ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN VIỆT HÙNG
ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - TỪ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HỌC
HÀ NỘI - 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN VIỆT HÙNG
ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM - TỪ THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG TECHCOMBANK
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Long
2
Hà nội - 2014
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Việt Hùng
4
Trang
phụ
bìa
Lời
cam
đoa
n
M
ụ
c
l
ụ
c
Danh mục
các bảng
Danh mục
các sơ đồ
M
Ở
Đ
Ầ
U
M
ỤC
LỤ
C
T
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
6
B
ẢO
ĐẢ
M
1.1.
Khái niệm, đặc điểm và phân loại giao dịch
bảo đảm
6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm giao dịch bảo đảm
61.1.2. Phân loại giao dịch bảo đảm
11
1.2.
Khái niệm, đặc điểm, mục đích, vai trò của
đăng ký giao dịch
14
b
ả
o
đ
ả
m
1.2.1. Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm
14 1.2.2. Đặc điểm của đăng ký giao dịch bảo đảm
16 1.2.3. Mục đích của đăng ký giao dịch bảo đảm
16 1.2.4. Vai trò của đăng ký giao dịch bảo đảm
21
1.3.
Khái quát về đăng ký giao dịch bảo đảm trên
thế giới
22
Chương 2:
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
25
B
Ả
O
Đ
Ả
M
2.1.
Khái quát về sự hình thành và phát triển
của pháp luật Việt
25
Nam về đăng
ký giao dịch bảo đảm
5
2.2.
Đăng ký giao dịch bảo đảm theo pháp luật Việt Nam hiện nay
2.2.1. Giới thiệu về mô hình hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm
28
28
theo pháp luật Việt Nam hiện nay
2.2.2. Nguyên tắc đăng ký giao dịch bảo đảm
29
2.2.3. Các trường hợp đăng ký giao dịch bảo đảm và nội dung đăng
30
ký giao dịch bảo đảm
2.2.4. Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm
35
2.2.5. Trình tự, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm
38
2.2.6. Thời điểm đăng ký và thời hạn có hiệu lực của đăng ký giao
49
dịch bảo đảm
2.2.7. Giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch bảo đảm
50
2.2.8. Các trường hợp từ chối đăng ký, đăng ký thay đổi và xóa
51
đăng ký giao dịch bảo đảm
2.2.9. Cung cấp thông tin và giá trị pháp lý của thông tin được cung cấp
Chương 3:
THỰC TIỄN ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
55
58
TECHCOMBANK VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
BẢO ĐẢM
3.1.
Tổng quan về ngân hàng Techcombank
58
3.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
58
3.1.2. Cơ sở khi thực hiện hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại
60
Techcombank
3.2.
Thực tiễn thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm tại
52
Techcombank
3.2.1. Đánh giá thực trạng hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm tại
52
Techcombank từ 2010 đến nay
3.2.2. Những hạn chế cần khắc phục
64
6
đăng ký giao dịch bảo đảm
của Techcombank
3.2.3. Sự bất cập trong việc tiến hành
65
3.2.4. Nguyên nhân của hạn chế trong hoạt động đăng ký giao dịch
70
bảo đảm của Techcombank
3.3.
Hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm nhìn từ
72
thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm Techcombank
3.3.1. Hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đăng
72
giao dịch bảo đảm
75
ký
3.3.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật đăng ký giao dịch
bảo đảm
84
KẾT LUẬN
85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
3.1
Tên bảng
Đăng ký giao dịch bảo đảm của Techcombank từ năm
2010 đến nay
Trang
62
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
Số hiệu
sơ đồ
3.1
Tên sơ đồ
Mô hình tổ chức của Techcombank
8
Trang
59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia
có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới. Thiết chế này được xây dựng đã tạo
ra một hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động tín dụng nói chung và sự phát
triển của nền kinh tế nói riêng góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các
quan hệ dân sự, kinh tế, giải quyết các tranh chấp phát sinh từ việc không thực
hiện hoặc có thực hiện nhưng không đúng nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa
vụ. Việc xác lập các giao dịch bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia giao dịch, đặc biệt bên có quyền có cơ chế xử lý tài sản mà
bên có nghĩa vụ dùng để bảo đảm.
Nền kinh tế, xã hội phát triển đòi hỏi hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm phải thực sự hiện đại, khoa học. Khi giao dịch bảo đảm được đăng ký
chính xác, thuận lợi với chi phí đăng ký hợp lý thì chi phí giao dịch (gồm chi
phí về thời gian, công sức, tiền của...) trong xã hội sẽ ở mức thấp, nhờ đó, tính
cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tăng cao. Mặt khác, nếu giao dịch bảo đảm được
đăng ký và công khai hóa, thì sẽ hạn chế được những tranh chấp phát sinh do
các tổ chức, cá nhân chủ động tiếp cận với thông tin về tình trạng pháp lý của
tài sản bảo đảm trước khi ký kết, thực hiện các giao dịch có liên quan đến tài sản
đó. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, Nhà nước sẽ
có được những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình hoạch định các chính
sách mang tính vĩ mô, đặc biệt liên quan trực tiếp đến chính sách bảo đảm an
toàn tín dụng trong hệ thống ngân hàng. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm
được vận hành hiệu quả sẽ khuyến khích hoạt động cho vay phục vụ nhu cầu
vốn trong xã hội, nhờ đó nguồn vốn trong xã hội sẽ được
9
luân chuyển liên tục, khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và mất cân đối về
nhu cầu vốn giữa các thành phần kinh tế.
Một trong những yêu cầu đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội là việc
dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không được ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của bên bảo đảm, bởi mục
đích chính của giao dịch bảo đảm hiện đại, đó là vừa giúp các giao dịch được an
toàn, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội. Thông qua đăng ký giao dịch bảo
đảm, bên bảo đảm vừa đạt được mục đích dùng tài sản để bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ, vừa duy trì được hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình.
Chính nguồn lợi thu được từ việc khai thác tài sản bảo đảm sẽ giúp bên nhận bảo
đảm từng bước thu hồi vốn, tái đầu tư và thanh toán được các khoản nợ cho bên
nhận bảo đảm.
Chính do tầm quan trọng của giao dịch bảo đảm mà trong thời gian qua
Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh vấn đề này,
đơn cử Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm; Nghị định số
11/2012/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao
dịch bảo đảm; Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về Đăng ký giao dịch bảo đảm;
Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn về đăng ký thế
chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Thông tư số 05/2011/TTBTP Hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo
đảm, Hợp đồng, thông báo, về việc kê biên tài sản thi hành án theo phương
thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử, tại trung tâm đăng ký giao dịch, tài
sản của Cục quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp... Ngoài ra, trên
thực tế việc đăng ký giao dịch bảo đảm còn phụ thuộc vào đối tượng đăng ký
giao dịch bảo đảm được điều chỉnh pháp luật chuyên ngành, đặc biệt là những
tài sản thường xuyên tham gia giao dịch với các tổ chức tín dụng như quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất; ô tô, tàu bay, tàu biển...
Thực hiện luận văn "Đăng ký giao dịch bảo đảm - Từ
10
thực tiễn hoạt động của Ngân hàng
Techcombank", học viên mong muốn
đóng góp một phần nhỏ của mình nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận từ
góc độ thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm của các tổ chức tín dụng nói
chung và của Techcombank nói riêng. Đồng thời qua phân tích, nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm phát hiện và chỉ ra những
điểm còn bất cập, vướng mắc, chưa thống nhất của các quy định pháp luật điều
chỉnh vấn đề này. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm bổ sung, hoàn thiện các
quy định của pháp luật đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có một số công trình, bài báo về đăng ký giao dịch
bảo đảm dưới các góc độ pháp lý khác nhau, tiêu biểu như một số công trình, bài
báo như: Đăng ký giao dịch bảo đảm và thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài
sản đảm bảo trong pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Phùng
Bá Đáng, năm 2011; Pháp luật hiện hành về đăng ký các giao dịch bảo đảm
trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, Luận văn thạc sĩ Luật học, của Hoàng
Thị Ngọc Phượng, năm 2009...
Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu đề cập các khía cạnh nói
chung về đăng ký giao dịch bảo đảm mà chưa có nghiên cứu chuyên sâu về
thực tiễn đăng ký giao dịch bảo đảm từ hoạt động của ngân hàng, đặc biệt
trong bối cảnh hệ thống ngân hàng đang tập trung vào công tác xử lý nợ xấu và
tái cơ cấu nghành ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống tài
chính, tín dụng. Do đó, vấn đề này cần được tập trung nghiên cứu nhằm
khắc phục những vướng mắc, bất cập và hoàn thiện pháp luật là rất cần thiết.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Nội dung của luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề liên quan
đến các quy định về hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm, phương thức quản lý
và ý nghĩa của việc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật
11
hiện hành. Qua đó có sự so sánh, đối
chiếu với các quy định trước đây của
pháp luật Việt Nam và tham khảo một số quy định của pháp luật của một số
quốc gia về đăng ký giao dịch bảo đảm, nhằm chỉ ra những điểm cần học hỏi để
hoàn thiện hệ thống pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm ở Việt Nam. Đồng
thời qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ ra
những bất cập, vướng mắc của quy định pháp luật về vấn đề này và đề xuất giải
pháp tháo gỡ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về
đăng ký giao dịch bảo đảm, đồng thời tìm ra những điểm bất cập, chưa hợp lý,
chưa thống nhất của các quy định pháp luật.
Trên cơ sở phân tích nội dung và thông qua thực tiễn áp dụng pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Techcombank, luận văn đưa ra một số kiến
nghị và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn các quy định của
pháp luật về vấn đề này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, trong quá trình
nghiên cứu đề tài, những phương pháp khoa học như: So sánh, phân tích,
tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà luận
văn đặt ra.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn có tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia về đăng ký giao
dịch bảo đảm, thông qua đó đánh giá và kiến nghị một số vấn đề áp dụng
trong đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam.
12
Luận văn phân tích những hạn chế, bất cập của những quy định pháp
luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và thực trạng công tác đăng ký giao dịch
bảo đảm của Techcombank. Đưa ra một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với kết quả nghiên cứu của luận văn, tác giả hy vọng sẽ góp phần khái
quát và cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho những người trực tiếp
làm công tác áp dụng pháp luật trong hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm.
Đồng thời giúp cho cá nhân, tổ chức tín dụng nắm được các quy định của
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Chương 2: Quy định pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng đăng ký giao dịch bảo đảm Techcombank
và hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm.
13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm giao dịch bảo đảm
Trong đời sống hàng ngày, các giao dịch dân sự, phát sinh quyền và
nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể tham gia quan hệ. Các bên tham gia giao
dịch phải chủ động thỏa thuận với nhau những biện pháp nhất định để đảm
bảo cho việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ, hưởng quyền cũng như đảm
bảo mục đích tham gia giao dịch sẽ đạt được. Do đó, Nhà nước sẽ ban hành
một định chế cho phép các bên trong giao dịch có thể lựa chọn các biện pháp
khác nhau để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ, hưởng quyền của các bên
trong giao dịch, nếu bên nào vi phạm nghĩa vụ của mình thì sẽ bị áp dụng chế
tài mà các bên đã thỏa thuận để khắc phục hậu quả. Các giao dịch này được
gọi là các giao dịch được bảo đảm.
Giao dịch bảo đảm là một thiết chế ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia
trên thế giới (như Mỹ, Canada, Nhật Bản và Hàn Quốc). Kinh nghiệm của các
nước cho thấy, thiết chế này được xây dựng đã tạo ra một hành lang pháp lý an
toàn cho hoạt động tín dụng nói chung và sự phát triển của nền kinh tế thị
trường nói riêng; góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân sự
kinh tế, tránh các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực
hiện nhưng không đúng nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ. Việc xác lập các
giao dịch bảo đảm luôn hướng tớ mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên tham
gia giao dịch.
Ở các nước có pháp luật theo truyền thống án lệ (common law), khái
niệm giao dịch bảo đảm (secured transactions) được hiểu là toàn bộ các giao
14
dịch không phụ thuộc vào hình thức và
tên gọi, có mục đích tạo lập một
quyền lợi được bảo đảm (secured interest) đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố
định, bao gồm hàng hóa, giấy tờ (có giá) hoặc các tài sản vô hình khác; là
giao dịch được thiết lập thông qua một thỏa thuận bảo đảm (là thỏa thuận
trong đó quy định về hoặc tạo lập nên một lợi ích bảo đảm giữa chủ nợ và bên
bảo đảm). Giao dịch bảo đảm theo như cách hiểu này không bị giới hạn về loại
hình của giao dịch mà được xác định căn cứ vào mục đích của giao dịch. Do đó,
tất cả các giao dịch có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo luật dân sự
truyền thống và các giao dịch có bảo lưu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả
dần đều được xem là giao dịch bảo đảm. Và đối tượng của các giao dịch này cũng
rất phong phú, bao gồm cả động sản, bất động sản, tài sản hữu hình và cả tài sản
vô hình.
Ở các nước theo hệ thống common law, thường xây dựng các đạo luật
riêng biệt hoặc có những chế định quy định về giao dịch bảo đảm. Điển hình
cho trường hợp này là pháp luật về giao dịch bảo đảm của Hoa Kỳ, New
Zealand và phần lớn các bang của Canada. Theo đó thì các giao dịch bảo đảm
được phân ra thành các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và các giao dịch bảo
đảm bằng động sản. Tại Hoa Kỳ, các quy định về giao dịch bảo đảm bằng bất
động sản được quy định tập trung trong UCC (Uniform Commercial Code - Bộ
luật Thương mại thống nhất). Ngoài ra, còn có Đạo luật thống nhất về lợi ích
bảo đảm đối với đất đai và Đạo luật thống nhất về giao dịch đối với đất đai cũng
quy định về các giao dịch bảo đảm bằng bất động sản. Ở Canada, bang New
Brunswick ban hành riêng hai luật chuyên ngành điều chỉnh về giao dịch bảo
đảm, đó là Luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản và Luật về lợi ích
bảo đảm liên quan đến đất đai. Đối với New Zealand cũng đã xây dựng Đạo
luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng động sản (Personal Property Security
Act) [4].
15
Cũng cần lưu ý, pháp luật về giao dịch bảo đảm của các quốc gia này
không bao gồm các quan hệ bảo đảm bằng đối nhân (bảo lãnh, tín chấp) mà chỉ
bao gồm các quan hệ bảo đảm bằng tài sản. Bởi vì, quan hệ bảo đảm mang tính
đối nhân được quan niệm là sự ghép nối giữa hai lợi ích bảo đảm: lợi ích bảo
đảm giữa chủ nợ với con nợ và lợi ích bảo đảm giữa con nợ với bên bảo lãnh
cho con nợ. Vì vậy, pháp luật các quốc gia này điều chỉnh quan hệ bảo đảm
mang tính đối nhân theo từng lợi ích được bảo đảm. Và cũng cần lưu ý rằng,
đối với giao dịch bảo đảm bằng bất động sản, ở các quốc gia này, chỉ duy nhất
được sử dụng biện pháp thế chấp.
Đối với các nước theo trường phái pháp luật thành văn (civil law), tiêu
biểu như Pháp, Đức, không có khái niệm giao dịch bảo đảm. Các giao dịch
được xem là có bảo đảm khi sử dụng các biện pháp bảo đảm cụ thể như cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh. Các biện pháp này được quy định trong Bộ luật Dân sự và các
văn bản hướng dẫn thi hành [4].
Tại Việt Nam, về vấn đề giao dịch bảo đảm cũng nhận được sự quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu và có nhiều cách định nghĩa khác nhau do cách
tiếp cận của mỗi tác giả là khác nhau. Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận giữa
bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm phải dùng tài sản của
mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ (tài sản này được gọi là tài sản
bảo đảm). Trường hợp bên có nghĩa vụ trong quan hệ chính không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận, thì bên có quyền sẽ được xử lý tài sản
bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, hay giao dịch bảo đảm là giao dịch nhằm bảo
đảm cho một quan hệ nghĩa vụ tài sản trong các quan hệ dân sự, thương mại
Về mặt pháp luật, thuật ngữ "giao dịch bảo đảm" đã xuất hiện trong
Bộ luật Dân sự năm 1995. Tuy nhiên, khái niệm này lại không được định nghĩa mà
Bộ luật Dân sự này chỉ quy định về các biện pháp bảo đảm bao gồm: cầm cố, thế
chấp, bảo lãnh, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, tín chấp [32, Điều 234]. Khái niệm này
về mặt pháp lý được ghi nhận lần đầu tiên tại Nghị định 65/1999/NĐ-CP
16
- Xem thêm -