thực trạng, đề xuất giải pháp đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Hệ thống hóa và làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện ở Việt Nam. + Phân tích thực trạng công chức quản lý nhà nước về kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh; đánh giá mặt được, chưa được và xác định nguyên nhân. + Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm đào tạo hiệu quả công chức quản lý nhà nước về kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Là hoạt động đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. - Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Nghiên cứu giới hạn trong phạm vi huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh 3 Về thời gian: Nghiên cứu được thực hiện việc thống kê, đánh giá đối với hoạt động đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin. - Phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, hệ thống, so sánh; tùy từng nội dung cụ thể của Luận văn sẽ có phương pháp nghiên cứu cụ thể. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Góp phần hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước về đào tạo công chức nói chung, công chức QLNN về kinh tế nói riêng. Nêu ra quan điểm về khái niệm, đặc điểm của công chức QLNN về kinh tế; từ đó xác định các yêu cầu và nội dung đào tạo công chức QLNN về kinh tế đáp ứng công cuộc cải cách hành chính hiện nay của huyện Gia Bình. Đề xuất một số các giải pháp có giá trị thực tiễn cao nhằm mục đích đào tạo công chức QLNN về kinh tế của huyện Gia Bình đảm bảo chất lượng, số lượng và cơ cấu hợp lý. Làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan làm công tác cán bộ, cơ quan nghiên cứu chính sách công chức QLNN về kinh tế cấp huyện. Luận giải sự cần thiết phải đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn hiên nay. Đánh giá đúng thực trạng công chức quản lý nhà nước về kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. Đề xuất các giải pháp đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu gồm 3 chương cụ thể như sau: Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp Huyện. Chương 2: Thực trạng đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. 4 Chương 3: Phương hướng và giải pháp đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO CÔNG CHỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ CẤP HUYỆN 1.1. Khái luận về công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện 1.1.1. Khái niệm công chức Công chức là một trong những bộ phận quan trọng của bộ máy nhà nước, là nhân tố bảo đảm cho việc thực hiện các định hướng phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Trên thế giới chế độ công chức đã ra đời từ hàng trăm năm nay. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, văn hoá, lịch sử, xã hội của mỗi quốc gia, lãnh thổ khác nhau nên quan niệm về công chức cũng không giống nhau. Luật Công chức Cộng hòa Liên bang Đức năm 1977 quy định: “các công chức Cộng hòa Liên bang Đức đều là những nhân viên làm việc trong cơ quan nhà nước, trong các cơ quan, tổ chức văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và nghiên cứu khoa học quốc gia gồm: nhân viên các tổ chức công, nhân viên công tác trong các xí nghiệp nhà nước, các công chức làm việc trong các cơ quan Chính phủ, nhân viên lao động công, giáo sư đại học, giáo viên trung học hay tiểu học, bác sĩ, hộ lý bệnh viện, nhân viên lái xe lửa…” [18, tr.54] Theo Điều lệ tạm thời về công chức nhà nước của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, “công chức nhà nước bao gồm công chức lãnh đạo và không lãnh đạo và phải thông qua một chế độ tuyển dụng hết sức nghiêm ngặt. Chức danh không lãnh đạo (công chức nghiệp vụ) bao gồm: Cán sự, chuyên viên, chuyên viên tổ trưởng, chuyên viên tổ phó, trợ lý chuyên viên nghiên cứu, chuyên viên nghiên cứu, trợ lý chuyên viên thanh tra, chuyên viên thanh tra. Chức danh lãnh đạo gồm: Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó thủ tướng Quốc vụ viện; chức Trưởng, phó cấp bộ, cấp tỉnh; chức phó cấp vụ, cấp sở; trưởng, phó phòng (trong các vụ, sở, huyện); Tổ trưởng, tổ phó; Trưởng, phó cấp xã”. [18, tr.55]. Hiện nay, Trung quốc đã bỏ chế độ công chức theo chức nghiệp mà chuyển sang công chức theo chế độ hợp đồng. Quy định trên cho thấy phạm vi khái niệm công chức theo Luật Cộng hòa Liên bang Đức cũng như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa có điểm hẹp hơn so với khái niệm này 6 trong pháp luật nước ta. Sở dĩ vậy là vì phạm trù công chức của ta không giới hạn trong phạm vi nền hành chính nhà nước mà nó bao hàm cả hệ thống chính trị. Ở nước Pháp, “Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức, bao gồm cả trung ương và địa phương nhưng không kể đến các công chức địa phương thuộc các hội đồng thuộc địa phương quản lý”. [15, tr.228] Việt Nam, công chức là một thuật ngữ được dùng từ rất sớm trong quản lý nhà nước. Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã quy định về quy chế công chức Việt Nam. Tại Điều 1 nêu khái niệm công chức là: “những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính Phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Do hoàn cảnh kháng chiến sau đó, nên tuy không có văn bản nào bãi bỏ Sắc lệnh 76/SL nhưng trên thực tế các nội dung của quy chế đó không được áp dụng. Sau ngày giải phóng miền Nam 30/4/1975, thống nhất đất nước, chúng ta thực hiện chế độ cán bộ trên phạm vi cả nước, lấy người cán bộ làm trung tâm. Theo đó, tất cả những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp nhà nước, nông trường, lâm trường và lực lượng vũ trang đều được gọi chung trong một cụm từ là “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước”. Khái niệm này dùng chung cho tất cả mọi người làm việc cho nhà nước, không có sự phân biệt nên đội ngũ này rất đông đảo và phạm vi làm việc của họ cũng rất rộng. Thực tế trên đã gây khó khăn, thiếu thống nhất cho công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước trong việc sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức. Để cụ thể hoá Pháp lệnh cán bộ, công chức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 26/02/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 95/1998/NĐ-CP, ngày 17/11/1998 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo Nghị định này, công chức là “công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp; những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”. 7 Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, khái niệm công chức được phân biệt rất rõ với khái niệm cán bộ. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong các cơ quan, đơn vị đã được quy định. Còn cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thi hành Luật Cán bộ, công chức, ngày 25/01/2010 Chính phủ ban hành Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức ở quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: Công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam: Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra, các ban của huyện ủy, quận ủy, thị ủy, thành ủy thuộc tỉnh (Ban Tổ chức, Ban Dân vận, Ban Tuyên giáo, Trung tâm bồi dưỡng chính trị). Công chức trong cơ quan hành chính: Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện; Chánh văn phòng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong văn phòng Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân; Người giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó và người làm việc trong cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện (Văn phòng HĐNDUBND, Phòng Nội vụ, Phòng Kinh tế- Hạ tầng, Phòng Tài nguyên- Môi trường, Thanh tra, Phòng Tài chính- Kế hoạch, Phòng Tư pháp, Phòng Nông nghiệp- Phát triển nông thôn, Phòng Văn hóa và Thông tin, Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Y tế). Công chức trong hệ thống Tòa án nhân dân: Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện; Thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện; thư ký tòa án; người làm việc trong tòa án nhân dân cấp huyện. Công chức trong hệ thống Viện Kiểm sát nhân dân: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện; kiểm sát viên, điều tra viên và người làm việc trong Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện. 8 Công chức trong cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội: Những người làm việc trong cơ quan: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Liên đoàn lao động, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh. Công chức trong cơ quan, đơn vị của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân: Người làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp. Công chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập: Là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện được ngân sách nhà nước cấp kinh phí hoạt động (gồm các đơn vị: các trường mầm non, các trường tiểu học, các trường trung học cơ sở, Trạm Khuyến nông, Trung tâm Dạy nghề, Đài phát thanh, Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Ban quản lý các dự án xây dựng). Như vậy có thể thấy, khái niệm công chức là một khái niệm có nhiều cách hiểu giữa các quốc gia và ngay ở nước ta nó cũng được hiểu không giống nhau qua các thời kỳ. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm công chức mà Luật Cán bộ, công chức năm 2008 của Việt Nam quy định làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, có những chỗ, tác giả vẫn sử dụng cả hai khái niệm cán bộ và công chức để diễn đạt, do lịch sử vấn đề thời điểm đó diễn đạt như vậy hay do một số vấn đề phải dùng cả khái niệm cán bộ để diễn đạt mới dễ hiểu và hợp lý (như công tác cán bộ chứ không diễn đạt là công tác công chức). QLNN về kinh tế là sự tác động của các cơ quan quản lý nhà nước có chức năng, thẩm quyền nhất định đối với các quá trình kinh tế, các đơn vị kinh tế cơ sở, các ngành, địa phương, vùng kinh tế cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, lực lượng vật chất và tài chính ở tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế nhằm đạt mục tiêu định trước. Trong xu thế hiện nay, vai trò quản lý nhà nước ngày càng quan trọng. Vai trò đó có được phát huy hay không lại tuỳ thuộc vào đội ngũ công chức trong quản lý nhà nước về kinh tế. Công chức QLNN về kinh tế là một bộ phận của cán bộ, công chức quản lý nhà nước. Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI(1986), nước ta đang chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của bộ phận này ngày càng quan trọng, nó đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được đội ngũ công chức quản lý nhà nước về kinh tế thích hợp với sự vận hành của xã hội 9 theo những thể chế và cách thức mới. Theo cách hiểu ngày nay, công chức quản lý nhà nước về kinh tế là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong đội ngũ công chức quản lý nhà nước nói chung. Họ là những người làm việc trong lĩnh vực liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến kinh tế như: tham gia quản lý kinh tế trong các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế, tham gia hoạch định chính sách kinh tế và thực hiện việc quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế trên phạm vi toàn quốc hoặc trong từng vùng hay lĩnh vực cụ thể. Theo cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước hiện tại, công chức quản lý nhà nước về kinh tế của Việt Nam tồn tại ở cấp trung ương đến địa phương. Ở cấp huyện, công chức QLNN về kinh tế cấp huyện là công chức làm việc trong cơ quan, đơn vị QLNN về kinh tế cấp huyện thực hiện một hoặc một số chức năng nhất định về quản lý kinh tế trong phạm vi thuộc thẩm quyền của cấp QLNN là cấp huyện. 1.1.2. Phân loại công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện Công chức quản lý nhà nước về kinh tế có thể phân loại theo những tiêu chí khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm và mục đích nghiên cứu. Dựa vào vị trí, tầm quan trọng của công chức quản lý nhà nước về kinh tế, có thể chia thành 2 nhóm: Nhóm các nhà quản lý kinh tế, là những người quyết định, biện pháp lớn về kinh tế, trực tiếp sử dụng những công cụ quản lý, điều tiết sự vận động của hoạt động kinh tế trong phạm vi huyện. Nhóm các nhân viên nghiệp vụ, giúp việc về mặt kỹ thuật quản lý như: kỹ thuật viên máy tính, thư ký, quản trị văn phòng,…Đây là những người trực tiếp chuẩn bị các tài liệu, thông tin phục vụ cho các chuyên gia và các nhà quyết định chính sách. Dựa vào lĩnh vực ngành nghề chia đội ngũ này thành công chức quản lý nhà nước về kinh tế ngành nông nghiệp, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, tài chính,… Công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện bao gồm những người làm việc trong các cơ quan sau. Một là, cơ quan quản lý chung gồm: Thường trực Ủy ban nhân dân huyện (Chủ tịch, Phó Chủ tịch) và Văn phòng Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện (Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng, công chức làm công tác tổng hợp, Kế toán, Văn thư, Kỹ thuật viên đánh máy). Hai là, cơ quan quản lý đa ngành gồm: Phòng Tài chính - Kế hoạch (Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, công chức làm công nhiệm vụ chuyên môn, Kế toán), Phòng Công Thương (Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, công 10 chức làm công nhiệm vụ chuyên môn) và cơ quan Thanh tra (Chánh Thanh tra, Phó Chánh Thanh tra, Thanh tra viên). Ba là, cơ quan quản lý chuyên ngành gồm: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, công chức làm công nhiệm vụ chuyên môn) và Phòng Tài nguyên - Môi trường (Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, công chức làm công nhiệm vụ chuyên môn). Các công chức được liệt kê như trên có thể là nhân lực tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện. Thực chất, các cách phân loại trên chỉ mang tính tương đối vì trên thực tế, nhất là ở cấp trung gian và cấp cơ sở, đội ngũ công chức này thường kiêm nhiệm nhiều công việc khác không thuần tuý chỉ là công việc quản lý nhà nước về kinh tế, tuỳ thuộc vào sự quy định tổ chức hành chính của Chính phủ trong từng giai đoạn và đặc điểm kinh tế - xã hội của từng địa phương . 1.1.3. Vai trò của công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện Mọi cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước dù ở vị trí nào đi chăng nữa thì cũng đều có những vai trò nhất định đối với sự thành công hay thất bại của công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước vì đây là nguồn lực giúp khai thông và sử dụng các nguồn lực khác nhau của đất nước. Trong đó nổi lên vai trò của công chức quản lý nhà nước về kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay công chức quản lý nhà nước về kinh tế đã trở thành một lực lượng quan trọng trong hệ thống các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế cũng như trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vai trò của họ là: Thứ nhất công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện là những người biến chủ trương, đường lối, chiến lược, chính sách, kế hoạch và các dự án phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước vào cụ thể hóa trong phạm vi quản lý của huyện sao cho sát thực tiễn và phù hợp với đặc thù của huyện. Họ sử dụng quyền lực Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ quản lý và điều hành các hoạt động của nền kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình phát triển kinh tế đất nước và quản lý kinh tế ở phạm vi địa phương cấp huyện. Thứ hai, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện là người có thể thu thập được những nguyện vọng chính đáng và hợp lý của nhân dân, là cầu nối giũa Nhà nước với nhân dân và các tổ chức kinh tế. Công việc của họ gắn liền với cuộc sống của nhân dân, đôi khi họ phải làm việc trực tiếp với nhân dân, với các thành phần kinh tế 11 để tìm hiểu mức sống và nguyện vọng của nhân dân, tình hình hoạt động và mong muốn của các thành phần kinh tế đối với Nhà nước. Thứ ba, công chức quản lý nhà nước về kinh tế cấp huyện giúp Nhà nước có thể sử dụng và khai thác có hiệu quả nhất các nguồn lực và cơ hội quốc gia. Trong quá trình, thực thi nhiệm vụ họ có khả năng tổng hợp, phân tích các thông tin thu thập được về thực trạng các nguồn lực, các điều kiện kinh tế xã hội, tiềm năng của huyện để đưa ra các phương án hoạt động tối ưu nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực xã hội như tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động...Trong quá trình thực hiện công việc quản lý Nhà nước đối với kinh tế ở huyện. 1.2 Khái niệm đào tạo công chức quản lý nhà nước về kinh tế ở cấp huyện. Nội dung, hình thức và phương pháp đào tạo 1.2.1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “đào tạo là quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo... một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào sự phát triển của xã hội; duy trì và phát triển nền văn minh của loài người”. Theo từ điển Giáo dục học, “bồi dưỡng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn”. Theo Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐTBD công chức, tại Điều 5 giải thích: - “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”; - “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”. Đào tạo và bồi dưỡng phản ánh cùng một mục đích là trang bị kiến thức, kỹ năng cho người lao động, khiến họ thay đổi thái độ và hành vi theo hướng tích cực để đáp ứng với những đòi hỏi của công việc, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện công việc và hoàn thoành những mục tiêu của cá nhận và của tổ chức. Tuy nhiên, đào tạo là quá trình truyền thụ kiến thức mới để người lao động có một trình độ cao hơn; còn bồi dưỡng là quá trình làm tăng thêm những kiến thức dựa trên một nền tảng sẵn có với những người đang giữ một chức vụ hay đảm nhiệm một công việc nhất định. 12 ĐTBD CC QLNNvề kinh tế là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, tổ chức Nhà nước nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ, vững vàng về tư tưởng chính trị, hết lòng phục vụ nhân dân. ĐTBD CC QLNN về kinh tế là một quá trình có kế hoạch, thông qua giảng dạy và học tập nhằm trang bị, bổ sung và nâng cao kiến thức, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ CBCC để họ có thể thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. ĐTBD CC QLNN về kinh tế là công tác xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn khách quan, nhằm xây dựng đội ngũ CBCC có chất lượng, đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ trong giai đoạn hiện nay. 1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của đào tạo đối với công chức QLNN về kinh tế ở cấp huyện. 1.2.2.1. Vai trò của đào tạo đối với công chức QLNN về kinh tế ở cấp huyện. Đào tạo CC QLNN về kinh tế là hoạt động đặc biệt quan trọng trong quá trình quản lý và sử dụng nhân sự tại các cơ quan, tổ chức. Trong Nghị quyết 30/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách HCNN giai đoạn 2011 – 2020 đã khẳng định “Mọi CBCC phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn và năng lực hoạt động thực tiễn, bồi dưỡng đạo đức cách mạng”. Chính vì vậy, vai trò của việc ĐTCC QLNN về kinh tế là rất quan trọng và cần được quan tâm: ĐTBD giúp bổ sung và hoàn thiện những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho công việc thực tế của họ, giúp họ đạt được kết quả cao hơn. Bởi bản chất của hoạt động ĐTBD trong cơ quan HCNN là nhằm bù đắp những sự thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng, hoàn thiện năng lực thực thi công vụ cho CBCC. Đào tạo sẽ tạo những tiền đề cần thiết cho CBCC có cơ hội thăng tiến trong công việc, khả năng phát triển con đường chức nghiệp của CBCC tăng cao. Những khóa ĐTBD đáp ứng được nhu cầu của bản thân CBCC và nhu cầu về công việc của cơ quan sẽ là cơ sở quan trọng để CBCC được xem xét đề bạt, thăng tiến lên vị trí cao hơn. ĐTBD giúp CBCC có thêm động lực làm việc. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong thực tế là CBCC hành chính không tìm thấy động lực làm việc, có xu hướng rời bỏ cơ quan HCNN ngày càng gia tăng. ĐTBD thể hiện sự quan tâm của tổ chức, giúp CBCC thỏa mãn nhu cầu học tập, phát triển của bản thân. 13 ĐTBD cũng góp phần hình thành phẩm chất đạo đức, trách nhiệm của CBCC trong công việc, đồng thời tạo cho CBCC có cách tư duy mới, phát huy tính sáng tạo, tăng khả năng đưa ra sáng kiến trong công việc. Nói chung có rất nhiều lý do để nói rằng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ CC QLNN là quan trọng và cần được quan tâm đúng mức trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, một số lý do chủ yếu sau: Để đáp ứng yêu cầu công việc của tổ chức hay nói cách khác là để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển tổ chức. Để đáp ứng nhu cầu học tập, phát triển của người cán bộ, công chức. Đào tạo, bồi dưỡng là những giải pháp có tính chiến lược đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. 1.2.2.2. Ý nghĩa của đào tạo đối với công chức QLNN về kinh tế ở cấp huyện Đối với cơ quan QLNN thì công tác ĐTBD đội ngũ cán bộ công chức được coi là một trong những đường lối chính sách chủ chốt của Đảng và nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nếu ĐTBD đúng hướng, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ công việc được giao sẽ giúp đội ngũ cán bộ, công chức có cách làm việc chuyên nghiệp, mang lại lợi ích hữu hình cho bộ máy hành chính nhà nước, cải cách được thủ tục hành chính rườm già, tiết kiệm được thời gian của đội ngũ CBCC nói riêng và của nhân dân nói chung, cải thiện thói quen làm việc, cải thiện hành vi giao tiếp với nhân dân, tạo môi trường làm việc tốt hơn, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ, công chức phát triển khả năng cá nhân, nâng cao tính uy quyền của bộ máy QLNN. Đặc biệt, nếu đào tạo, bồi dưỡng tốt còn rút ngắn thời gian học hỏi, thời gian tích lũy đối với các cán bộ mới thay đổi vị trí công tác. Với vai trò quan trọng trong hoạt động tổ chức lao động, quản trị nguồn nhân lực, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước giúp cho bộ máy QLNN ở huyện Gia Bình nâng cao trình độ, năng lực và kỹ năng giải quyết công việc. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bộ máy QLNN, thể hiện qua những lợi ích mà nó đem lại: Duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực trong cơ quan QLNN. Nâng cao kết quả thực hiện công việc vì cán bộ quản lý qua đào tạo sẽ quản lý và điều hành tổ chức các hoạt động hợp lý hơn. 14 Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức bộ máy công quyền của nhà nước. Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kỹ thuật và quản lý vào cơ quan nhànước. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức. Tạo dựng đội ngũ cán bộ, công chức giỏi, có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Tham mưu, đề xuất, đưa ra các giải pháp hữu hiệu, góp phần thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương và của chính cơ quan, đơn vị mình. Đối với đội ngũ CBCC có vai trò rất quan trọng: Tạo ra được sự gắn bó giữa đội ngũ cán bộ, công chức và cơ quan QLNN. Tạo ra tính chuyên nghiệp của mỗi cán bộ, công chức. 1.2.3. Những vấn đề chung về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức . 1.2.3.1. Cơ sở pháp lý về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Hoạt động ĐTBD CBCC ở nước ta trong thời gian vừa qua được thực hiện dựa trên cơ sở các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong đó, có thể nêu lên một số văn bản cụ thể sau: Quyết định số 874/QĐ-TTg ngày 20/11/1996 của Thủ tướng Chính phủ về công tác ĐTBD cán bộ và công chức Nhà nước; Chỉ thị số 206/CT-TTg ngày 05/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc cử Chủ tịch UBND, Chủ tịch HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thứ trưởng các bộ và cấp tương đương tham gia các khóa bồi dưỡng kiến thức quản lý HCNN tại Học viện Hành chính Quốc gia; Thông tư liên tịch số 79/1997/TTLT-BTCCBCP-BKH-BTC-BGDĐT ngày 19/09/1997 của Ban Tổ chức, Cán bộ Chính phủ – Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Bộ Tài chính – Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn Quyết định số 874/QĐ-TTg; Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 04/08/2003 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế ĐTBD CBCC; Thông tư số 07/2006/TT-BNV ngày 01/12/2006 của Bộ Nội vụ hướng dẫn việc xây dựng và thực hiện chỉ tiêu ĐTBD CBCC; Luật CBCC năm 2008; Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về ĐTBC công chức; 15 Thông tư số 139/2010/TT-BTC ngày 21/09/2010 của Bộ Tài chính quy định việc lâp dự toán, quản lý và sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho công tác ĐTBD CBCC; Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/08/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch ĐTBD CBCC giai đoạn 2011 – 2015; Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách HCNN giai đoạn 2011 – 2020; Thông tư số 03/2011/TT-BNV ngày 25/11/2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 18/2010/NĐ-CP Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án ĐTBD CBCC, viên chức giai đoạn 2016 – 2025. 1.2.3.2. Cơ sở thực tiễn về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Sự trưởng thành của đội ngũ CBCC trong suốt hơn 30 năm đổi mới đã đóng góp quan trọng cho những thành tựu phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Có thể khẳng định mặc dù còn có những thiếu sót, nhưng không thể đánh giá thấp đội ngũ này. Từ thực tiễn hiện nay cho thấy, đội ngũ CBCC cần đáp ứng được những yêu cầu của cải cách hành chính, có thể nói tới như: Thứ nhất, Yêu cầu về tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của CBCC khi thi hành công vụ. Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận trong việc giám sát và phản biện xã hội. Ý thức và trách nhiệm cá nhân của mỗi công dân được nâng cao trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình buộc các cơ quan nhà nước, CBCC phải có trách nhiệm giải trình, công khai và minh bạch về quy trình thủ tục khi giải quyết các nhu cầu và lợi ích hợp pháp của công dân. Sự phát triển của mạng xã hội, các kênh thông tin, truyền thông làm cho “thế giới phẳng hơn”, thông tin cập nhật, công khai và minh bạch hơn, khái niệm “chính phủ mở” cũng từ đó mà xuất hiện. Theo đó, để quốc gia phát triển đòi hỏi phải có một chính phủ thực sự là chính phủ phục vụ, gần dân, sát dân và hiểu dân.. Thông tin quản lý từ các cơ quan nhà nước, đội ngũ CBCC phải nhanh hơn, đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng. Làm tốt việc truyền thông mới có thể truyền tải được thông điệp của chính phủ tới người dân và làm cho người dân hiểu đúng, hiểu trúng vấn đề, tạo sự đồng 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan