Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tộ...

Tài liệu Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự việt nam

.PDF
95
276
134

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC THIỆN C¸C T×NH TIÕT GI¶M NHÑ TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ NGỌC THIỆN C¸C T×NH TIÕT GI¶M NHÑ TR¸CH NHIÖM H×NH Sù §èI VíI NG¦êI CH¦A THµNH NI£N PH¹M TéI TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Ngọc Thiện MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI............................................................... 6 1.1. Một số khái niệm ................................................................................ 6 1.1.1. Khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự......................... 6 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội ....................................... 10 1.1.3. Khái niệm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ................................................................... 15 1.2. Chính sách xử lý hình sự của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội ......................................................................... 15 1.3. Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ............................................................................................. 21 1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 ......... 21 1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ................................................... 24 1.3.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 đến nay .................. 26 1.4. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự......................................................... 27 1.4.1. Quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự 1999 ......................................... 27 1.4.2. Quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 2015 ................................. 42 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI GIAI ĐOẠN TỪ 2011 ĐẾN 2015 VÀ CÁC KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP .........................................................................47 2.1. Thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội giai đoạn từ 2011 đến 2015 ............................................................................................. 47 2.1.1. Tình hình chung về người chưa thành niên phạm tội giai đoạn 2011 đến 2015 .................................................................................... 47 2.1.2. Những kết quả đạt được và những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ................................................................... 52 2.1.3. Những nguyên nhân làm phát sinh những tồn tại, vướng mắc trong áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ......................................................... 63 2.2. Những kiến nghị, giải pháp áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội .... 67 2.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự.............................................................. 67 2.2.2. Nâng cao năng lực, trình độ cho những người tiến hành tố tụng vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội ...................... 76 2.2.3. Các giải pháp khác ............................................................................. 80 KẾT LUẬN .................................................................................................... 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1. Thống kê số người chưa thành niên phạm tội trong tổng số người phạm tội từ năm 2011 đến năm 2015 47 Bảng 2.2. Thống kê số lượng bị cáo là người chưa thành niên trong tổng số bị cáo bị xét xử từ năm 2011 đến năm 2015 48 Bảng 2.3. Cơ cấu loại tội phạm do người chưa thành niên thực hiện từ năm 2011 đến năm 2015 49 Bảng 2.4. Bảng thống kê tỷ lệ các vụ án có áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở nghiên cứu xác suất 100 vụ án, tại một số địa phương 53 Bảng 2.5. Bảng thống kê tỷ lệ các vụ án do người chưa thành niên phạm tội có áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở nghiên cứu xác suất 100 vụ án do người chưa thành niên thực hiện tại một số địa phương 53 MỞ ĐẦU 1. Tình thế cấp thiết Trong những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật và phạm tội của người chưa thành niên đã và đang là vấn đề thời sự. Xã hội đòi hỏi Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể phải có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng này. Áp dụng các biện pháp xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội như thế nào để vừa đảm bảo hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội, đồng thời bảo đảm yêu cầu, mục đích lấy giáo dục làm chính với đối tượng này là một vấn đề rất lớn cần phải nghiên cứu sâu sắc. Bộ luật hình sự đã dành riêng chương đặc biệt để quy định về xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng về cơ bản đã áp dụng đúng các quy định để xử lý người chưa thành niên phạm tội. Tuy nhiên, nhìn chung các hình phạt mà Tòa án đã áp dụng vẫn nặng về trừng trị mà còn chưa chú ý nhiều đến giáo dục. Áp dụng hình phạt nghiêm với người chưa thành niên phạm tội không phải là một biện pháp tốt bởi sẽ làm cho những đứa trẻ đó trở nên chai sạm, lỳ lợm hơn khi cảm thấy xã hội không khoan dung. Mặc cảm của đứa trẻ không dễ gì xóa được trong suy nghĩ trong nhận thức còn non nớt của chúng. Thực tiễn xử lý người chưa thành niên pha ̣m tô ̣i cũng cho thấ y , chế tài áp dụng đối với họ chủ yếu là hình phạt tù , tuy nhiên , tỉ lệ tái phạm trong lứa tuổ i vi ̣thành niên lại chiế m tỉ lê ̣ cao . Điều này đặt ra yêu cầu về việc xem xét lại cách thức xử lý người chưa thành niên phạm tội ở nước ta để bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Bên cạnh đó, những bất cập trong công tác giáo dục, cải tạo người bị kết án phạt tù cũng gây nhiề u tác đô ̣ng tiêu cực đế n khả năng phu ̣c hồ i của người chưa thành niên ly khỏi xã hô ̣i cũng ảnh hưởng tiêu cực 1 . Viê ̣c cách , khiế n các em có cảm giác bi ̣bỏ rơi, bị đẩy ra lề xã hội , đồ ng thời có thể gây ra sự kỳ thi ̣ , xa lánh của cô ̣ng đồ ng đố i với các em . Đây chiń h là những trở nga ̣i đố i với quá triǹ h phu ̣c hồ i và tái hoà nhâ ̣p của người chưa thành niên pha ̣m tô ̣i . Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi chưa thành niên ở Việt Nam cũng như ở các nước trên thế giới cho thấy các chế tài giam giữ trong nhiều trường hợp tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất lợi cho quá trình phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng của người chưa thành niên. Từ vấn đề lý luận và thực tiễn trên thì ta thấy vấn đề đặt ra đó là có nên áp dụng nhiều hơn nữa các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội không; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội có áp dụng với người đã thành niên phạm tội không và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa đủ tuổi thành niên phạm tội như thế nào? Để vừa hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích của xã hội, đồng thời bảo đảm yêu cầu, mục đích lấy giáo dục làm chính với đối tượng này. Chính vì lý do đó tôi chọn đề tài: “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” viết luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên hiện nay đã được luật hình sự, cũng như Bộ luật tố tụng hình sự quy định tương đối chi tiết và rõ ràng, cũng như quy định, và giải thích về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong thực tiễn xét xử. Trong một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề về việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vấn đề về người chưa thành niên phạm tội cũng chưa đi sâu vào phân tích vấn đề này, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề trên ở những khía cạnh, góc độ khác như: “Thủ tục về những vụ án hình sự mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong luật Tố tụng Hình sự Việt Nam - 2 Luận văn thạc sỹ luật học” của Nguyễn Thị Phượng - Trường Đại học luật Hà Nội; “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)- luận văn thạc sĩ luật học” của Nguyễn Văn Anh – cơ sở Khoa Luật; “Trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên cơ sở pháp lý – thực trạng, giải pháp”; “Khái niệm và các đặc điểm của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam” của Minh Lương -Tạp chí Tòa án nhân dân,số 12; “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” bài viết của Lê Thị Hồng Dự, vv.. Với tình hình nghiên cứu trên có thể khẳng định đề tài “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” là đề tài nghiên cứu riêng, không bị trùng lặp với những đề tài đã được nghiên cứu trước đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận nội dung cơ bản của những quy định của pháp luật về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, xác định những bất cập để đề xuất những giải pháp cụ thể, góp phần tiếp tục hoàn thiện những quy định này trong thời gian tới. Để đạt mục đích nêu trên, Luận văn đi sâu vào nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Trong đó đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề: khái quát về người chưa thành niên, tâm lý của lứa tuổi chưa thành niên, đặc điểm khả năng nhận thức và điều khiển hành vi cũng như sự tác động của đời sống xã hội với tâm lý và hành vi phạm tội của lứa tuổi chưa thành niên; chính sách hình sự của Nhà nước xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội; quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với người chưa thành niên phạm tội; những quy định 3 của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cùng với các quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan đến việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và thực tiễn việc áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội. 4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Là quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và các văn bản liên quan khác về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói chung và vấn đề áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội nói riêng; các nguyên tắc về xử lý người chưa thành niên phạm tội, cũng như các quy định trong việc áp dụng các loại hình phạt theo quy định của pháp luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với người chưa thành niên phạm tội. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn xét xử, thông qua các phiên toà và số liệu các bản án của tòa án ở một số địa phương từ năm 2011 đến 2015 mà bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; số liệu về người chưa thành niên phạm tội các năm từ 2011 đến năm 2015; những tư liệu thực tiễn của Cơ quan tố tụng hình sự, đoàn luật sư... 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch, quy nạp, …. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ đó đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với chưa thành niên phạm tội. 4 6. Những điểm mới của luận văn Đây là luận văn đi sâu vào vào nghiên cứu vấn đề áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tôi ở Việt Nam. Luận văn sẽ đưa ra những điểm mới sau: - Luận văn đi sâu vào phân tích và làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cùng với các quy định của các văn bản pháp luật khác có liên quan đến việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và việc áp dụng trong những trường hợp cụ thể đối với người chưa thành niên phạm tội. - Luận văn làm sáng tỏ về chính sách xử lý hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và cũng làm sáng tỏ quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với người chưa thành niên phạm tội. - Luận văn xây dựng được cơ sở của việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn việc áp dụng các tình tiết này trên thực tế xét xử. - Luận văn đánh giá, và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển, đổi mới những quy định của pháp luật để hoàn thiện hơn nữa chế định này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội. Chương 2: Thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội giai đoạn từ 2011 đến 2015 và các kiến nghị giải pháp. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Theo quy định tại Điều 45 Bộ luật Hình sự năm 1999, thì khi quyết định hình phạt, Toà án không chỉ căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, căn cứ vào mức nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội mà còn phải căn cứ vào các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Còn tại Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 thì quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án cũng phải căn cứ vào căn cứ nêu trên, ngoài ra điều luật bổ sung khoản 2 là khi áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ đã nêu ở trên Tòa án còn phải căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của một người phạm tội. Như vậy, luật quy định các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong những căn cứ cần thiết để quyết định hình phạt. Do đó, việc nghiên cứu vai trò của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận – thực tiễn và pháp lý trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết vụ án hình sự thể hiện rõ nội dung phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục” trong chính sách hình sự của nhà nước ta, cũng như bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt đối với người phạm tội. Trong quá trình quyết định hình phạt đối với người phạm tội, việc nhận thức thống nhất về vai trò của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình 6 sự để xem xét, cân nhắc và áp dụng chính xác các tình tiết này là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xét xử. Nói đến khái niệm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì hiện nay trong pháp luật hình sự thực định, cụ thể là Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 không ghi nhận một định nghĩa pháp lý cho khái niệm này. Trong khoa học pháp lý nước ta, quan niệm về vấn đề này cũng chưa thống nhất. Nhìn chung, đa số ý kiến đồng tình rằng: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt. Qua khái niệm đã nêu ra ở trên và phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật hình sự năm 2015 có liên quan đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng chúng, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của các tình tiết này: Thứ nhất, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự (bao gồm 18 tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS 1999 và 22 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015). Ngoài ra, nó còn được ghi nhận trong Nghị quyết số 01/2000/NQHĐTP ngày 04/08/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định về Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999. Thậm chí, trong quá trình xét xử, Tòa án có thể tự mình xem xét, cân nhắc coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và ghi rõ lý do trong bản án. Đặc điểm này có hai vấn đề cần lưu ý: trước hết, những 7 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào được Bộ luật hình sự quy định với tính cách là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phạm được nêu tại phần các tội phạm cụ thể thì trong quá trình xét xử, Tòa án không được xem xét nó như là tình tiết giảm nhẹ chung được quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999. Nghĩa là một tình tiết giảm nhẹ cho dù biểu hiện dưới hình thức nào thì cũng không thể được áp dụng hai lần cho một trường hợp phạm tội cụ thể. Tiếp đó, việc cho phép Toà án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong từng vụ án đối với từng bị cáo cụ thể nhằm mở rộng tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động xét xử của Toà án, bảo đảm cho hoạt động xét xử được công bằng, chính xác, khách quan. Quy định “phải ghi rõ trong bản án” là nhằm tránh sự tuỳ tiện trong hoạt động xét xử. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt của nó. Trên thực tiễn, không ít trường hợp Toà án đưa ra những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không thật sự thuyết phục. Thứ hai, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ để Tòa án cân nhắc, xem xét việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội, nó phản ánh các diễn biến bên ngoài của mặt khách quan cũng như diễn biến tâm lý bên trong của mặt chủ quan trong cấu thành tội phạm hoặc phản ánh yếu tố nhân thân người phạm tội, góp phần mô tả tội phạm, giúp chúng ta hình dung được mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội nếu đặt nó trong sự so sánh với trường hợp phạm tội tương tự mà không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt là do Toà án cân nhắc, xem xét. Sự hiện diện của tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là căn cứ để Tòa án đánh giá, xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, coi đó là một trong những căn cứ để quyết định hình phạt. Pháp luật không quy định cụ thể sự 8 hiện diện của tình tiết giảm nhẹ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến việc quyết định hình phạt, sự hiện hữu của tình tiết nào thì được giảm trách nhiệm hình sự đến đâu, điều đó phụ thuộc vào sự xem xét và cân nhắc của Tòa án. Thứ tư, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự rất phong phú, không xác định về mặt số lượng. Chúng ta có thể xác định được các tình tiết được quy định trong Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 và các tình tiết được quy định tại điểm c, mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP. Ngoài các tình tiết nói trên thì trong quá trình xét xử từng vụ án cụ thể, Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ. Cuối cùng, ảnh hưởng của từng tình tiết đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội không giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khá phong phú về mặt số lượng và ảnh hưởng của chúng đối với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội là khác nhau và do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc quyết định hình phạt là không giống nhau. Có tình tiết thì ảnh hưởng rất lớn đến việc quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội, nhưng có tình tiết thì ảnh hưởng ít hơn. Có tình tiết chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm, còn đối với những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa rất hạn chế. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn [26, Điều 47]. Theo đó, khả năng “có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp 9 nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định” chỉ có thể thực hiện “khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46”. Logic này cho phép suy đoán rằng, theo quan điểm của nhà làm luật, các tình tiết được quy định tại Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, có vị trí cao hơn, ảnh hưởng nhiều hơn đến mức độ ít nguy hiểm của hành vi phạm tội so với các tình tiết được hướng dẫn trong điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP và các tình tiết khác mà Tòa án xem xét, cân nhắc quyết định cho bị cáo được hưởng trong quá trình xét xử. Từ những phân tích nêu trên, tác giả đồng ý rằng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết được quy định trong Bộ luật hình sự với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ trong bản án, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một khung hình phạt. 1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội Có thể hiểu, người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 14/12/1992 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan trọng đề cập đến khái niệm người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. 10 Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ Luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Bộ luật dân sự năm 2005 quy định “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên” [31, Điều 18]. Bộ luật Lao động cũng quy định “Người lao động thành niên là người đủ 18 tuổi”. Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có được đầy đủ các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý như những người đã thành niên [11]. Người chưa thành niên phạm tội là người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm và được quy định trong bộ luật hình sự, có đủ điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự và có thể bị xử lý theo pháp luật hình sự [22, tr. 25]. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 chỉ ra khái niệm tội phạm: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý và vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp khác của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và 11 lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [26, Điều 8, Khoản 1]. Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định đối với người chưa thành niên phạm tội ở mỗi quốc gia là không giống nhau vì tùy vào nhiều yếu tố như học vấn, điều kiện kinh tế xã hội, lịch sử văn hóa của mỗi dân tộc. Giới hạn cao nhất về độ tuổi của người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự là từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Ví dụ: Bồ Đào Nha, Cu ba độ tuổi này là 16 tuổi; Braxin, Irac, Mehico và Venezuela là 18 tuổi. Giới hạn thấp nhất là từ đủ 7 tuổi đến dưới 16 tuổi như ở Thái Lan, Singapore, Brunay là từ 7 tuổi, philipin là từ đủ 9 tuổi, ở Anh là từ đủ 10 tuổi, ở Canada là từ đủ 12 tuổi, ở Pháp là từ đủ 13 tuổi,… Như vậy, khoảng cách về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự giữa các nước là rất lớn [22]. Ở Việt Nam pháp luật hình sự quy định, người chưa thành niên chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên trong độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi có điểm khác biệt so với độ tuổi còn lại. Theo Bộ luật Hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999 quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự:“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [26, Điều 12]. Còn Bộ luật hình sự năm 2015 thì quy định chi tiết và cụ thể hơn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi 12 đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây… [27, Điều 12]. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì từ đủ 14 tuổi là giới hạn thấp nhất của độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó người chưa thành niên chưa đủ 14 tuổi trong mọi trường hợp đều không bị coi là người phạm tội vì không phải chịu trách nhiệm hình sự, kể cả trường hợp đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Cá nhân người viết đồng tình với quan điểm cho rằng: Người chưa thành niên phạm tội chỉ bao gồm những người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự. [22, tr. 26]. Bộ luật hình sự 1999 quy định về áp dụng Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội cũng quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên là từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần chung Bộ luật không trái với quy định của Chương này” [26, Điều 68]. Ngoài ra, đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người có hành vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn phải căn cứ vào các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Bộ luật Hình sự 1999: 1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. 13 2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. 3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm 4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này. …[26, Điều 69]. Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây: Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện. Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm. Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cân nhắc cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện pháp tư pháp hoặc cá biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Những điều kiện trên cũng cho thấy tầm quan trọng trong việc xác định tội phạm do người chưa thành niên gây ra. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội phạm. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan