TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC
-----------***-----------
TRƯƠNG THỊ BÍCH LAN
MSSV: 1853801015093
CƠ QUAN BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI VÀ
KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật
Niên khóa: 2018 – 2022
Người hướng dẫn: ThS. Vũ Lê Hải Giang
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam kết khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tác giả
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Thạc sĩ Vũ Lê Hải Giang, đảm bảo tính chính
xác, trung thực và tuân thủ đúng các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo.
Tác giả chịu trách nhiệm hoàn toàn về lời cam đoan trên.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh cùng Khoa Luật Hành chính – Nhà nước vì đã tạo điều kiện thuận lợi để
tác giả thực hiện công trình nghiên cứu này. Và tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn đặc
biệt đến Thạc sĩ Vũ Lê Hải Giang đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn và động viên từ khi
bắt đầu cho đến khi hoàn thiện công trình nghiên cứu này!
TÁC GIẢ
Trương Thị Bích Lan
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................1
3. Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................4
6. Ý nghĩa đề tài ....................................................................................................4
7. Kết cấu đề tài.....................................................................................................5
PHẦN NỘI DUNG .................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN BẢO HIẾN .......6
1.1.
Hiến pháp và vai trò của Hiến pháp trong xã hội hiện đại ..................6
1.1.1.
Khái niệm Hiến pháp ...........................................................................6
1.1.2.
Đặc điểm Hiến pháp ............................................................................7
1.1.3.
Vai trò của Hiến pháp trong xã hội hiện đại.......................................8
1.2.
Một số vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến ..........................................10
1.2.1.
Khái niệm bảo hiến (constitutional review/ judicial review) ............10
1.2.2.
Vai trò của cơ quan bảo hiến .............................................................12
1.2.3.
Đặc điểm của cơ quan bảo hiến .........................................................12
1.2.4.
Phân loại mô hình bảo hiến ...............................................................14
1.2.4.1. Mô hình bảo hiến tập trung (Concentrated system) ......................14
1.2.4.2. Mô hình bảo hiến phi tập trung (Decentralised constitutional
control) ........................................................................................................15
1.2.5.
Phân loại phương pháp bảo hiến .......................................................16
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..................................................................................18
CHƯƠNG 2: CƠ QUAN BẢO HIẾN TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ
GIỚI ......................................................................................................................19
2.1.
Cơ quan bảo hiến tại Hoa Kỳ ................................................................19
2.1.1.
Lịch sử ra đời ....................................................................................19
2.1.2.
Vị trí, tính chất pháp lý ......................................................................20
2.1.3.
Chức năng .........................................................................................22
2.1.4.
Hình thức hoạt động ..........................................................................23
2.2.
Cơ quan bảo hiến tại Đức ......................................................................24
2.2.1.
Lịch sử ra đời ....................................................................................24
2.2.2.
Vị trí, tính chất pháp lý ......................................................................25
2.2.3.
Chức năng .........................................................................................27
2.2.4.
Hình thức hoạt động ..........................................................................29
2.3.
Cơ quan bảo hiến tại Pháp ....................................................................30
2.3.1.
Lịch sử ra đời ....................................................................................30
2.3.2.
Vị trí, tính chất pháp lý ......................................................................31
2.3.3.
Chức năng .........................................................................................33
2.3.4.
Hình thức hoạt động ..........................................................................34
2.4.
Cơ quan bảo hiến tại Campuchia .........................................................37
2.4.1.
Lịch sử ra đời ....................................................................................37
2.4.2.
Vị trí, tính chất pháp lý ......................................................................37
2.4.3.
Chức năng .........................................................................................39
2.4.4.
Hình thức hoạt động ..........................................................................40
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ..................................................................................43
CHƯƠNG 3: CƠ CHẾ BẢO HIẾN TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT
...............................................................................................................................44
3.1. Cơ chế bảo hiến trong lịch sử lập hiến Việt Nam ...................................44
3.1.1. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1946 ..........................................44
3.1.2. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1959 ..........................................45
3.1.3. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1980 ..........................................47
3.1.4. Cơ chế bảo hiến theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
.........................................................................................................................48
3.2. Cơ quan bảo hiến tại Việt Nam hiện nay ................................................49
3.3. Một số đề xuất ............................................................................................52
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ..................................................................................58
PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiến pháp đại diện cho nền dân chủ của một quốc gia, thể hiện ý chí, quyền
lực của nhân dân. Trong hệ thống pháp luật quốc gia, Hiến pháp là tiền đề cho việc
xây dựng các đạo luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội trong đời sống, chính trị của
một quốc gia. Tuy nhiên, Hiến pháp lại có nguy cơ bị xâm phạm nhiều nhất, trong
lịch sử không ít các đạo luật, các văn bản dưới luật bị tuyên vi hiến. Chính vì lẽ đó
các mô hình bảo hiến ra đời và ngày càng nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, xây
dựng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh quốc gia nhằm bảo vệ tốt nhất Hiến pháp.
Việt Nam luôn hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, đề cao vai trò của pháp luật trong mọi hoạt động từ đời sống, chính trị, văn
hóa và xã hội nhằm đảm bảo sự công bằng, văn minh, quyền con người, tự do cá
nhân. Vì vậy Hiến pháp cần phải được bảo vệ trước nguy cơ xâm phạm. Tuy nhiên,
hiện nay Việt Nam vẫn chưa xây dựng một cơ quan chuyên trách nào thực hiện chức
năng bảo hiến.
Từ lý do trên, em xin chọn đề tài: “Cơ quan bảo hiến trên thế giới và kinh
nghiệm cho Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp với mong muốn đúc kết được từ
những nghiên cứu về vị trí pháp lý, cơ cấu tổ chức, đặc điểm, tính chất pháp lý, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn… của các cơ quan bảo hiến ở một số quốc gia trên thế
giới để đưa ra một số đề xuất đóng góp sớm xây dựng hoàn thiện cơ quan bảo hiến ở
Việt Nam trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay nghiên cứu về Hiến pháp và các mô hình bảo hiến không còn là đề
tài mới mẻ đối với các học giả trên thế giới cũng như Việt Nam, vì vậy có không ít
các bài nghiên cứu về vấn đề này, trong đó phải kể đến những công trình nghiên cứu
nổi bật như là:
2.1. Trong nước
Đầu tiên là bài luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Hải Đường (2015) mang tên Sự
lựa chọn mô hình bảo hiến Việt Nam. Tác giả nghiên cứu cơ sở hình thành và phát
triển của các mô hình bảo hiến trên thế giới cũng như sự hình thành và phát triển mô
hình bảo hiến ở Việt Nam thông qua đó đề xuất mô hình bảo hiến phù hợp cho Việt
Nam. Bên cạnh đó, tác giả Hoàng Văn Tú (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về cơ quan bảo hiến ở Việt Nam khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Đề tài nghiên cứu
về cơ sở lý luận về bảo hiến và cơ quan bảo hiến, khái quát về cơ quan bảo hiến ở
Việt Nam và đưa ra hướng đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan bảo
hiến ở Việt Nam khi sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992.
2
Tiếp đến là hai bài nghiên cứu của tác giả Thái Vĩnh Thắng: Nhu cầu bảo hiến
và mô hình cơ quan bảo hiến phù hợp với Việt Nam (2009) và Các mô hình cơ quan
bảo hiến trên thế giới và lựa chọn mô hình phù hợp với Việt Nam (2013). Tác giả
hướng đến phân tích những nhu cầu cần bảo hiến ở Việt Nam, nghiên cứu về mô hình
bảo hiến ở Hòa Kỳ, mô hình Hội đồng Hiến pháp, mô hình Tòa án Hiến pháp và mô
hình cơ quan lập hiến đồng thời là cơ quan bảo hiến. Từ đó đưa ra ý tưởng lựa chọn
mô hình cơ quan bảo hiến phù hợp cho Việt Nam.
Ngoài ra còn bài viết Thấy gì từ những đổi mới của cơ quan bảo hiến ở Thái
Lan của tác giả Nguyễn Thị Ánh Vân (2011). Bài viết nghiên cứu về cơ quan bảo
hiến ở Thái Lan từ đó đưa ra một vài gợi mở cho Việt Nam cho việc xây dựng cơ
quan bảo hiến.
Một số bài nghiên cứu khác như: Cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt Nam hiện
nay thực trạng và kiến nghị của tác giả Phan Thị Ngân (2013); hay công trình Hoàn
thiện cơ chế giám sát Hiến pháp trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở
Việt Nam của tác giả Nguyễn Ý Ngọc (2014). Cả hai đề tài nghiên cứu về một số vấn
đề lý luận về cơ chế giám sát Hiến pháp, thực trạng cơ chế giám sát Hiến pháp ở Việt
Nam hiện nay và phương pháp đổi mới.
2.2. Nước ngoài
Không chỉ những học giả ở Việt Nam mà những học giả ở rất nhiều quốc gia
cũng nghiên cứu về cơ quan bảo hiến, một số đề tài nghiên cứu ở nước ngoài về cơ
quan bảo hiến như:
Thứ nhất, công trình của tác giả Tom Ginsburg (2003) mang tên Judicial
Review in New Democracies: Constitutional Courts in Asian Cases. Bài viết xoay
quanh vấn đề: Tại sao phải giám sát Hiến pháp, hình thành quyền giám sát, tòa án
hiến pháp của Mông Cổ, Đài Loan và Hàn Quốc.
Thứ hai, công trình nghiên cứu Constitutional review in Europe and in the
United States: Influences, Paradoxes and Convergence của tác giả Wojciech
Sadurski (2011). Ở công trình này tác giả tập trung nghiên cứu về những ảnh hưởng
của chủ nghĩa hợp hiến Hoa Kỳ đến sự phát triển của các phương pháp tiếp cận của
châu Âu đối với vai trò của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật, sau đó chỉ ra những
tương đồng và lý giải cho những khác biệt ở mô hình bảo hiến của Hoa Kỳ và châu
Âu.
Thứ ba, là bài viết The origins of the Judicial review của tác giả Yoo, John C,
Prakash, Saikrishna B (2003), bài viết đề cập đến nguồn gốc pháp lý, cấu trúc, lịch
sử bảo hiến.
3
Thứ tư, công trình của tác giả Ruth Levush (2020) mang tên The constitutional
council and judicial review in France. Bài viết so sánh luật pháp và thể chế của Hoa
Kỳ với các cơ quan Pháp, mô tả một số khía cạnh của hoạt động xem xét Hiến pháp
ở Pháp.
Mặc dù những đề tài nghiên cứu trong nước đều theo hướng nghiên cứu về các
mô hình bảo hiến trên thế giới nhằm hướng đến đề xuất mô hình phù hợp cho Việt
Nam. Nhưng các đề tài trên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số mô hình chung
chung, không đi vào nghiên cứu từng mô hình của một số quốc gia cụ thể, hoặc nếu
có cũng chỉ điểm qua vài đặc điểm nhất định như: chủ thể bảo hiến, quyền khởi kiện
và giá trị các phán quyết. Chứ không đi sâu vào nghiên cứu từng mô hình cụ thể ở
một số quốc gia nhất định cũng như tìm hiểu đặc điểm về cách thức thành lập, vị trí
pháp lý, tính chất pháp lý, nguyên tắc hoạt động, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan bảo hiến để tìm ra ưu điểm, nhược điểm và mức độ phù hợp cho việc
xây dựng mô hình bảo hiến ở Việt Nam. Còn những đề tài ở nước ngoài tất nhiên
không hướng đến việc xây dựng mô hình bảo hiến ở Việt Nam. Vì vậy, thông qua đề
tài “Cơ quan bảo hiến trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam”, tác giả trên
cơ sở nghiên cứu về những đặc điểm cụ thể của các cơ quan bảo hiến ở một số quốc
gia trên thế giới từ đó đưa ra đưa xuất mô hình bảo hiến cho Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu chung
Đề tài tìm hiểu về các cơ quan bảo hiến ở một số quốc gia trên thế giới từ đó
đưa ra những đề xuất góp phần xây dựng cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng
bảo hiến ở Việt Nam.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
Nhằm hướng đến hoàn thiện mục tiêu chung, khóa luận cần đạt được những
mục tiêu cụ thể sau:
Nghiên cứu và làm rõ các vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến, hiểu được
tầm quan trọng của cơ quan bảo hiến trong việc bảo vệ Hiến pháp.
Nghiên cứu các đặc điểm của các cơ quan bảo hiến ở một số quốc gia trên
thế giới đồng thời so sánh đánh giá ưu, nhược điểm của từng mô hình nhằm hướng
đến lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam.
Nghiên cứu về các cơ chế bảo hiến trong lịch sử lập pháp Việt Nam và
hiện nay, từ đó đưa ra một số đề xuất cho việc xây dựng hoàn thiện cơ quan bảo hiến
tại Việt Nam.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
4
Đề tài tập trung nghiên cứu về cơ quan bảo hiến tại một số quốc gia trên thế
giới như: Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Campuchia.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài hướng đến nghiên cứu về các cơ
quan bảo hiến tại các quốc gia: Hoa Kỳ, Đức, Pháp, Campuchia và cơ chế bảo hiến
tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài nghiên cứu về cơ chế bảo hiến qua
các bản Hiến pháp Việt Nam từ Hiến pháp năm 1946 đến nay và nghiên cứu về các
cơ quan bảo hiến theo quy định pháp luật hiện hành ở các quốc gia: Hoa Kỳ, Đức,
Pháp và Campuchia.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm đổi mới nhà nước và pháp
luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phương pháp luận: đề tài vận dụng phương pháp biện chứng duy vật.
Phương pháp so sánh: đề tài tiến hành nghiên cứu đặc điểm các cơ quan bảo
hiến tại một số quốc gia trên thế giới từ đó so sánh đánh giá mức độ phù hợp của các
mô hình đó.
Phương pháp lịch sử: đây là phương pháp được dùng để xem xét lịch sử ra đời
của các cơ quan bảo hiến được đề cập trong Chương 2; đồng thời xem xét những quy
định liên quan đến bảo hiến ở Việt Nam từ Hiến pháp năm 1946 đến nay.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Trong Chương 1 phương pháp phân tích
được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến. Trong Chương 2
phương pháp này dùng để phân tích các đặc điểm của các mô hình ở một số quốc gia
trên thế giới và trong Chương 3 phương pháp dùng để phân tích cơ quan bảo hiến ở
Việt Nam qua các bản Hiến pháp. Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với
phương pháp phân tích, từ những phân tích đánh giá, so sánh sẽ đi đến tổng hợp để
đưa ra đề xuất cho việc xây dựng cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng bảo hiến
ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa đề tài
Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang xây dựng cơ quan bảo hiến chuyên
trách. Mặc dù ý thức được tầm quan trọng của vấn đề thế nhưng đến thời điểm hiện
tại Việt Nam vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách nào để thực hiện chức năng bảo
vệ Hiến pháp. Vì lẽ đó, thông qua đề tài tác giả mong muốn được đóng góp:
Về mặt lý luận: đề tài giúp hệ thống lại quan điểm xoay quanh vấn đề bảo hiến,
đưa ra khái niệm khái quát về hiến pháp, bảo hiến; đặc điểm, vai trò của hiến pháp;
5
đặc điểm, vai trò và phân loại mô hình bảo hiến. Mặt khác, đề tài nghiên cứu đặc
điểm cơ quan bảo hiến ở Hoa Kỳ, Pháp, Đức và Campuchia để từ đó rút ra kinh
nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng cơ quan bảo hiến phù hợp nhất.
Về mặt thực tiễn: đề tài có đưa ra đề xuất về một mô hình cơ quan bảo hiến
cho Việt Nam. Ngoài ra, đề tài còn có giá trị tham khảo cho các công trình nghiên
cứu về sau liên quan đến vấn đề bảo hiến.
7. Kết cấu đề tài
Ngoài Mục lục, Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, thì
Phần nội dung đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến
Chương 2: Cơ quan bảo hiến tại một số quốc gia trên thế giới
Chương 3: Cơ chế bảo hiến tại Việt Nam và một số đề xuất
6
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ QUAN BẢO HIẾN
1.1. Hiến pháp và vai trò của Hiến pháp trong xã hội hiện đại
1.1.1. Khái niệm Hiến pháp
Cho đến hiện tại có rất nhiều quan điểm của các học giả khác nhau về khái
niệm Hiến pháp. Điểm qua một vài quan điểm của các học giả nước ngoài: đầu tiên
là quan điểm của hai nhà nghiên cứu người Anh là B. Jones và D. Kavanagh đã định
nghĩa: “Hiến pháp là một văn bản thể hiện tinh thần và đường lối chính trị” 1. Tiếp
đến, học giả M. Beloff và G. Peele định nghĩa Hiến pháp bằng cách nhấn mạnh đến
tính chất tổ chức quyền lực nhà nước của Hiến pháp: “Hiến pháp là tổng thể các quy
định điều chỉnh và phân định sự phân chia quyền lực nhà nước trong hệ thống chính
trị”2. Ngoài ra, Georges Burdeau, nhà chính trị học và hiến pháp học người Pháp, đã
xem xét hiến pháp trên bình diện là văn bản hạn chế quyền lực và sự tùy tiện của nhà
nước trong việc lựa chọn người cầm quyền và tổ chức thực hiện các thể chế nhà nước,
khi đưa ra định nghĩa rằng: “Hiến pháp là văn bản long trọng bắt buộc quyền lực nhà
nước tuân thủ các quy phạm hạn chế quyền tự do của nó trong việc lựa chọn những
người cầm quyền, tổ chức và thực hiện các thể chế cũng như các mối quan hệ của nó
với công dân”3.
Theo từ điển tiếng Việt: “Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, quy
định chế độ chính trị, kinh tế, xã hội, quyền và nghĩa vụ công dân, tổ chức bộ máy
nhà nước”4.
Theo Điều 119 Hiến pháp năm 2013 thì Hiến pháp được xem là luật cơ bản
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong
hệ thống pháp luật.
Tóm lại, Hiến pháp được hiểu là đạo luật cơ bản trong hệ thống pháp luật của
mỗi quốc gia, có giá trị pháp lý cao nhất, quy định về những vấn đề cơ bản và quan
trọng nhất của: chế độ chính trị, chính sách phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, các
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương và địa phương5. Dù có nhiều quan điểm
1
B. Jones, D. Kavanagh (1979), British Politics Today, Manchester, p.8.
M. Beloff, G. Peele (1980), The Government of the United Kingdom: Political Authority in a Changing
Society, WW Norton & Co, p.10.
3
Thái Vĩnh Thắng – Vũ Hồng Anh (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
tr.40, 41, 42.
4
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, tr.437.
5
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, tr.44.
2
7
khác nhau về khái niệm Hiến pháp nhưng nhìn chung các quan điểm đều làm bật lên
vai trò rất quan trọng của Hiến pháp đối với mỗi một quốc gia.
1.1.2. Đặc điểm Hiến pháp
Hiến pháp có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là luật cơ bản. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản,
quan trọng nhất của một quốc gia, bao gồm: bản chất nhà nước, nguyên tắc tổ chức
quyền lực nhà nước, thể chế chính trị, kinh tế, quyền con người, quyền và nghĩa vụ
của công dân, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước then chốt trong bộ máy
nhà nước. Hiến pháp chính là khuôn mẫu để các văn bản pháp luật khác dựa vào đó
mà quy định chi tiết những vấn đề cơ bản có trong hiến pháp, nhưng không được quy
định trái với hiến pháp.
Thứ hai, Hiến pháp có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật của
một quốc gia. Hiệu lực hiến pháp cao nhất trong một quốc gia, đối với mọi cá nhân,
tổ chức, cơ quan nhà nước, mọi hành vi xâm phạm hiến pháp đều sẽ bị xử phạt nghiêm
minh. Các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước ban hành phải phù hợp và
không được trái với Hiến pháp, mọi văn bản trái với Hiến pháp sẽ không có hiệu lực
pháp luật và bị từ chối áp dụng trên thực tiễn đời sống, xã hội. Bên cạnh đó, để bảo
vệ tính cao tối của hiến pháp nhiều quốc gia trên thế giới quy định vấn đề bảo vệ hiến
pháp.
Thứ ba, Hiến pháp là văn bản ghi nhận quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Để bảo vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân Hiến pháp
đã ghi nhận vào trong Hiến pháp nhằm tránh sự xâm phạm từ các cơ quan nhà nước,
mặt khác các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân. Hiến pháp ghi nhận các quyền tự do cơ bản cho con người bao gồm:
quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc,... Bên cạnh đó, Hiến
pháp quy định một số nghĩa vụ buộc công dân tuân theo, nhằm cân bằng giữa quyền
và nghĩa vụ, trao quyền nhưng đồng thời cũng ràng buộc nghĩa vụ để tránh sự tùy
tiện, ổn định trật tự công cộng, dễ điều hành quản lý đất nước hơn.
Thứ tư, Hiến pháp là văn bản ấn định quyền lực nhà nước thông qua các quy
định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước then chốt từ trung ương đến
địa phương. Chỉ có Hiến pháp mới có quyền quy định việc thành lập hay bãi bỏ các
cơ quan này, các văn bản pháp luật dưới hiến pháp không được quy định mới các cơ
quan nhà nước mà chỉ được quyền cụ thể hóa những quy định của hiến pháp. Hiến
pháp được xây dựng dựa trên ý chí của nhân dân, đại diện cho quyền làm chủ của
8
nhân dân. Thông qua Hiến pháp nhân dân trao quyền quản lý nhà nước cho các cơ
quan và để tránh sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan này nên thông qua Hiến pháp
quy định tổ chức và hoạt động của một số cơ quan nhà nước then chốt trong một
khuôn khổ nhất định.
1.1.3. Vai trò của Hiến pháp trong xã hội hiện đại
Như cách mà Maurice Hauriou - một nhà nghiên cứu luật học người Pháp nhìn
nhận về hiến pháp: “Kể hình thức bên ngoài Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp
luật cao nhất, việc thay đổi Hiến pháp phải đòi hỏi thủ tục đặc biệt; về nội dung Hiến
pháp là tổng thể những quy định về quy chế xã hội, chính trị của nhà nước, không
phụ thuộc vào hình thức văn bản thể hiện và thủ tục sửa đổi văn bản đó”6. Cũng phần
nào cho ta thấy tầm quan trọng và tính pháp lý tối cao của Hiến pháp. Không một
quốc gia nào trên thế giới là không có Hiến pháp. Vậy lý do vì sao mà mỗi một quốc
gia đều cần phải có Hiến pháp? Hiến pháp giữ vai trò quan trọng như thế nào đối với
mỗi quốc gia?
Trong lịch sử lập hiến thế giới, bản Hiến pháp thành văn đầu tiên xuất hiện ở
Hoa Kỳ, mà tiền thân là bản Điều lệ Liên bang nhằm mục đích thành lập liên minh
giữa các bang trong chiến tranh giành độc lập. Sau khi giành độc lập Hoa Kỳ lại rơi
vào khủng hoảng trầm trọng mà nguyên nhân chính do hạn chế của bản Điều lệ liên
bang. Không còn đủ thực quyền, không thể đại diện cho Hoa Kỳ trong lĩnh vực đối
ngoại, nhà nước Liên bang đứng trước nguy cơ tan rã. Trước nguy cơ đó, George
Washington chủ trì hội nghị sửa đổi bản Điều lệ liên bang nhằm xây dựng một nhà
nước liên bang vững mạnh và đánh dấu cho sự ra đời của Hiến pháp năm 1787.
Dù là Hiến pháp của bất kỳ quốc gia nào cũng đều có chung những vai trò
quan trọng đối với đời sống xã hội và nhà nước của quốc gia đó, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với một quốc gia, Hiến pháp là luật cơ bản hay “luật gốc” có giá
trị pháp lý tối cao7. Do vậy Hiến pháp giữ vai trò là tiền đề cho việc xây dựng hệ
thống các văn bản pháp luật. Hiến pháp quy định những vấn đề quan trọng và cơ bản
nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội hình thành “gốc” trong việc xây dựng ban
hành văn bản pháp luật, văn bản ban hành chi tiết của các cơ quan nhà nước về những
vấn đề này phải tuân theo Hiến pháp, không trái với Hiến pháp. Đồng thời, Hiến pháp
cũng là khuôn mẫu của sự xem xét, đánh giá tính hợp hiến của một đạo luật.
Thứ hai, Hiến pháp giúp ổn định và bảo vệ chủ quyền của một quốc gia. Vì
Hiến pháp phục vụ mục đích thiết lập cơ sở chính trị và xã hội cho một cộng đồng
6
M. Hauriou (1938), Précis elémentaire de Droit Constitutionel, Librairie du Recueil Sirey - Paris, p.73.
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb. Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, tr.44.
7
9
chính trị, nên nó đảm bảo sự ổn định chính trị và giữ nguyên chủ quyền của cộng
đồng. Nếu một quốc gia không có một cơ cấu chính trị vững chắc, thì quốc gia đó sẽ
dễ bị tấn công bởi các cường quốc bên ngoài.
Thứ ba, Hiến pháp là văn bản mà qua đó nhân dân phân công và trao quyền
cho các cơ quan nhà nước: quyền lập pháp cho Quốc hội (Nghị viện), quyền hành
pháp cho Chính phủ, và quyền tư pháp cho Tòa án. Nguồn gốc quyền lực nhà nước
là nhân dân thông qua Hiến pháp nhân dân trao quyền cho các cơ quan nhà nước và
sử dụng Hiến pháp như phương tiện để nhân dân giới hạn quyền lực của các cơ quan
nhà nước này, nhằm ngăn chặn chế độ chuyên quyền, góp phần hình thành nên chủ
nghĩa hợp hiến ở một quốc gia8.
Thứ tư, Hiến pháp đề cao quyền con người, quyền công dân và các giá trị dân
chủ9. Hiến pháp có tầm quan trọng lớn trong thế giới dân chủ hiện đại. Hiến pháp ở
những quốc gia dân chủ đảm bảo cho người dân được tham gia ứng cử vào những vị
trí trong bộ máy nhà nước, tham gia vào hoạt động quản lý đất nước một cách bình
đẳng. Ngoài ra, Hiến pháp còn quy định cho mọi người quyền sống, quyền hạnh phúc,
các quyền tự do như tự do ngôn luận, bày tỏ quan điểm đối với những người cầm
quyền, cơ quan nhà nước. Hiến pháp cũng nhằm mục đích bảo đảm các quyền con
người cơ bản của công dân. Điều này là cần thiết để đảm bảo rằng Nhà nước là của
nhân dân.
Thứ năm, Hiến pháp có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền. Nhà nước pháp quyền được hiểu là pháp luật sẽ đặt trên quyền lực chính trị,
pháp luật là tối cao đối với mọi cơ quan nhà nước và tất cả cá nhân trong xã hội –
không ai có thể đặt cao hơn pháp luật. Mà trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia
Hiến pháp là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất và là nền tảng để xây dựng các văn
bản pháp luật, do đó Hiến pháp giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhà nước
pháp quyền. Và để xây dựng được nhà nước pháp quyền cần phải bảo vệ Hiến pháp
tốt nhất, tránh khỏi mọi xâm phạm.
Vì những đặc điểm và vai trò rất quan trọng của Hiến pháp nên cần phải có
một cơ chế hay một thủ tục nào đó hiệu quả để bảo vệ Hiến pháp, nếu không thì
những đặc điểm, vai trò quan trọng của Hiến pháp sẽ không được phát huy và ứng
dụng vào thực tiễn đời sống. Cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiệu quả chỉ có thể được thực
hiện bởi một cơ quan cụ thể chứ không phải là một cơ chế mang tính trừu tượng,
Phan Trung Lý, Nguyễn Văn Phúc và Nguyễn Sĩ Dũng (2012), Một số vấn đề cơ bản của Hiến pháp các nước
trên thế giới, Nhà xuất bản chính trị quốc gia – sự thật, tr.19.
9
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình Luật Hiến pháp, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia
Việt Nam, tr.44.
8
10
chung chung. Bên cạnh đó, việc bảo vệ Hiến pháp ở đây không chỉ dừng lại ở việc
xem xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật mà còn bảo vệ sự thực thi Hiến pháp
trên thực tế, làm sao cho những quy định trong Hiến pháp đi vào trong đời sống xã
hội mà không phải chỉ dừng lại ở những quy định trên giấy, mang tính lý thuyết. Có
thể hiểu rằng bảo vệ Hiến pháp chính là bảo vệ cho sự dân chủ, bảo vệ công dân, bảo
vệ chế độ nhà nước pháp quyền của mỗi quốc gia.
1.2. Một số vấn đề lý luận về cơ quan bảo hiến
1.2.1. Khái niệm bảo hiến (constitutional review/ judicial review)
Bảo hiến tức là bảo vệ Hiến pháp. Tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện chính
trị của mỗi quốc gia mà thuật ngữ “bảo hiến” được gọi là giám sát hiến pháp
(constitutional review) hay giám sát tư pháp (judicial review).
Theo từ điển Cambridge Dictionary thuật ngữ “judicial review” được định
nghĩa là một quy trình mà ở đó các quyết định hay đạo luật của các cơ quan: Nghị
viện, Chính phủ, hoặc một tổ chức công cộng được tòa án xem xét để đánh giá về
tính hợp hiến10.
Theo từ điển Black’s Law Dictionary thuật ngữ “judicial review” được hiểu là
quyền của tòa án trong việc xem xét các hoạt động của các cơ quan nhà nước, đặc
biệt là quyền của tòa án trong việc làm vô hiệu hóa các hoạt động của nhánh lập pháp
và hành pháp khi hoạt động đó vi hiến11.
Cả từ điển Cambridge Dictionary và Black’s Law Dictionary chỉ có định nghĩa
thuật ngữ “judicial review” mà không có định nghĩa về “constitutional review”. Theo
cách định nghĩa của cả hai từ điển trên thì “judicial review” luôn gắn với hoạt động
của cơ quan tư pháp (tòa án), hay nói cách khác tòa án là chủ thể của hoạt động xem
xét, đánh giá về tính hợp hiến của các đạo luật, hành vi của nhánh lập pháp và tư
pháp.
Trong tiếng Việt từ “bảo hiến” là loại từ ghép, được ghép bởi hai từ “bảo vệ”
và “Hiến pháp”. Theo đó, “bảo vệ” được hiểu là chống lại mọi sự xâm phạm để giữ
cho luôn luôn được nguyên vẹn12, còn “Hiến pháp”, như đã phân tích ở trên là đạo
luật cơ bản trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, có giá trị pháp lý cao nhất,
quy định về những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của: chế độ chính trị, chính sách
phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân; tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước then chốt ở trung ương
10
Xem Cambridge Dictionary: https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/judicial-review (accessed
in 06/06/2022).
11
Bryan A. Garner (2004), Black’s Law Dictionary, Thomson West, p.2479.
12
Theo Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, tr.40
11
và địa phương. Từ đó có thể giúp ta hiểu rằng bảo hiến (bảo vệ hiến pháp) là bảo vệ
đạo luật gốc của quốc gia tránh khỏi sự xâm phạm, giữ nguyên vẹn giá trị pháp lý tối
cao của nó, bảo vệ những quy định có trong Hiến pháp cũng như việc thực thi những
quy định đó trên thực tế.
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý vẫn chưa có một khái niệm bảo hiến nào
chung và chính xác nhất. Trong bài nghiên cứu của mình Mark Elliott cho rằng: “Bảo
hiến là một quá trình mà các hoạt động lập pháp và hành pháp phải được cơ quan tư
pháp xem xét lại”13. Trong khi đó Arne Mavcic định nghĩa: “Bảo hiến là việc đánh
giá tính hợp hiến của các đạo luật ở một số quốc gia, được xem là một hệ thống ngăn
ngừa vi phạm các quyền được hiến pháp trao đảm bảo tính hiệu lực, sự ổn định và
bảo tồn của nó”14. Còn thuật ngữ “giám sát tư pháp” trước nay thường hay gắn với
chức năng của các tòa án, Hiến pháp của một số quốc gia trao quyền cho cơ quan tư
pháp, qua đó cơ quan tư pháp có thể kiểm tra việc ban hành các văn bản của cơ quan
lập pháp, hành pháp, từ trung ương đến địa phương để xem xét các văn bản đó có phù
hợp với Hiến pháp hay không15.
Nói chung, bảo hiến được hiểu như phương thức kiểm soát tính hợp hiến của
các đạo luật, xem xét những đạo luật được ban hành bởi các cơ quan nhà nước có phù
hợp với nội dung cũng như tinh thần của Hiến pháp hay không. Theo nghĩa hẹp, bảo
hiến chỉ là bảo vệ tính hợp hiến của các đạo luật, các văn bản dưới luật, nhằm đảm
bảo sự phù hợp giữa các văn bản pháp luật trong hệ thống pháp luật đối với Hiến
pháp. Tuy nhiên, từ thực tiễn các quốc gia cho thấy rằng bảo hiến không chỉ dừng lại
ở việc bảo vệ tính hợp hiến của các đạo luật, mà còn được hiểu theo nghĩa rộng. Ở
cách hiểu này thì bảo hiến là bảo vệ tinh thần và nội dung của Hiến pháp. Tức giải
quyết các tranh chấp giữa hành pháp và lập pháp, giữa liên bang và bang, giữa trung
ương với địa phương; kiểm soát hành vi của Tổng thống cũng như các quan chức
hành pháp khác, giải quyết tranh chấp về kết quả bầu cử. Hoạt động bảo hiến hiện
nay không chỉ là sự kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật, mà
còn có nhiệm vụ bảo đảm tính tối cao của hiến pháp như nền tảng của hệ thống luật
pháp quốc gia, bảo đảm các quyền và tự do hiến định, bảo đảm mối quan hệ hữu cơ
giữa các cơ quan nhà nước16.
13
Mark Elliott (2001), The constitutional foundations of Judicial review, Hart Pub, p.98
Arne Mavcic (2001), The Constitutional Review, BookWorld Publications, p.24
15
C. Neal Tate, Judicial review, https://www.britannica.com/topic/judicial-review (accessed in 14/4/2022)
16
Bùi Hải Đường (2015), Sự lựa chọn mô hình bảo hiến ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội,
tr.9.
14
12
1.2.2. Vai trò của cơ quan bảo hiến
Tùy thuộc vào thể chế và điều kiện mà mỗi quốc gia xây dựng cơ quan bảo
hiến không giống nhau. Tuy nhiên, các cơ quan bảo hiến lại có chung những vai trò
nhất định:
Cơ quan bảo hiến nhằm bảo vệ giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp 17. Đây
là một trong những vai trò cơ bản và quan trọng nhất của cơ quan bảo hiến. Trong
quá trình xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã
hội trong đời sống, khó tránh khỏi việc các cơ quan nhà nước có những sai phạm,
mâu thuẫn, không thống nhất với Hiến pháp. Cơ quan bảo hiến sẽ bảo vệ Hiến pháp
tránh khỏi điều đó và giúp tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật của quốc gia.
Ngoài ra, còn ngăn chặn việc lạm dụng quyền lực của cơ quan nhà nước.
Cơ quan bảo hiến góp phần bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do cơ
bản của công dân. Các bản Hiến pháp được xây dựng trên tinh thần bảo vệ con người,
bảo vệ công dân, đảm bảo sự dân chủ. Một khi những quy định Hiến pháp bị vi hiến
- vi phạm nghiêm trọng quyền về con người, gây lên những ảnh hưởng xấu cho xã
hội. Do vậy, khi bảo vệ Hiến pháp tức cơ quan bảo hiến sẽ bảo vệ luôn cả nền dân
chủ của quốc gia và những quyền cơ bản của con người, của công dân được Hiến
pháp ghi nhận.
Cơ quan bảo hiến tạo điều kiện tiên quyết để có thể đưa Hiến pháp vào thực
tiễn cuộc sống18. Dù cho những quy định trong Hiến có hay đến đâu nhưng nếu không
được áp dụng vào thực tiễn đời sống thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Vì vậy, bảo vệ Hiến
pháp cũng chính là nhằm bảo hiện việc thực thi Hiến pháp trên thực tế, phải làm sao
đảm bảo cho những quy định ấy được áp dụng chứ không còn là những quy định trên
giấy.
1.2.3. Đặc điểm của cơ quan bảo hiến
Cơ quan bảo hiến được lập ra nhằm chức năng quan trọng nhất là bảo vệ những
giá trị tốt đẹp được ghi nhận trong Hiến pháp và đảm bảo thực thi Hiến pháp vào thực
tế đời sống, tác giả cho rằng để thực hiện được chức năng đó thì cơ quan bảo hiến
phải có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, cơ cấu tổ chức thường đơn giản, gọn nhẹ và được quy định trong
Hiến pháp. Khác so với những cơ quan nhà nước khác, cách thức tổ chức, thành phần,
hoạt động của cơ quan bảo hiến thường được quy định trong Hiến pháp, cơ cấu tổ
chức đơn giản, gọn nhẹ, thông thường một cơ quan bảo hiến không có quá nhiều
thành viên, không phân chia thành nhiều phòng, ban nhỏ chuyên biệt. Vì chức năng
17
18
Bùi Hải Đường (2015), tlđd (16), tr. 12
Bùi Hải Đường (2015), tlđd (16), tr. 13
13
bảo vệ Hiến pháp nên cần phải được quy định trong một văn bản pháp luật có giá trị
pháp lý cao là Hiến pháp, sẽ đảm bảo cho cơ quan bảo hiến được bảo vệ, tôn trọng.
Và việc tổ chức đơn giản, gọn nhẹ nhằm giảm khoản chi cho ngân sách nhà nước, dễ
điều hành quản lý, hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt chức năng bảo hiến.
Thứ hai, cơ quan bảo hiến mang tính độc lập. Do mục tiêu chính được lập ra
là để bảo vệ Hiến pháp nên đòi hỏi sự độc lập với các cơ quan khác trong bộ máy nhà
nước. Yếu tố độc lập giúp cơ quan bảo hiến thực hiện chức năng bảo hiến một cách
khách quan, không bị ảnh hưởng, chi phối bởi bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào.
Nếu như không có sự độc lập, mà còn quá phụ thuộc vào một cơ quan thì rất có thể
cơ quan bảo hiến sẽ không khách quan khi xem xét tính hợp hiến của các đạo luật do
cơ quan đó ban hành. Ví dụ trong trường hợp, cơ quan bảo hiến quá phụ thuộc vào
Nghị viện thì cơ quan bảo hiến không thể bảo vệ hiến pháp bởi các đạo luật vi hiến
của Nghị viện. Hay trong trường hợp, ngân sách hoạt động của cơ quan bảo hiến bị
phụ thuộc bởi Chính phủ thì khi Chính phủ thực hiện hành vi vi hiến rất có thể cơ
quan bảo hiến sẽ không khách quan khi xem xét, đánh giá hành vi vi hiến đó của
Chính phủ, thậm chí bao che, “ngó lơ” cho hành vi vi hiến.
Thứ ba, có ngân sách hoạt động riêng và được quyền tự định đoạt sao cho phù
hợp. Bất kỳ một cơ quan nào muốn tồn tại phải có ngân sách nhằm đảm bảo cho quá
trình hoạt động của nó. Và hơn hết đảm bảo cho tính độc lập là sự không lệ thuộc về
mặt tài chính, muốn độc lập thì trước nhất cơ quan bảo hiến phải có ngân sách riêng
phục vụ cho những hoạt động của cơ quan. Từ đó mới có thể đảm bảo tính khách
quan trong quá trình thực hiện chức năng bảo vệ hiến pháp. Tuy nhiên, việc sử dụng
ngân sách phải báo cáo và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên biệt về ngân sách
nhằm tránh sự lạm dụng ngân sách sai mục đích.
Thứ tư, kết quả của hoạt động bảo hiến mang giá trị pháp lý cao19. Hầu hết
các phán quyết của cơ quan bảo hiến đưa ra đều có giá trị thi hành dù có hay không
cơ quan cưỡng chế thi hành. Một đạo luật bị tuyên vi hiến thì mặc nhiên không còn
được áp dụng vào thực tiễn đời sống, mặc dù ở một số quốc gia việc tuyên bố một
đạo luật vi hiến chỉ có giá trị đối với các bên trong một tranh chấp. Ví dụ khi một đạo
luật bị tuyên vi hiến bởi Hội đồng hiến pháp ở Pháp thì đạo luật đó sẽ không có hiệu
lực trên thực tế. Ở Hoa Kỳ, một đạo luật bị Tòa án Tối cao liên bang tuyên bố là vi
hiến, từ chối áp dụng thì chỉ có giá trị pháp lý đối với các bên trong một vụ tranh chấp
đó, đạo luật vẫn còn hiệu lực. Tuy nhiên, do truyền thống án lệ của Hoa Kỳ nên trên
thực tế đạo luật đó vẫn sẽ bị chấm dứt hiệu lực.
Hoàng Văn Tú (2013), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cơ quan bảo hiến ở Việt Nam khi sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992”, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7, tr.29
19
14
1.2.4. Phân loại mô hình bảo hiến
Hiện nay trên thế giới tồn tại 02 mô hình bảo hiến phổ biến: mô hình bảo hiến
tập trung và mô hình bảo hiến phi tập trung.
1.2.4.1. Mô hình bảo hiến tập trung (Concentrated system)
Mô hình bảo hiến này phổ biến ở các nước châu Âu như: Áo, Pháp, Đức, Italia,
Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Thái Lan, Campuchia,... Đây là mô
hình bảo hiến có cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng bảo hiến (Tòa án Hiến
pháp hay Hội đồng bảo hiến). Trong đó, mô hình Tòa án Hiến pháp thành lập đầu
tiên ở Áo vào năm 1920 gắn liền với những lập luận của Hans Kelsen20. Vài năm sau,
mô hình này được du nhập sang Đức, Đức đã làm cho Tòa án Hiến pháp trở nên mẫu
mực và điển hình bằng chứng là mô hình này khá phổ biến được rất nhiều các nước
trên thế giới lựa chọn áp dụng, hầu hết các nước ở khu vực châu Âu, châu Á và một
số nước châu Phi. Tòa án Hiến pháp chỉ được tiến hành xem xét tính hợp hiến của
một đạo luật do nghị viện ban hành sau khi đạo luật đó đã được nghị viện thông qua
và phát huy hiệu lực trên thực tế. Các phán quyết về Hiến pháp của Tòa án Hiến pháp
có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị.
Còn mô hình Hội đồng Hiến pháp ở Pháp gắn với những toan tính của Charles
De Gaulle, năm 1958 khi ông lên làm Tổng thống với mong muốn làm tăng cường
quyền lực cho mình làm suy yếu quyền lực của nghị viện nhưng không muốn đối đầu
với nghị viện nên ông chọn thành lập Hội đồng bảo hiến để xem xét tính hợp hiến
của một đạo luật do nghị viện ban hành có vi hiến hay không để tổng thống có cơ sở
để phủ quyết. Vì lý do mang tính chính trị nên mô hình Hội đồng bảo hiến không
được sử dụng phổ biến trên thế giới. Hiện nay, ngoài Pháp thì chỉ các quốc gia chịu
ảnh hưởng bởi truyền thống pháp luật của Pháp mới áp dụng mô hình bảo hiến này
(chủ yếu là các quốc gia từng là thuộc địa của Pháp ở châu Phi và Đông Nam Á).
Mặc dù tên gọi và hình thức bên ngoài của mô hình bảo hiến ở các quốc gia này giống
với mô hình bảo hiến Pháp, nhưng được áp dụng sáng tạo cho phù hợp với đặc điểm
kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Đa phần các quốc gia này thường áp dụng
sáng tạo và có pha trộn giữa những đặc điểm của mô hình Tòa án Hiến pháp ở Đức
và Hội đồng Hiến pháp ở Pháp. Hội đồng hiến pháp chỉ được chủ động xem xét một
đạo luật do Nghị viện ban hành khi còn là dự luật. Nếu đạo luật đã được ban hành thì
Hội đồng Hiến pháp chỉ được xem xét khi có yêu cầu của các chủ thể có thẩm quyền.
Các quyết định của Hội đồng Hiến pháp có giá trị đối với tất cả các chủ thể trong đời
sống chính trị và có giá trị chung thẩm, mang tính hành chính mệnh lệnh, không bị
Bùi Huy Tùng (2010), “Mô hình Tòa án Hiến pháp ở Cộng hòa Áo”, tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 12
(173), tháng 6/2010, tr.56
20
15
kháng cáo, kháng nghị. Quyết định của Hội đồng Hiến pháp có cơ chế cưỡng chế thi
hành mà được thi hành bởi văn minh chính trị - tức là được các chủ thể tự nguyện thi
hành.
Ngoài ra, Hiến pháp của một số quốc gia chỉ trao quyền cho Tòa án Tối cao
chức năng bảo vệ hiến pháp (một số quốc gia như Gana, Srilanka, Namibia…). Tuy
nhiên, cách thức bảo hiến của các quốc gia này lại giống với mô hình bảo hiến phi
tập trung của Hoa Kỳ, đó là cơ chế bảo hiến mang bản chất tư pháp của Tòa án.
1.2.4.2. Mô hình bảo hiến phi tập trung (Decentralised constitutional
control)
Khác với các nước châu Âu mô hình này không có cơ quan chuyên trách nào
thực hiện chức năng bảo vệ hiến pháp. Theo đó, ở các quốc gia theo mô hình bảo hiến
phi tập trung chức năng bảo hiến sẽ giao cho tòa án các cấp, chủ yếu là Tòa án Tối
cao liên bang. Tòa án Tối cao liên bang và các tòa án các cấp có chức năng bảo hiến
(Hoa Kỳ, Hy Lạp, Nhật Bản, Ấn Độ, Thụy Điển, Mexico,…).
Theo học thuyết về phân chia quyền lực của Montesquieu thì cơ quan tư pháp
phải độc lập và ít tham gia vào việc kiểm soát, đối trọng quyền lực giữa nhánh hành
pháp và lập pháp, cũng như ít chịu ảnh hưởng từ Nghị viện và Chính phủ. Tuy nhiên,
tại các quốc gia theo mô hình bảo hiến phi tập trung, hệ thống tòa án không chỉ có
chức năng thực hiện quyền tư pháp mà còn được trao cho chức năng bảo vệ Hiến
pháp, qua đó kiểm soát, hạn chế quyền lực của các cơ quan thuộc nhánh lập pháp và
hành pháp. Chẳng hạn, tại Hoa Kỳ, khi Tổng thống ban hành sắc lệnh, hay Chính phủ
ban hành nghị định, hay Nghị viện ban hành các văn bản pháp luật trái với nội dung
hay tinh thần của Hiến pháp thì tòa án có thể làm vô hiệu hóa các văn bản này. Hoa
Kỳ là quốc gia đầu tiên trên thế giới trao quyền phán quyết tính hợp hiến của các văn
bản luật, dưới luật cho tòa án từ năm 1803.
Năm 1803, bắt đầu từ vụ kiện lịch sử Marbury kiện Madison đã kiến tạo nền
tư pháp Hoa Kỳ được xếp vào loại mạnh nhất trên thế giới, có khả năng kiềm chế,
đối trọng với hai nhánh quyền lực còn lại. Vụ kiện Marbury kiện Madison đã tạo ra
tiền lệ cho Tòa án tối cao liên bang có quyền xem xét lại và tuyên bố đạo luật nào đó
do Nghị viện ban hành là vi hiến và làm vô hiệu hóa đạo luật đó 21. Ở mô hình này
Tòa án chỉ được xem xét đạo luật là vi hiến khi mà đạo luật đó đã được Nghị viện
thông qua, đã phát sinh hiệu lực trên thực tế. Tức là khi đạo luật còn là dự luật đang
được Nghị viện xem xét thông qua và chưa có hiệu lực pháp luật thì Tòa án không
thể xem xét tính hợp hiến. Ngoài ra, Tòa án cũng không được phép xem xét tính vi
21
Melvin I. Urofsky, Marbury v. Madison, https://www.britannica.com/event/Marbury-v-Madison (accessed
in 20/03/2022).
- Xem thêm -