Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo luật t...

Tài liệu Chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
85
1
94

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ HOÀNG YẾN CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình Sự và Tố Tụng Hình Sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 60380104 Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Huỳnh Tấn Duy Học viên : Nguyễn Thị Hoàng Yến Lớp : Cao học Luật Hình sự, Khóa 29 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là do tôi thực hiện, dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Huỳnh Tấn Duy. Những thông tin trong nội dung luận văn là khách quan, trung thực. Luận văn có kế thừa kết quả nghiên cứu của một số công trình trước đó và được chú thích đầy đủ theo đúng quy định của Trường. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Học viên Nguyễn Thị Hoàng Yến DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : BLHS BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQĐTHS : Cơ quan điều tra hình sự NXB : Nhà xuất bản TTHS : Tố tụng hình sự VKS : Viện kiểm sát MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM ................ 6 1.1. Khái niệm, phân loại chức năng tố tụng hình sự ........................................ 6 1.1.1. Khái niệm chức năng tố tụng hình sự ......................................................... 6 1.1.2. Phân loại chức năng tố tụng hình sự .......................................................... 8 1.2. Khái niệm, đặc điểm của tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm... 12 1.2.1. Khái niệm tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ............................ 12 1.2.2. Đặc điểm của tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ...................... 15 1.3. Chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ... 19 1.3.1. Khái niệm, vai trò và nội dung của chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ......................................................................... 19 1.3.2. Chủ thể thực hiện, thời điểm bắt đầu và kết thúc của chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm .............................................. 23 Kết luận Chương 1 ................................................................................................... 27 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ..................................................................................... 28 2.1. Quy định về chủ thể thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ............................................................................... 28 2.1.1. Chủ thể trình báo, cung cấp nguồn tin về tội phạm.................................. 28 2.1.2. Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận nguồn tin về tội phạm..................................................................................................................... 33 2.1.3. Chủ thể thực hiện chức năng buộc tội trong giải quyết nguồn tin về tội phạm ..................................................................................................................... 36 2.2. Quy định về nội dung chức năng buộc tội trong các tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm .......................................................................................... 38 2.2.1. Quy định về nội dung chức năng buộc tội trong tiếp nhận nguồn tin về tội phạm ..................................................................................................................... 38 2.2.2. Quy định về nội dung chức năng buộc tội trong giải quyết nguồn tin về tội phạm................................................................................................................ 45 2.3. Thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm .......................................................................................... 51 2.3.1. Khái quát thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm................................................................................. 51 2.3.2. Những hạn chế trong thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và nguyên nhân .................................... 55 Kết luận Chương 2 ................................................................................................... 62 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM .......................................... 63 3.1. Yêu cầu hoàn thiện và bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ......... 63 3.2. Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ........................................... 66 3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm ...................................... 70 Kết luận Chương 3 ................................................................................................... 75 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 LỜI NÓI ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trước khi BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2021) ra đời, tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm có vai trò rất mờ nhạt, thường không được các cơ quan – người có thẩm quyền chú ý, dẫn đến xuất hiện nhiều bất cập. Ngày 27/11/2015, việc Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua BLTTHS hiện hành, thay thế BLTTHS 2003, đã đánh dấu bước phát triển trong các quy định về quá trình này. Vấn đề nâng cao chất lượng tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, từ đó, được xác định là một trong những “khâu đột phá” trong hoạt động của ngành tố tụng nói chung. Đến ngày 12/11/2021, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được ban hành, tiếp tục cập nhật, hoàn thiện những hạn chế phát sinh trong gần 06 năm thực hiện các quy định mới1. Tuy nhiên, tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm vẫn còn những điểm cần được tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý để phù hợp hơn với thực tế. Trong lịch sử phát triển của khoa học luật TTHS, chức năng buộc tội được nhắc đến rất nhiều trong điều tra, truy tố, xét xử. Nhưng đối với quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, thì chức năng này hầu như chưa được quan tâm, dù thật sự có hiện diện. Do vậy, học viên quyết định chọn đề tài: “Chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo luật TTHS Việt Nam” để tìm hiểu, cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống về chức năng đặc thù trong quá trình tố tụng này. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Về “tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm” và “chức năng buộc tội”, trong những năm gần đây, khi BLTTHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2021 có hiệu lực thi hành, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết khoa học về hai vấn đề này, có thể kể đến như sau: Về luận án tiến sĩ: - Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong TTHS Việt Nam: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ, Học viện khoa học xã hội viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. 1 Sau đây, BLTTHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021) được gọi tắt là BLTTHS. 2 Về luận văn thạc sĩ: - Lê Tiến Châu (2001), “Các chức năng tố tụng cơ bản trong TTHS”; Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - Dương Tiến Mạnh (2015), “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong Luật TTHS Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Trương Văn Chung (2015), “Tố giác, tin báo về tội phạm theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang”, Luận văn thạc sĩ, khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Kim Thị Bích Ngọc (2017) "Chức năng buộc tội trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh", Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội; Các bài viết khoa học: - Nguyễn Thái Phúc (2007), “Mô hình TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 05; - Nguyễn Đình Trung (2012), “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Tạp chí kiểm sát; - Nguyễn Đăng Khoa (2014), “Bàn về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”, Tạp chí kiểm sát; - Nông Xuân Trường (2014), “Vai trò, trách nhiệm của VKS trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thực trạng và một số giải pháp”, Trang thông tin điện tử VKS nhân dân tối cao, Hà Nội; - Nguyễn Quang Thành (2015), “Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố, điều tra vụ án hình sự của VKS nhân dân theo Luật Tổ chức VKS nhân dân năm 2014”, Tạp chí Kiểm sát; - Các bài tham luận trong Hội thảo “Các chức năng của TTHS trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do Học viện khoa học xã hội tổ chức tháng 11/2015 như bài viết: “Lý thuyết chức năng và một số vấn đề đổi mới nhận thức về 3 các chức năng của TTHS Việt Nam” của Tiến sĩ Đinh Thị Mai; “Khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của các chức năng TTHS” của PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn; “Chức năng buộc tội và nghĩa vụ chứng minh trong TTHS - Thực trạng thực hiện từ phía cơ quan điều tra” của GS.TS. Đỗ Đình Hòa; bài “Các chức năng của TTHS và vấn đề cải cách thiết chế - Bộ máy các cơ quan tư pháp ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí… Các luận án, luận văn, bài viết trên đề cập những vấn đề về mặt lý luận, quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng của “chức năng buộc tội” từ nhiều góc độ, giai đoạn khác nhau, tại các địa phương cụ thể. So với “chức năng buộc tội”, thì các nghiên cứu về “tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm” mới xuất hiện nhiều từ khi BLTTHS 2015 ra đời, nhưng đa phần được tiếp cận ở góc độ tổng quát hoặc từ chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát. Vì vậy, qua khảo sát của tác giả, chưa có đề tài nào nghiên cứu chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS hiện hành. Do đó, đề tài này vẫn đảm bảo tính mới và có giá trị tham khảo, làm nền tảng cho các nghiên cứu chuyên sâu hơn về sau. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Luận văn được thực hiện với mục đích xác nhận sự tồn tại của chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; xác định những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện chức năng này trong thực tiễn; từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện. Nhiệm vụ nghiên cứu Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Thứ hai, phân tích và đánh giá những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Thứ ba, phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. 4 Cuối cùng, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và các giải pháp đảm bảo thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm trên thực tế. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam, tập trung vào BLTTHS 2015, có liên quan đến chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thực tiễn thực hiện. Bên cạnh đó, luận văn cũng phân tích quy định của các văn bản hướng dẫn thi hành. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chức năng buộc tội (bao gồm hệ thống lý luận, quy định pháp luật về các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, hoạt động của các chủ thể đó; khảo sát, nhận diện thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội) trong phạm vi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo pháp luật Việt Nam. Những chức năng khác như bào chữa, xét xử... hoặc việc thực hiện chức năng buộc tội trong điều tra, truy tố... không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Đề tài cũng không nghiên cứu pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài. - Về không gian và thời gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm trên phạm vi cả nước trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2021. 5. Phương pháp nghiên cứu Tác giả dùng các phương pháp nghiên cứu sau để thực hiện đề tài: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết luật học: được sử dụng để phân tích, giải thích và đánh giá các chế định, các quy định của pháp luật TTHS về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Phương pháp này được sử dụng xuyên suốt toàn luận văn. - Phương pháp so sánh: được sử dụng để đối chiếu các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Từ đó, chỉ ra những bất cập và kiến nghị giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện các quy định có liên quan. 5 - Phương pháp khảo sát: Khảo sát việc thực hiện chức năng buộc tội theo quy định của pháp luật hiện hành qua thu thập các thông tin liên quan và quan sát thực tiễn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Qua đề tài, tác giả sẽ phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận của chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bên cạnh đó, tác giả cũng cung cấp thực tiễn áp dụng, chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật, cũng như các giải pháp đảm bảo thực hiện. Do đó, kết quả nghiên cứu của luận văn là cơ sở cho những ai đang tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về chức năng buộc tội trong TTHS Việt Nam, đặc biệt ở quá trình tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; đồng thời góp phần phổ biến kiến thức pháp lý cho sinh viên, học viên, nhà nghiên cứu, cũng như những người làm công tác thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Chương 2. Quy định của pháp luật về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thực tiễn thực hiện. Chương 3. Giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực hiện quy định của pháp luật về chức năng buộc tội trong tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG BUỘC TỘI TRONG TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT NGUỒN TIN VỀ TỘI PHẠM 1.1. Khái niệm, phân loại chức năng tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm chức năng tố tụng hình sự Qua tìm hiểu của tác giả, tại Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn có cách hiểu thống nhất về khái niệm “chức năng TTHS”. Xuất phát từ góc nhìn khác nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm chức năng TTHS khác nhau. Có thể kể ra một vài quan điểm như: Tác giả Lê Tiến Châu cho rằng, chức năng TTHS cần được hiểu là “một dạng chức năng nhà nước, là những định hướng lớn, cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau trong những phạm vi nhất định trên cơ sở phù hợp với mục đích, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên tố tụng”2. Cách hiểu này có nguồn gốc từ lý luận về chức năng cơ bản của nhà nước. Chức năng Nhà nước, theo giáo trình của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa, “là những phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà nước để thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước Nhà nước”3. Như vậy, chức năng TTHS được coi là một dạng hoạt động của các chủ thể mang tính quyền lực Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước, nhằm thực hiện đồng bộ những nhiệm vụ có mục đích, nhằm đảm bảo quyền, nghĩa vụ các bên trong TTHS. Căn cứ vào hình thức hoạt động, Nhà nước thực hiện ba (03) chức năng cơ bản: Lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng TTHS thuộc nhánh chức năng tư pháp. Chức năng tư pháp bao gồm: Giám sát việc tuân theo pháp luật, được giao cho hệ thống VKS nhân dân – VKS quân sự; Tài phán (xét xử), được giao cho hệ thống Tòa án nhân dân – Tòa án quân sự; Bảo vệ pháp luật, lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, được bảo đảm thông qua việc buộc tội của các cơ quan, người có thẩm quyền nhằm trừng phạt người, pháp nhân phạm tội, răn đe chung, giữ vững tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ công lý, sự an toàn, trật tự xã hội. Theo quan điểm của riêng tác giả, khái niệm này chưa thật sự toàn diện, vì các chủ thể thực hiện chức năng TTHS không phải lúc nào cũng có quyền lực Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước. Lê Tiến Châu (2001), Các chức năng tố tụng cơ bản trong TTHS, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 15. 3 Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXB. Công an nhân dân, tr. 53. 2 7 Ở góc độ xem xét mối quan hệ nội tại giữa các chức năng TTHS, tác giả Nguyễn Thái Phúc nêu quan điểm về chức năng TTHS “là những phương diện (hay những dạng) hoạt động của TTHS do các chủ thể (hoặc nhóm chủ thể) khác nhau thực hiện theo quy định của BLTTHS với nội dung, định hướng độc lập với nhau nhưng lại gắn kết với nhau một cách hữu cơ nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS”4. Qua khái niệm này, chức năng TTHS có các đặc điểm sau: Là những phương diện của hoạt động TTHS; do nhiều chủ thể (nhóm chủ thể) khác nhau thực hiện; có mối quan hệ gắn kết hữu cơ chặt chẽ với nhau; mục tiêu thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS. Khái niệm này có mối liên hệ khá chặt chẽ, bao quát các quy định của BLTTHS, khi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện chức năng TTHS được thể hiện rõ ràng, có vai trò đối ứng với nhau, bổ khuyết cho nhau, cùng hướng đến nhiệm vụ chung của TTHS Việt Nam là phát hiện kịp thời, nhanh chóng tội phạm và người phạm tội, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, vụ việc có dấu hiệu hình sự, “không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”. Hạn chế của khái niệm này là chưa thể hiện được vấn đề một nhóm chủ thể có thể thực hiện một lúc nhiều chức năng TTHS, trong các giai đoạn khác nhau. Theo tác giả Đinh Thị Mai, “chức năng TTHS là những hoạt động mang tính định hướng cơ bản nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau, trong những phạm vi nhất định, trên cơ sở phù hợp với nội dung, mục đích, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng” 5. Tác giả Mai tiếp cận TTHS dưới góc độ là hệ thống các hoạt động. Các hoạt động của các chủ thể khác nhau phải mang tính định hướng cơ bản, được phân định bằng các “ranh giới” và có nội dung, mục đích, quyền, nghĩa vụ rõ ràng mới được gọi là chức năng. Tuy nhiên, các hoạt động trong TTHS luôn có mối liên hệ lẫn nhau, nhằm hướng tới mục tiêu chung như đã đề cập. Nên cách định nghĩa này có phần tách biệt hẳn các chức năng TTHS, chưa phản ánh được mối quan hệ lẫn nhau. Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng, chức năng TTHS là những định hướng do các nhà làm luật đề ra, buộc các chủ thể có thẩm quyền và các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác thực hiện. Hay chức năng TTHS là những phương hướng hoạt động giới hạn trong việc giải quyết vụ án hình sự. Các quan điểm này đều quá phiến diện, Nguyễn Thái Phúc (2015), Chức năng của TTHS và vấn đề hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam hiện nay”, tham luận hội thảo khoa học “Các chức năng của TTHS trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 5. 5 Đinh Thị Mai, “Sinh hoạt khoa học Lý luận cơ bản về các chức năng của TTHS”, http://gass.edu.vn/SitePages/ News_Detail.aspx?categoryId=162&itemId=38266 (truy cập ngày 12/02/2019). 4 8 góc độ tiếp cận quá hẹp, không thể hiện được đúng bản chất, vai trò, mối liên hệ và phạm vi các chức năng TTHS. Từ những phân tích trên, tác giả thuộc nhóm ủng hộ quan điểm của tác giả Nguyễn Thái Phúc. Ngoài ra, một định nghĩa có lẽ nên thể hiện phổ quát, dễ hiểu và giải quyết được phần nào sự đa vai trò của các chủ thể thực hiện các chức năng TTHS trong các giai đoạn khác nhau. Vì vậy, theo tác giả, chúng ta có thể sửa đổi, bổ sung vào khái niệm của tác giả Nguyễn Thái Phúc như sau: Chức năng TTHS là những phương diện (hay những dạng) hoạt động của TTHS, do các chủ thể (hoặc nhóm chủ thể) thực hiện theo quy định của BLTTHS với nội dung, định hướng vừa độc lập, vừa hỗ trợ nhau, nhằm thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS; trong đó, mỗi nhóm chủ thể có thể thực hiện cùng lúc nhiều chức năng TTHS. 1.1.2. Phân loại chức năng tố tụng hình sự Trong khoa học TTHS có rất nhiều quan điểm khác nhau về phân loại chức năng TTHS, nhưng có thể chia thành hai nhóm lớn: - Nhóm thứ nhất là nhóm quan điểm truyền thống, chia chức năng TTHS thành ba loại cơ bản: Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử vụ án hình sự6. Ba loại chức năng này được đông đảo các nhà nghiên cứu thừa nhận và mang tính phổ quát, đặc trưng mỗi khi nhắc đến TTHS nói chung. Về chức năng buộc tội, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về cách hiểu, bao gồm7: Quan điểm thứ nhất, khá phổ biến tại các nước theo hệ thống án lệ, cho rằng, buộc tội là “việc ghép cho ai một việc bị luật hình sự trừng phạt” hoặc “buộc tội là luận tội”. Với quan điểm này, chức năng buộc tội chỉ thật sự bắt đầu xuất hiện từ phiên tòa xét xử. Các hoạt động thực hiện trước khi phiên tòa đầu tiên được mở chỉ được xem như sự chuẩn bị cho cuộc tranh luận tại pháp đình. Như vậy, phạm vi chức năng buộc tội đã bị thu hẹp rất nhiều. Cách hiểu này nếu đặt trong mối quan hệ đối ứng, tương hỗ với chức năng bào chữa, sẽ tạo nên nhiều sự hạn chế trong các hoạt động tố tụng. Ngoài ra, đối tượng bị buộc tội không chỉ có cá nhân (ai) mà còn có thể là pháp nhân (các tổ chức, doanh nghiệp…). Do đó, cách hiểu này thật sự chưa phù hợp cả về mặt lý luận lẫn thực tế. Tác giả sử dụng thuật ngữ “chức năng xét xử vụ án hình sự” để phân biệt với chức năng xét xử nói chung, bao gồm cả xét xử vụ án dân sự, hành chính, lao động… 7 Lê Tiến Châu (2001), tlđd (số 02), tr. 10 -13. 6 9 Quan điểm thứ hai, “buộc tội” là kết luận của VKS (cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước thực hành quyền công tố) tại phiên tòa về hành vi phạm tội của bị cáo, dựa trên cơ sở phân tích các chứng cứ, vận dụng các điều, khoản của pháp luật. Quan điểm này tuy có phần giống như quan điểm trên – thu hẹp phạm vi, nhưng đã chỉ ra được phần nào nội hàm của chức năng buộc tội. Theo đó, buộc tội là quá trình dùng các chứng cứ để chứng minh một (một nhóm) đối tượng đã phạm vào một (một số) điều mà pháp luật hình sự quy định là tội phạm. Quan điểm thứ ba, chức năng buộc tội là hoạt động của VKS nhằm xác định tội phạm và người phạm tội, buộc kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Quan điểm này cũng vẫn chưa phản ánh đầy đủ về chức năng buộc tội. Bởi vì, chủ thể thực hiện chức năng này không chỉ có VKS. Trong nhóm các cơ quan tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra, thậm chí là Tòa án cũng có thể thực hiện chức năng buộc tội. Việc hệ thống Tòa án nhân dân – Tòa án quân sự của Việt Nam có thực hiện chức năng buộc tội hay không vẫn còn là một vấn đề đang gặp nhiều tranh cãi. Có quan điểm cho rằng, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện chức năng buộc tội và bào chữa. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, Khoản 4 Điều 153 BLTTHS quy định cho Tòa án quyền khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự (nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm) là biểu hiện của chức năng buộc tội. Ngoài ra, các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác (như bị hại, người – cơ quan – tổ chức tố giác tội phạm...) cũng có thể thực hiện chức năng buộc tội. Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng, chức năng buộc tội nên được hiểu là một dạng (phương diện) hoạt động tố tụng nhằm phát hiện, chứng minh lỗi và đảm bảo chủ thể thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Về chức năng bào chữa, hiện cũng có nhiều cách hiểu khác nhau8: Quan điểm thức nhất cho rằng, chức năng bào chữa là một dạng hoạt động tố tụng bằng cách dùng lý lẽ và chứng cứ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc vụ án hình sự hay dân sự trước Tòa án hoặc cho một việc nào đó đang bị lên án. Theo quan điểm của cá nhân tác giả, cách hiểu này quá rộng và có phần chưa hợp lý khi đề cập đến chức năng bào chữa trong cả vụ án dân sự - khi không tồn tại sự buộc tội và trong bất kì việc ngẫu nhiên nào đó đang bị lên án. Cách hiểu này có lẽ đã có sự nhầm lẫn với quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân. 8 Lê Tiến Châu (2001), tlđd (số 02), tr. 13-15. 10 Quan điểm thứ hai, chức năng bào chữa là khả năng mà pháp luật dành cho bị can, bị cáo được đưa ra chứng cứ, lý lẽ, được đặt câu hỏi, được tranh luận trong giai đoạn điều tra và xét xử. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Quan điểm này chỉ đề cập đến chủ thể, phương thức thực hiện chức năng bào chữa, bỏ qua giới hạn, phạm vi và chưa hoàn toàn thể hiện được nội dung, mục đích của chức năng bào chữa. Quan điểm thứ ba xác định chức năng bào chữa là hoạt động của người bào chữa nhằm xác định những tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo. Với quan điểm này, chức năng bào chữa chỉ được dành cho người bào chữa, phủ định vai trò thực hiện chức năng này của các nhóm chủ thể khác và cũng chưa thực sự thể hiện được đầy đủ nội dung của chức năng bào chữa. Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, chức năng bào chữa là một dạng hoạt động TTHS, trong khuôn khổ pháp luật quy định và đảm bảo, cho đối tượng bị buộc tội tự mình hoặc nhờ người khác, trình bày chứng cứ cùng các lập luận để bác bỏ cáo buộc tội danh, đưa ra những gì có lợi hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm cho họ trong quá trình tố tụng. Về chức năng xét xử vụ án hình sự, nhìn dưới góc độ nghiên cứu khoa học, cách hiểu chức năng này vẫn chưa thật sự thống nhất9: Quan điểm thứ nhất, đây là hoạt động đặc trưng, là nhiệm vụ của Tòa án – cơ quan duy nhất được đảm nhiệm chức năng xét xử của một quốc gia. Quan điểm này có phần sơ sài, hoàn toàn chưa thể hiện được nội dung của chức năng xét xử vụ án hình sự, có sự đồng nhất giữa chức năng và nhiệm vụ. Quan điểm thứ hai xác định chức năng xét xử vụ án hình sự là chức năng giải quyết vụ án hình sự, xem xét và xét xử. Quan điểm này chưa thật sự chính xác, vì giải quyết vụ án hình sự không phải là chức năng của riêng Tòa án. Các quan điểm trên đều chưa thể hiện rõ về chức năng xét xử vụ án hình sự. Chức năng xét xử vụ án hình sự nên được hiểu là phương diện hoạt động tố tụng của Tòa án có thẩm quyền trong việc xem xét, quyết định hành vi của đối tượng bị buộc tội có phải là tội phạm hay không và trách nhiệm hình sự đối với đối tượng bị xác định đã phạm tội. 9 Lê Tiến Châu (2001), tlđd (số 02), tr. 15-16. 11 Ba chức năng trên mang tính cơ bản, đặc thù xuất hiện đầy đủ trong tất cả các vụ án hình sự. Trong đó, chức năng buộc tội và chức năng bào chữa mang tính xuyên suốt từ giai đoạn đầu tiên của quá trình tố tụng. Chức năng xét xử khép lại toàn bộ hoạt động đấu tranh chứng minh tội phạm và người phạm tội. - Bên cạnh cách phân loại truyền thống đã nêu, còn có nhóm quan điểm đa chức năng. Ngoài ba chức năng truyền thống, TTHS còn có chức năng điều tra, chức năng giải quyết việc kiện dân sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật… Đối với chức năng điều tra, các tác giả tách biệt chức năng này với chức năng buộc tội. Trong giai đoạn điều tra chỉ có chức năng điều tra. Chức năng buộc tội chỉ xuất hiện tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Quan điểm này thiếu hợp lý, vì trong giai đoạn điều tra có sự xuất hiện của chức năng đối trọng với chức năng buộc tội là chức năng bào chữa. Hơn nữa, nếu giai đoạn điều tra chỉ xuất hiện chức năng điều tra thì có thể dẫn đến việc bỏ qua các biện pháp ngăn chặn với mục đích đảm bảo người có khả năng đã phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự khi có phán quyết của Tòa án. Nội dung của chức năng điều tra nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, nên có thể nói đây là một bộ phận của chức năng buộc tội, không thể đóng vai trò như một chức năng TTHS cơ bản. Chức năng giải quyết việc kiện dân sự thể hiện qua sự xuất hiện và các quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự 10. Quan điểm này không chính xác, bởi không phải vụ án hình sự nào cũng có nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hay các vấn đề dân sự. Không chỉ vậy, khi giải quyết các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự đều cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự. Về chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, là hoạt động do VKS thực hiện, đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình TTHS. Tuy nhiên, kiểm sát việc tuân theo pháp luật còn xuất hiện trong cả các vụ án phi hình sự (dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính…), nên không thể là chức năng đặc thù của riêng TTHS. Qua những phân tích đã trình bày, tác giả không ủng hộ cách phân loại chia nhỏ chức năng TTHS như trên. - Mặt khác, có một số tác giả còn phân chia chức năng TTHS thành những loại khác nhau. Có thể kể đến11: Giáo trình TTHS Xô Viết, Mátxcơva, NXB Văn học pháp lý, 1980, tr. 19, được trích trong Lê Tiến Châu, tlđd (số 02), tr. 10. 11 Nguyễn Thái Phúc (1999), “Một số vấn đề về quyền công tố của VKS”, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, VKS nhân dân tối cao, Hà Nội, được trích trong luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Tiến Châu, tlđd (số 02), tr.10 10 12 Tác giả Enkind phân loại thành chức năng cơ bản, chức năng hỗ trợ (chức năng của người làm chứng, giám định viên, người phiên dịch), chức năng phụ (chức năng giải quyết việc kiện dân sự - hoạt động có tính phái sinh từ hoạt động TTHS của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự). Cách phân loại này khá hợp lý, nhưng không nêu được rõ tiêu chí nào để phân định chức năng cơ bản hay chức năng cơ bản được thể hiện qua những hoạt động tố tụng nào. Tác giả Nguyễn Thái Phúc phân loại thành hai nhóm chức năng cơ bản và chức năng không cơ bản. Chức năng cơ bản là những phương diện hoạt động chủ đạo, có tính tiêu biểu đặc trưng cho hoạt động TTHS, liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện, vận động và kết thúc hoạt động TTHS và mối quan hệ giữa chúng với nhau được điều chỉnh bởi những nguyên tắc hoặc quy định của luật. Chức năng không cơ bản là những phương diện hoạt động không phải chủ đạo, không tiêu biểu hoặc đặc trưng cho hoạt động TTHS và không liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện, tồn tại hoặc chấm dứt hoạt động TTHS nhưng cũng góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của TTHS; các chức năng này có tính phái chi hoặc hỗ trợ cho các chức năng cơ bản. Cách phân loại của tác giả Nguyễn Thái Phúc mang tính khái quát rất cao, bao hàm được toàn bộ các loại chức năng của TTHS. Tuy nhiên, cũng như tác giả Enkind, việc khái quát hóa dưới dạng định nghĩa không thể hiện được cụ thể các phương diện hoạt động của TTHS, gây khó khăn trong việc tìm hiểu và xác định chức năng nào là cơ bản, chức năng nào nào thuộc nhóm không cơ bản. Tổng hợp lại, tác giả ủng hộ quan điểm phân loại truyền thống. Với ba chức năng rõ ràng: buộc tội – bào chữa – xét xử vụ án hình sự, chúng ta có thể dễ dàng nghiên cứu các nhóm hoạt động tố tụng. Từ đó, hiểu được một cách hệ thống hơn các quy phạm pháp luật tương ứng. Vai trò của các chủ thể trong từng nhóm chức năng cũng được phản ánh đầy đủ, thuận tiện cho việc phát hiện những hạn chế để kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật (nếu cần thiết). 1.2. Khái niệm, đặc điểm của tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm 1.2.1. Khái niệm tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm Theo như quan điểm được số đông nhà nghiên cứu khoa học pháp lý Việt Nam công nhận, quá trình giải quyết vụ án hình sự có thể chia thành bốn giai đoạn: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (bao gồm xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm – nếu có). 13 Điểm d, Khoản 1, Điều 4 BLTTHS quy định, “nguồn tin về tội phạm” gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện. Theo định nghĩa này, có năm (05) loại thông tin được coi là nguồn tin về tội phạm: - “Tố giác” là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền. - “Tin báo” là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng. - “Kiến nghị khởi tố” là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan Cơ quan điều tra, VKS có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm. - “Lời khai của người phạm tội tự thú” là những thông tin do người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi bị phát hiện12. - “Thông tin về tội phạm do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện” là qua quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phát hiện hành vi, sự kiện có dấu hiệu tội phạm hoặc còn người phạm tội có thể đang bị bỏ lọt cần phải tiến hành xác minh, làm rõ để khởi tố bổ sung. Ví dụ như: Qua việc xét xử tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, VKS phát hiện hành vi phạm tội mới hoặc người đồng phạm trong quá trình kiểm sát hồ sơ từ giai đoạn điều tra, truy tố...(Trong trường hợp này, tùy vào giai đoạn mà VKS sẽ yêu cầu Cơ quan điều tra xác minh, làm rõ đối với cá nhân, hành vi cụ thể hay trả hồ sơ để điều tra bổ sung...) Như vậy, chúng ta có thể khẳng định, chỉ những thông tin có dấu hiệu tội phạm (có khả năng đáp ứng đủ các yêu cầu về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, quan hệ nhân quả) của một tội danh được BLHS quy định mới được coi là nguồn tin về tội phạm. Bên cạnh đó, với các quy định từ Điều 145 đến Điều 152 BLTTHS, trách nhiệm, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm đã 12 Định nghĩa dựa trên giải thích cụm từ “tự thú” tại Điểm h Khoản 1 Điều 4 BLTTHS. 14 được đề cập cụ thể, chi tiết, rõ ràng hơn các Bộ luật trước. Điều này thể hiện sự thay đổi, phát triển trong tư duy của các nhà lập pháp. Sau khi hàng loạt các “vụ án oan, sai” hoặc không đủ chứng cứ buộc tội trong giai đoạn xét xử xuất hiện, vai trò quan trọng của các thông tin sơ khởi, ban đầu và hoạt động kiểm tra, xác minh những thông tin này, khám nghiệm hiện trường, thu thập vật chứng đã thật sự được chú ý. Từ đó, việc tiếp nhận cũng được thực hiện quy củ, được quản lý có hệ thống hơn bằng yêu cầu lập thành văn bản, vào sổ tiếp nhận, thể hiện tính “chính thức”. Việc giải quyết có sự ràng buộc trách nhiệm cho người tiến hành tố tụng bằng quyết định phân công; trong quá trình giải quyết, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện một số hoạt động mang tính điều tra, nhưng phải tuân thủ thời hạn xác định. Tuy nhiên, dù tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm được xếp vào giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, nhưng không phải tất cả nguồn tin về tội phạm sau khi tiếp nhận và giải quyết đều đưa đến kết quả khởi tố vụ án hình sự. Trải qua quá trình xác minh, kiểm tra, nếu kết quả xác định hành vi hoặc sự kiện đủ yếu tố phạm vào một tội danh được quy định trong BLHS, thì một vụ án hình sự mới được khởi tố. Lúc này, bộ máy tố tụng được vận hành để điều tra nhằm chứng minh, làm sáng tỏ các tình tiết thỏa mãn cấu thành tội phạm và buộc người thực hiện tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn trường hợp sau khi xác minh, nguồn tin chỉ thỏa mãn một phần của cấu thành tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không khởi tố vụ án hình sự; các thông tin này có thể được xử lý bằng các chế tài, biện pháp khác13 hoặc hoàn toàn không bị xử lý. Mặt khác, trường hợp xuất hiện các căn cứ dẫn đến không thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh để ra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm; khi các căn cứ tạm đình chỉ không còn thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải ra quyết định phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm. Ngoài ra, mặc dù luật quy định cùng một cụm từ “có dấu hiệu tội phạm” đối với nguồn tin về tội phạm và căn cứ khởi tố vụ án hình sự, nhưng chúng ta cần phân biệt rõ ràng nội hàm của chúng. Về nguồn tin về tội phạm, những thông tin thuộc khái niệm này đang ở dưới dạng nghi ngờ xâm phạm một khách thể được luật hình sự bảo vệ. Nhưng với vụ án được khởi tố, các cơ quan có thẩm quyền đã có đủ cơ sở sơ bộ để xác định hành vi đó thực sự phạm vào một tội được quy định trong BLHS. Trường hợp đủ cơ sở để xử lý bằng chế tài khác như xử phạt vi phạm hành chính, thì chuyển hồ sơ đến cơ quan có thẩm quyền xử phạt, hoặc đề nghị tiến hành kỷ luật, khiển trách… 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan