Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chức năng của kinh tế chính trị mac lenin vai trò của lý luận kinh tế chính trị ...

Tài liệu Chức năng của kinh tế chính trị mac lenin vai trò của lý luận kinh tế chính trị mac lenin đối với thực tiễn

.PDF
21
1
132

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  Tiểu luận cuối kỳ (Môn học: Kinh tế Chính trị Mac-Lenin) TÊN ĐỀ TÀI: CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC-LENIN VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC-LENIN ĐỐI VỚI THỰC TIỄN BUỔI : Sáng thứ 6 TIẾT : 4-5 NHÓM THỰC HIỆN : 01 GVDH: Trần Ngọc Chung HỌC KỲ: II – NĂM HỌC: 2019 - 2020 TP.HỒ CHÍ MINH – tháng 7 năm 2020 1|Page Họ tên sinh viên thực hiện đề tài: 1. Nguyễn Xuân Trường (NT) MSSV: 19145054 STT 92 SĐT 0328949363 2. Lê Bá Duy MSSV: 19145044 STT 18 3. Đặng Lê Nguyên Vũ MSSV: 19145337 STT 98 4. Nguyễn Minh Tuấn MSSV: 19145334 STT 95 5. Nguyễn Quang Sự MSSV: 19145301 STT 78 Giảng viên hướng dẫn: Trần Ngọc Chung ĐIỂM: NHẬN XÉT CỦA GV:……………………………………………….. ………………………………………………………………………….. …………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………. GV ký tên 2|Page Mục lục Nội dung trang Phần Mở Đầu ............................................................................................................4 1. Đặt vấn đề:……………………………………………………………………...4 2. Mục tiêu: ……………………………………………………………………......5 CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CƠ BẢN ....................................................................5 1.1 Khái lược về kinh tế chính trị mác-lenin: ..............................................5 1.2. Chức năng của kinh tế chính trị mac-lenin: ..........................................9 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MACLÊNIN VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM……………………………………...…10 CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN: ................................................................17 KẾT LUẬN .............................................................................................................20 3|Page Phần Mở Đầu 1. Đặt vấn đề. Trải qua những thời kì, giai đoạn gian khổ của nhân loại nói chúng và Việt Nam ta nói riêng thì giờ đây chúng ta đang sống và làm việc trong một xã hội hiện đại, phát triển. Bắt kịp với trình độ phát triển của các nước tiên tiến, Việt Nam đang trên đà phát triển vượt bậc với những thành tích đáng nể. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế, nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó những hiện thực, khái niệm, phạm trù, quy luật... của kinh tế thị trường mà kinh tế chính trị đưa ra là cực kỳ cần thiết không chỉ đối với quản lý kinh tế vĩ mô, mà còn cần thiết cho việc quản lý xã hội, quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Kinh tế chính trị Mac - Lenin có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị Mac - Lenin càng được đặt ra một cách bức thiết, khắc phục sự lạc hậu về sự lý luận kinh tế, sự giáo điều, tách rời lý luận với cuộc sống, góp phần hình thành tư duy kinh tế mới. Một khi đã nắm vững, hiểu rõ và nghiên cứu kỹ về Kinh tế chính trị, chúng ta sẽ có được cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm học tập các môn khoa học kinh tế khác vì các môn kinh tế khác đều phải phụ thuộc vào các kiến thức, các phạm trù kinh tế và các quy luật mà Kinh tế chính trị Mac - Lenin nêu ra. Hay nói cụ thể hơn chính là ta cần nắm rõ chức năng của Kinh tế chính trị Mac - Lenin đối với nhận thức, tư tưởng và thực tiễn để từ đó vận dụng triệt để, tối đa lí luận Kinh tế chính trị Mac - Lenin đối với thực tiễn đời sống. Với lí do đó, bài tiểu luận này của chúng em sẽ làm rõ về vấn đề chức năng của Kinh tế chính trị Mac - Lenin và vai trò của lí luận Kinh tế chính trị Mac - Lenin đối với thực tiễn. Tuy đây chỉ là một bộ phận nhỏ của Kinh tế chính trị Mac - Lenin nhưng hi vọng bài tiểu luận sẽ có ích trong quá trình tìm hiểu, nguyên cứu bộ môn Kinh tế chính trị Mac - Lenin. Trong quá trình nghiên cứu vẫn còn những vấn đề phức tạp nên không tránh khỏi sai sót. Mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận của nhóm hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! 4|Page 2. Mục tiêu: + Đưa ra những thông tin sơ lược về Kinh tế chính trị Mac - Lenin. +Nêu ra được ý nghĩa, tầm quan trọng, đối tượng nghiên cứu cũng như mối liên hệ giữa các quan hệ kinh tế trong lòng xã hội tư bản, đặc biệt là xoáy sâu về các quy luật của nên sản xuất. +Chỉ ra được chức năng của Kinh tế chính trị Mac - Lenin đối với các mặt như nhận thức, tư tưởng, thực tiễn và chức năng của phương pháp luận trong Kinh tế chính trị Mac - Lenin. +Nêu lên vai trò của lí luận Kinh tế chính trị Mac - Lenin đối với thực tiễn Việt Nam ta. CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT CƠ BẢN 1.1 Khái lược về kinh tế chính trị mác-lenin: • Ý nghĩa: 1. Kinh tế chính trị Marx-Lenin hay kinh tế chính trị học Marx-Lenin là một lý thuyết kinh tế và là môn khoa học về kinh tế chính trị do Marx, Engels và sau này là Lenin phát triển trong giai đoạn mới, có đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua đó vạch rõ bản chất, hiện tượng của các quá trình kinh tế để có cơ sở giải quyết các mối quan hệ liên quan đến học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lenin. Cốt lõi của kinh tế chính trị Mác - Lenin là học thuyết giá trị thặng dư của Các Mác. 2. Kinh tế chính trị Mác-Lênin đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử phát triển của kinh tế chính trị học, đưa kinh tế chính trị vượt qua những hạn chế của các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển, giải quyết một cách triệt để những vấn đề mà khoa học kinh tế trước Mác không thể vượt qua được trên lập trường của giai cấp công nhân. Với sự ra đời của học thuyết kinh tế Mác, lịch sử học thuyết kinh tế chính trị được chia thành hai thời kỳ lớn: trước Mác và sau Mác. 5|Page 3. Là vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội mới. Từ đó buộc chủ nghĩa tư bản ngày càng phải điều chỉnh theo hướng tiến bộ hơn, dân chủ hơn. 4. Việt nam: “Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta” (Văn kiện Đại hội Đảng IX) • Tầm quan trọng: Kinh tế chính trị Mac LêNin có tầm quan trọng đời sống xã hội .trong công việc đổi mới đất nước hiện nay, yêu cầu học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị Mac LêNin càng được đặt ra một cách bức thiết, nhằm khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều tách rời lý luận với cuộc sống, góp phần hình thành phát triển nền kinh tế nước ta • Đối tượng Lịch sử cho thấy quá trình hình thành và phát triển môn kinh tế chính trị có những nhận thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu. Chủ nghĩa trọng thương cho rằng, đối tượng nghiên cứu của môn kinh tế chính trị là lĩnh vực lưu thông mà chủ yếu là ngoại thương. Chủ nghĩa trọng nông chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, nhưng lại chỉ giới hạn ở sản xuất nông nghiệp. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển xác định kinh tế chính trị là khoa học khảo sát về bản chất và nguyên nhân của sự giàu có, có những phát hiện nhất định về những quy luật kinh tế chi phối nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng lại coi các quy luật của chủ nghĩa tư bản là quy luật của quá trình lao động nói chung của loài người, phủ định tính chất lịch sử của chủ nghĩa tư bản. Một số nhà kinh tế học hiện đại ở các nước tư bản chủ nghĩa lại tách chính trị khỏi kinh tế, biến kinh tế chính trị thành khoa học kinh tế thuần tuý, che đậy quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và mâu thuẫn giai cấp trong chủ nghĩa tư bản. Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị được thể hiện rõ trong tác phẩm Chống Đuyrinh của Ph.Ăngghen. Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh: "Kinh tế chính trị học, theo nghĩa rộng nhất, là khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và 6|Page sự trao đổi những tư liệu sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người... Những điều kiện trong đó người ta sản xuất sản phẩm và trao đổi chúng, đều thay đổi tuỳ từng nước, và trong mỗi nước, lại thay đổi tuỳ từng thế hệ. Bởi vậy không thể có cùng một môn kinh tế chính trị duy nhất cho tất cả mọi nước và cho tất cả mọi thời đại lịch sử được... Vậy môn kinh tế chính trị, về thực chất là một môn khoa học có tính chất lịch sử. Nó nghiên cứu tư liệu có tính chất lịch sử, nghĩa là một tư liệu luôn luôn thay đổi; nó nghiên cứu trước hết là những quy luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển của sản xuất và của trao đổi, và chỉ sau khi nghiên cứu như thế xong xuôi rồi nó mới có thể xác định ra một vài quy luật hoàn toàn có tính chất chung, thích dụng, nói chung, cho sản xuất và trao đổi... Chẳng hạn như việc dùng tiền kim loại đã làm cho một loạt quy luật phát huy tác dụng, những quy luật này có hiệu lực cho bất cứ nước nào và bất cứ giai đoạn lịch sử nào mà tiền kim loại được dùng làm phương tiện trao đổi" Phương thức phân phối sản phẩm cũng phụ thuộc vào phương thức sản xuất và trao đổi của một xã hội nhất định trong lịch sử, vào những tiền đề lịch sử của xã hội đó. Tuy vậy, phân phối không chỉ đơn thuần là một kết quả thụ động của sản xuất và trao đổi, nó cũng có tác động trở lại đối với sản xuất và trao đổi. Theo nghĩa hẹp, kinh tế chính trị nghiên cứu sự phát sinh, phát triển của một phương thức sản xuất nhất định và tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất đó bằng một phương thức sản xuất cao hơn. Tác phẩm Tư bản của C. Mác là một kiểu mẫu về kinh tế chính trị theo nghĩa hẹp, trong đó phân tích sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những nhân tố phủ định của chủ nghĩa tư bản và sự chuẩn bị những tiền đề cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Trong lời tựa viết cho lần xuất bản thứ nhất tác phẩm này, C. Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức ấy và mục đích cuối cùng của tác phẩm này là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại. Lênin cũng xác định: Kinh tế chính trị "tuyệt nhiên không nghiên cứu "sự sản xuất" mà nghiên cứu những quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất" và phê phán quan điểm cho rằng kinh tế chính trị là khoa học về kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. 7|Page Như vậy, kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ xã hội của con người hình thành trong quá trình sản xuất và tái sản xuất của cải vật chất và vạch rõ những quy luật điều tiết sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải đó trong những trình độ nhất định với sự phát triển xã hội loài người. Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị là phương thức sản xuất hay nói cách khác là nó nghiên cứu các quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Các quan hệ sản xuất phải phù hợp một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất, đẩy nhanh hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Kinh tế chính trị không nghiên cứu bản thân đối tượng lao động và tư liệu lao động mà nghiên cứu việc phát triển lực lượng sản xuất trong mức độ làm rõ sự phát triển của quan hệ sản xuất do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Nó cũng không nghiên cứu bản thân của cải vật chất, mà nghiên cứu quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng những của cải này. Kinh tế chính trị cũng quan tâm đến mối liên hệ giữa quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, bởi vì các quan hệ sản xuất là cơ sở của kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng, nhất là quan hệ chính trị, pháp luật, v.v. tác động trở lại quan hệ sản xuất và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, biểu hiện rõ nhất là vai trò kinh tế của nhà nước trong xã hội hiện đại. Kinh tế chính trị nghiên cứu quan hệ sản xuất trong mối liên hệ và tác động với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, nhưng không phải là nghiên cứu những biểu hiện bề ngoài của các hiện tượng kinh tế mà đi sâu vạch rõ bản chất, tìm ra những mối liên hệ và sự lệ thuộc bên trong của các hiện tượng và quá trình kinh tế trên cơ sở đó hình thành các phạm trù và khái niệm như hàng hoá, tiền tệ, tư bản, thu nhập quốc dân, v.v.. Kết quả cao nhất của sự phân tích khoa học các quan hệ sản xuất, các quá trình kinh tế nói chung là phát hiện ra các quy luật, tính quy luật kinh tế và sự tác động của chúng nhằm mục đích ứng dụng một cách có hiệu quả trong thực tiễn. 8|Page 1.2. Chức năng của kinh tế chính trị mac-lenin: Kinh tế chính trị Mác – Lênin thực hiện những chức năng sau đây: a) Chức năng nhận thức Kinh tế chính trị Mác – Lênin cung cấp những tri thức về sự vận động của các quan hệ sản xuất, về sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng, về những quy luật kinh tế của xã hội trong những trình độ phát triển khác nhau của xã hội. Đó là chìa khoá để nhận thức lịch sử phát triển của sản xuất vật chất và lịch sử phát triển của xã hội loài người nói chung, về chủ nghĩa tư bản nói riêng để giải thích các hiện tượng và quá trình kinh tế đang diễn ra trong thực tiễn; phân tích nguyên nhân và dự báo triển vọng, chiều hướng phát triển kinh tế và xã hội. Những tri thức do kinh tế chính trị cung cấp là cơ sở khoa học để đề ra đường lối, chính sách kinh tế tác động vào hoạt động kinh tế, định hướng cho sự phát triển kinh tế và cũng là cơ sở nhận thức sâu sắc đường lối, chính sách kinh tế. b) Chức năng thực tiễn Giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhận thức: nghiên cứu các quy luật kinh tế là để thực hiện nhiệm vụ cải tạo thế giới. Các học thuyết kinh tế chính trị của Các Mác trang bị cho công nhân và nhân dân lao động một công cụ đấu tranh giai cấp mạnh mẽ, giúp họ nhận rõ sứ mệnh lịch sử của mình. Kinh tế chính trị tuy không đưa ra những giải pháp cụ thể cho mọi tình huống trong cuộc sống, nhưng nó vạch ra những quy luật và những xu hướng phát triển chung, cung cấp những tri thức và nếu thiếu chúng sẽ không giải quyết được tốt những vấn đề cụ thể. Khi quần chúng đã nắm vững lý luận khoa học thì lý luận khoa học sẽ trở thành lực lượng vật chất. Tính khoa học và cách mạng của kinh tế chính trị Mác – Lêninlà những yếu tố quyết định hành động thực tiễn của người học, nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn đó, nhất là trong công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa. 9|Page c) Chức năng phương pháp Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh tế, trong đó có các khoa học kinh tế ngành, như kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, vận tải, lao động, tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng… Ngoài ra, nó còn là cơ sở lý luận cho một loạt khoa học kinh tế nằm giáp ranh giữa các tri thức ngành khác nhau, như địa lý kinh tế, nhân khẩu học… Đối với các khoa học kinh tế nói trên, kinh tế chính trị thực hiện chức năng phương pháp luận, nghĩa là cung cấp nền tảng lý luận khoa học, mang tính đảng cho các môn khoa học kinh tế cụ thể. d) Chức năng tư tưởng Trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản, kinh tế chính trị Mác – Lênin đã góp phần đắc lực xây dựng thế giới quan cách mạng và niềm tin sâu sắc của người học vào cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xoá bỏ áp bức bóc lột giai cấp và dân tộc, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa, làm cho niềm tin có một căn cứ khoa học vững chắc đủ sức vượt qua khó khăn, kể cả những thất bại tạm thời trong quá trình phát triển của cách mạng. Kinh tế chính trị Mác – Lênin, cùng với các bộ phận hợp thành khác của chủ nghĩa Mác – Lênin, là vũ khí tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, xây dựng chế độ xã hội mới. CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC-LÊNIN VỚI THỰC TIỄN VIỆT NAM Thứ nhất, tư tưởng của V.I. Lê-nin là cơ sở lý luận, được vận dụng kiên định và sáng tạo, từng bước định hình con đường và bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện mới của Việt Nam, 10 | P a g e từ đó đã đúc kết những luận điểm lý luận phù hợp với mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đó là những luận điểm lý luận về mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Trong bước chuyển đổi từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” vào mùa xuân năm 1921, V.I. Lê-nin đã tự phê phán về những sai lầm nghiêm trọng khi coi thường quy luật khách quan và yêu cầu cần thay đổi căn bản những quan niệm, tư duy trước đây về chủ nghĩa xã hội. Lĩnh hội tinh thần đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã tạo ra bước ngoặt trong đổi mới tư duy về con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan là khởi nguồn cho những sáng tạo của Đảng khi xác định mô hình và bước đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong buổi đầu thời kỳ quá độ. Những quan điểm đổi mới về tư duy kinh tế nêu trên Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989) khẳng định và bổ sung với những bước tiến mới. Từ kinh nghiệm của 5 năm đổi mới, Đại hội VII của Đảng (6-1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã xác định sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. So với sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã nêu ra, Đại hội X đã bổ sung hai đặc trưng là xây dựng “xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” và “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục bổ sung và phát triển Cương lĩnh cho phù hợp với thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong đó có những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 đã vạch ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng xã hội mới theo những đặc trưng được xác định. Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, từ 11 | P a g e việc tổng kết thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung, phát triển nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thể hiện ở tám phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thành công mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để đưa Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Ðảng (tháng 1-2016) tiếp tục khẳng định và phân tích sâu sắc hơn tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cho phù hợp hơn với thực tiễn, bối cảnh mới. Đại hội XII rút ra ba kết luận quan trọng: +Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới + Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo + Những thành tựu đó khẳng định con đường lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, Đảng ta đã nhận thức lại, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển nhằm khắc phục những cách hiểu, cách nghĩ, cách làm giản đơn, siêu hình, giáo điều, duy ý chí, trái quy luật khách quan về thời kỳ trước đổi mới, theo đúng tinh thần của V.I. Lê-nin. Đổi mới, do đó, không phải là xa rời hay từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận chủ nghĩa xã hội khoa học mà trái lại, là sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn, là sự phát triển sáng tạo hơn nữa bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, của chủ nghĩa xã hội khoa học để tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. Thứ hai, tư tưởng của V.I. Lê-nin về NEP là cơ sở nền tảng để Đảng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới.V.I. Lê-nin đã bổ sung, cụ thể hóa lý luận Mác về thời kỳ quá độ bằng thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, 12 | P a g e tập trung phân tích về quá độ trong kinh tế. V.I. Lê-nin đã chỉ ra năm thành phần kinh tế nước Nga đương thời, đồng thời chủ trương thực hiện “những bước quá độ nhỏ”, bắc những “chiếc cầu nhỏ” để đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong “Chính sách kinh tế mới”, cơ chế thị trường được sử dụng để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng, kiểm soát của Nhà nước; lợi ích của các chủ thể được quan tâm đã có tác dụng phục hồi lực lượng sản xuất nhanh chóng, thúc đẩy kinh tế phát triển, đời sống của công nhân, nông dân được cải thiện. Nhờ có chính sách này mà đến cuối năm 1925, về cơ bản, Liên Xô đã hoàn thành việc khôi phục nền kinh tế quốc dân. Theo tinh thần NEP của V.I. Lê-nin, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới, trong đó có đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nhằm tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao động hăng hái phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, phải 15 năm sau, khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” mới chính thức được xác định từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Đến Đại hội XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã có bước phát triển tư duy rất rõ nét về kinh tế thị trường khi xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII xác định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, từ sự thúc bách của cuộc sống, từ nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong quá trình đổi mới cũng như nghiên cứu kế thừa tư tưởng các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng ta đã thực hiện đổi mới, sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận cơ chế thị trường và khẳng định nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính V.I. Lê-nin cũng đã từng nhấn mạnh: “Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là 13 | P a g e chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” Thứ ba, các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, đặc biệt là tư tưởng của V.I. Lê-nin được Đảng ta vận dụng, phát triển vào xây dựng, củng cố liên minh giai cấp và đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong giai đoạn lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lê-nin đã vận dụng sáng tạo những quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về liên minh giai cấp vào thực tiễn cách mạng nước Nga và xây dựng được liên minh giai cấp công - nông bền vững, góp phần to lớn vào thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, V.I. Lê-nin còn nhiều lần nhấn mạnh tới vai trò của trí thức và khẳng định, muốn thu hút họ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải “đảm bảo cho các người trí thức những điều kiện lao động tốt nhất”. Tư tưởng của V.I. Lê-nin được Đảng ta nghiên cứu thấu đáo, rút ra những kinh nghiệm quý báu để xây dựng liên minh giai cấp, tầng lớp ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là từ khi khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh năm 1991 rất coi trọng việc thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do giai cấp công nhân lãnh đạo với ý nghĩa là nền tảng chính trị - xã hội của Nhà nước của dân, do dân, vì dân, là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2001) không chỉ tiếp tục khẳng định tính tất yếu của liên minh công - nông - trí thức trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, mà còn đặc biệt coi trọng vấn đề này, coi đây là động lực quan trọng trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. 14 | P a g e Kế thừa và phát triển tinh thần đó trong bối cảnh mới, các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI và XII đều tiếp tục khẳng định vai trò, tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức đối với việc củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc và đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, có bổ sung những quan điểm, định hướng và giải pháp mới. Thứ tư, tư tưởng của V.I. Lê-nin về Đảng Cộng sản kiểu mới đã được vận dụng sáng tạo, đem lại những thành tựu trong xây dựng và củng cố vai trò Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội ở Việt Nam nhân tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đi đến thắng lợi. Khi Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền thì năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phụ thuộc rất nhiều vào kỷ luật đảng và phẩm chất tiền phong của đảng viên. Tháng 5-1920, trong tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”, V.I. Lê-nin viết: “Những người Bôn-sê-vích sẽ không giữ được chính quyền, tôi không nói được tới hai năm rưỡi, mà ngay cả đến hai tháng rưỡi cũng không được nữa, nếu đảng ta không có kỷ luật hết sức nghiêm minh, kỷ luật sắt thật sự”. Theo ông, có ba kẻ thù chính mà người cộng sản của đảng cầm quyền phải kiên quyết đấu tranh là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; nạn mù chữ, sự ngu dốt, cản trở việc giáo dục chính trị và nạn hối lộ, tham nhũng”. Thấm nhuần sâu sắc những tư tưởng này của V.I. Lê-nin, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là cơ sở, tiền đề vững chắc bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Gần 35 năm qua, nhất là trong 10 năm gần đây, nhận thức về công tác xây dựng Đảng có nhiều đổi mới. Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vị trí của công tác xây dựng Đảng. Đảng ta luôn khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng. Nhận thức của Đảng ta về công tác xây dựng Đảng ngày càng đầy đủ, khách quan và khoa học; thể hiện sự vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây 15 | P a g e dựng Đảng - đội tiền phong của giai cấp công nhân - phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng ta đã thực hiện lời di huấn của V.I. Lê-nin là phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội; đó phải là những tổ chức bộ máy phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ máy. Theo V.I. Lê-nin, chính trị được đề cập ở đây chính là cuộc sống của nhân dân, lợi ích của nhân dân, là số phận của hàng triệu triệu con người. Thứ năm, Đảng ta vận dụng tư tưởng của V.I. Lê-nin trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong nhận diện và xử lý mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, vấn đề xác định và phân định nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng với nhiệm vụ quản lý của Nhà nước được V.I. Lê-nin quan tâm và chỉ rõ: Chừng nào mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng và toàn Đảng còn tiếp tục làm công tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý nhà nước thì Đảng không thể gọi là người lãnh đạo được. Năm 1922, V.I. Lê-nin cho rằng, giữa Đảng và các cơ quan Xô-viết hiện nay có những quan hệ không đúng đắn và phải nâng cao uy quyền của Hội đồng dân ủy. Vào những ngày tháng cuối đời, V.I. Lê-nin trăn trở rất nhiều về việc cải tổ bộ máy nhà nước. Ông chỉ ra tình trạng bộ máy nhà nước vẫn ngày càng cồng kềnh, nặng nề; chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận không rõ ràng; quan hệ giữa Đảng và Nhà nước chưa rành mạch hoặc có chỗ thiếu kết hợp, chưa hài hòa. V.I. Lê-nin phê phán nghiêm khắc quá trình cải tổ mang tính hình thức và kém hiệu quả, để cho bộ máy nhà nước lại rơi vào quỹ đạo nhà nước cũ và tệ quan liêu bùng phát. Thực hiện nguyên tắc bảo đảm sự tham gia quản lý nhà nước của toàn thể nhân dân lao động và nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, V.I. Lê-nin khẳng định: “Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có “sự giám sát” từ trên, không có quan lại”. Trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng bổ sung, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ 16 | P a g e Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, tăng cường phát huy và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong điều kiện mới, sớm đưa Việt Nam sánh vai các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Bác Hồ. CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN Nền kinh tế thị trường theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, xã hội tồn tại và phát triển được là nhờ sản xuất vật chất, lịch sử của xã hội trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật chất. C. Mác khẳng định, sự phát triển của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa ở giai đoạn cao, lúc đó nhà nước tự tiêu vong và khi ấy kinh tế hàng hóa (kinh tế thị trường) cũng không còn tồn tại. Lênin cũng cho rằng: Chủ nghĩa xã hội (CNXH) là sản phẩm của nền đại công nghiệp cơ khí. Và nếu “không có kỹ thuật tư bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại... thì không thể nói đến CNXH được”. Tuy nhiên, trước khi không còn cơ sở tồn tại, bản thân nhà nước và kinh tế thị trường lại cần thiết cho quá trình xây dựng thành công một xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Logic này được Lênin khẳng định từ chính thực tiễn phát triển của nước Nga. Khi Cách mạng tháng Mười (Nga) thành công, ngay bản thân Lênin, trong giai đoạn đầu cũng triển khai chính sách cộng sản thời chiến. Tuy nhiên, sau đó ông nhận ra sai lầm, nóng vội nó đối lập Đảng với quần chúng nhân dân và chỉ làm trầm trọng thêm nền kinh tế vốn đã hoang tàn của đất nước. Lênin đã chỉ ra con đường khắc phục thông qua triển khai thực hiện chính sách kinh tế mới, tức chuyển từ kế hoạch hóa tập trung sang khuyến khích phát triển kinh tế hàng hóa, chấp nhận mức độ nhất định cơ chế thị trường. Để phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện mới hình thành còn nhiều khó khăn, cần phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần… 17 | P a g e Phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm phát triển của các quốc gia trên thế giới và từ thực tiễn phát triển Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCH. Đây là bước phát triển mới về tư duy lý luận, một sự vận dụng độc lập, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình đổi mới và là sự vận dụng sáng tạo từ chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường đi lên CNXH, đặc biệt là những chỉ dẫn của Lê-nin trong chính sách kinh tế mới. Với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nền kinh tế nước ta đã đạt nhiều thành tựu, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn chiến tranh, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, mô hình kinh tế này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trước tình trạng sản xuất đình đốn, thương mại trì trệ, năng suất lao động thấp, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, lực lượng sản xuất lạc hậu... Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn nước ta, quyết tâm từ bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Ở Việt Nam, mặc dù đã có quan điểm manh nha về kinh tế thị trường từ Đại hội VI khi xác định xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, tuy nhiên đến Đại hội IX, thuật ngữ “phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN” mới chính thức được sử dụng trong Văn kiện của Đảng. Đến Đại hội X của Đảng (2006), 5 thành phần kinh tế gồm: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được xác lập trong nền kinh tế nước ta. Vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân đã được nhận thức rõ ràng và xác định cụ thể. Đến Đại hội XI của Đảng (2011) đã phát triển và hoàn thiện thêm một bước đặc trưng kinh tế của CNXH, trong đó Đảng ta xác định: “Nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Các thành phần 18 | P a g e kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển”. Trên cơ sở kế thừa nhận thức của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng đã có những bổ sung đáng kể với sự hiện diện khá toàn diện và cụ thể các thành tố cấu thành nền kinh tế, thể hiện bước tiến trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình kinh tế Việt Nam, đó là: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Như vậy, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không phải là cái khác biệt mà vẫn là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường” như quy luật tự do cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị; thực hiện tự do hoá thương mại... Các nguyên tắc, thông lệ quốc tế trong quản lý và điều hành kinh tế được tuân thủ 19 | P a g e và vận dụng một cách hợp lý, linh hoạt. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước; thực hiện sự điều tiết ở tầm vĩ mô, “định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch” bảo đảm cho thị trường phát triển lành mạnh, tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường. Ngoài ra, nền kinh tế thị trường phải hiện đại và hội nhập quốc tế. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã và đang thực hiện quá trình hội nhập quốc tế, mở rộng và gia tăng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ nhiều cơ hội hợp tác, giúp đỡ về nhiều mặt từ các nước, đặc biệt là các quốc gia phát triển; chủ động và tích cực, nhanh chóng và hiệu quả, tận dụng tốt những thời cơ, vận hội, phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời có những biện pháp gia tăng khả năng dự phòng của nền kinh tế, ứng phó tốt với những rủi ro, thách thức của tiến trình hội nhập. KẾT LUẬN Qua bài tiểu luận, chúng ta có thể tổng hợp được những kiến thức liên quan đến bộ môn Kinh tế chính trị Mac-lenin cụ thể là chức năng của lí luận kinh tế chính trị mac - lenin đối với thực tiễn Việt Nam ta. Thấy được chức năng của Kinh tế chính trị Mac-lenin tác động lên các khía cạnh khác nhau như nhận thức, tư tưởng và thực tiễn. Thông qua đó chỉ ra được vai trò của Kinh tế chính trị mac-lenin đối với thực tiễn đời sống. Kinh tế chính trị Mac-lenin chính là nền tảng, là cơ sở lý luận để Đảng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh thực tiễn Việt Nam ta đang từng bước định hình con đường và quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Tuy chỉ là một bài tiểu luận, nhưng theo em, bài làm sẽ cung cấp đến mọi người thêm kiến thức về bộ môn cũng như hỗ trợ trong quá trình nghiên cứu, học tập môn học này. 20 | P a g e
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng