Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam...

Tài liệu Các nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

.PDF
84
60
71

Mô tả:

®¹i häc quèc GIA Hµ NỘI KHOA LUẬT ---- --- NGUYÔN ThÞ lan Anh C¸c nguyªn t¾c x©y dùng nhµ n-íc ph¸p quyÒn x· héi chñ nghÜa viÖt Nam Chuyªn ngµnh : LÝ luËn vµ lÞch sö nhµ n-íc & ph¸p luËt M· sè : 60 38 01 LuËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc : PGS. TS. NguyÔn V¨n §éng Hµ néi - n¨m 2009 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự hướng dẫn khoa học của PGS-TS Nguyễn Văn Động mà không hề có sự sao chép lại của bất cứ một công trình khoa học nào khác. Mọi trích dẫn trong luận văn này hoàn toàn trung thực và chính xác theo những tài liệu tham khảo đã được đề cập tại danh mục ở phần cuối luận văn. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Lan Anh 1 MỤC LỤC Lời nói đầu 6 11 Chƣơng 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1.1 – Khái niệm nhà nƣớc pháp quyền và Nhà nƣớc pháp quyền xã 11 hội chủ nghĩa Việt Nam 1.1.1 – Khái quát về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử 11 1.1.2 - Sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền ở 15 Việt Nam 1.1.3 - Những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt 23 Nam 1.2 – Các nguyên tắc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ 28 nghĩa Việt Nam 1.3 - Những bảo đảm cho việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng 33 Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1.3.1 – Những bảo đảm chung 33 1.3.2 - Những bảo đảm pháp lý 40 1.3.2.1 – Bảo đảm về tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước 40 1.3.2.2- Bảo đảm về hệ thống pháp luật 41 1.3.2.3- Bảo đảm về tổ chức thực hiện pháp luật 42 1.3.2.4 - Bảo đảm về bảo vệ pháp luật 42 2 Chƣơng 2 - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 2.1 - Thực trạng thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nƣớc pháp 44 quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.1.1 – Những thành tựu cơ bản của việc thực hiện các nguyên tắc xây 44 dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.1.2 – Một số hạn chế của việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng 49 Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.2- Những giải pháp chính trị - pháp lý cơ bản bảo đảm thực hiện 53 các nguyên tắc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2.2.1 – Những giải pháp chính trị - pháp lý cơ bản bảo đảm thực 53 hiện nguyên tắc “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải giữ vững tính chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, tính chất nhân đạo của Nhà nước” 2.2.2 – Những giải pháp chính trị - pháp lý cơ bản bảo đảm thực 58 hiện nguyên tắc “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải nhằm phát huy được các giá trị của nền dân chủ XHCN và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân” 2.2.3 – Những giải pháp chính trị - pháp lý cơ bản bảo đảm thực 64 hiện nguyên tắc “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tiến hành đồng bộ với với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và đổi mới hệ thống chính trị” 2.2.4 – Những giải pháp chính trị - pháp lý cơ bản bảo đảm thực hiện nguyên tắc “Cần tiếp thu và vận dụng các giá trị phổ biến và kinh nghiệm thế giới về xây dựng nhà nước pháp quyền vào quá trình xây 3 69 dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” 2. 2.5 – Những giải pháp chính trị - pháp lý cơ bản bảo đảm thực 74 hiện nguyên tắc “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam” Kết luận 79 Danh mục tài liệu tham khảo 81 4 BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT Ban chấp hành Trung ương – BCH TƯ Chủ nghĩa xã hội – CNXH Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – CHXHCN Việt Nam Xã hội chủ nghĩa – XHCN 5 LỜI NÓI ĐẦU 1 – Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Tại Việt Nam, thuật ngữ “xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” xuất hiện lần đầu trong Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (tháng 1 - 1994). Hội nghị Trung ương 8 Khoá VII của Đảng (tháng 1 - 1995) tiếp tục đặt vấn đề “xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa”. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) nhấn mạnh: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời, coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khoá VIII của Đảng (tháng 6 - 1997) “Về tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, khẳng định: Đảng đã “từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”. Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đặt vấn đề tiếp tục “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khoá IX của Đảng (tháng 1 - 2004) khẳng định: “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ cương, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đó là một hệ thống phương hướng của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (từ đây, cụm từ “Xã hội chủ nghĩa ” xin viết tắt là “XHCN”). Đây là một vấn đề rất mới ở Việt Nam, nên Nghị quyết của Đảng cũng chỉ phác thảo ra những hướng chung nhất về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội (từ đây, cụm từ “Chủ nghĩa xã hội” xin viết tắt là “CNXH”)trong điều kiện phát triển 6 nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa có giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền nói chung, vừa phải thể hiện được những đặc trưng, bản chất, bản sắc của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Nhưng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là một cuộc cách mạng, nó là một cuộc đại cách mạng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Cuộc đại cách mạng ấy lại được tiến hành trong bối cảnh đất nước đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, còn muôn vàn khó khăn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…trong đó, khó khăn lớn nhất phải kể đến là “nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Nguy cơ này đã được Đảng ta cảnh báo trong Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 20 đến 25-1-1994. Trong giai đoạn hiện nay, trước tình trạng nhiều vấn đề xã hội bức xúc và gay gắt chưa được giải quyết tốt như nạn thiếu việc làm, sự phát triển của tệ nạn xã hội, sự khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, các thế lực thù địch ra sức chống phá thì nguy cơ chệch hướng XHCN vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Trong bối cảnh đó việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng càng gặp nhiều khó khăn, thử thách. Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là phải xây dựng được một hệ thống lý luận về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó xác định rõ những nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đồng thời trên cơ sở đánh giá thực tiễn, tổng kết những mặt đã làm được, những mặt còn hạn chế trong quá trình thực hiện các nguyên tắc, đề ra những giải pháp thích hợp nhằm đảm bảo thực hiện các nguyên tắc ấy, nhằm từng bước xóa bỏ nguy cơ chệch hướng, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 7 2 - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Trong 15 năm trở lại đây, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với tính chất, đặc điểm là “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN, nhà nước được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo” [24, tr.15] đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều học giả. Đề tài này một lần nữa hướng đến đối tượng nghiên cứu là Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, phạm vi của đề tài tập trung nghiên cứu về các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 3 - Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã có bề dày lịch sử hình thành và phát triển ở trong và ngoài nước, cho đến nay, nhiều học giả hiện đại tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với những đặc trưng riêng của một quốc gia độc lập lại chủ yếu là đề tài nghiên cứu của các học giả trong nước. Trong khoảng 15 năm trở lại đây, đã có nhiều học giả nghiên cứu vấn đề này như: GS.TS Lê Minh Tâm (“Về tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền”, Tạp chí Luật học số 2/2002, tr 32 – 38); GS-TSKH Đào Trí Úc (“Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng - những thành tựu chủ yếu của 60 năm xây dựng và phát triển”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Viện Nhà nước và pháp luật, Số 9/2005, tr. 03 – 15; Sách chuyên khảo: Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội - 2007); PGS.TS Nguyễn Văn Động (“vấn đề nhà nước pháp quyền”, Tạp chí cộng sản, số 2/1992, tr 22-25; “Học thuyết về nhà nước pháp quyền:lịch sử và hiện tại”, Tạp chí Luật học, số 6/1995, tr 11-16, 47); PGS.TS Bùi Xuân Đức (Đổi mới, 8 hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiÖn nay, NXB Tư pháp, HN 2007); PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (Tư tưởng Đông, Tây về Nhà nước và pháp luậtNhững nhân tố Nhà nước pháp quyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 3/2002).... 4 - Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: Nội dung của đề tài tập trung phân tích các vấn đề về cơ sở lý luận của các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, bao gồm những vấn đề khái quát về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử; sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian qua, đề xuất những giải pháp pháp lý bảo đảm thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới. 5- Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử dụng là phương pháp quy nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và phân tích những cơ sở lý luận về các nguyên tắc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phân tích, tổng hợp những bảo đảm cho việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, tổng hợp những giải pháp chính trị, pháp lý cơ bản đảm bảo thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 6 - Kết cấu của luận văn Kết cấu của luận văn gồm hai chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 9 Chương 2: Thực trạng và những giải pháp chính trị pháp lý bảo đảm thực hiện các nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. 10 CHƢƠNG 1- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1.1 – Khái niệm nhà nƣớc pháp quyền và Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1.1.1. Khái quát về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị - pháp lý, gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc Châu Âu vì tự do, dân chủ. Cội nguồn của tư tưởng về nhà nước pháp quyền là những quan điểm của các triết gia cổ đại (như: Salon, Aristot, Heraclit, Platon, Siseron..vv..) về sự cần thiết phải thiết lập một chế độ nhà nước dựa hẳn vào pháp luật, chịu sự chi phối của pháp luật. Đến cuối thể kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII các quan điểm này đã được nâng lên thành tư tưởng khoa học khá hoàn chỉnh. Những người có công xây dựng tư tưởng ấy là các học giả tư sản tự do ở châu Âu như J.Locke, S.L. Montesquieu, I.Kant, Hegel, vv… Cùng với sự thăng trầm của lịch sử, những quan điểm, tư tưởng ấy được bổ sung và ngày càng hoàn thiện bằng nhiều quan điểm lý luận mới, trở thành hệ thống các tri thức khoa học dưới dạng các quan điểm, tư tưởng, lý luận rất phong phú và phức tạp về mối quan hệ giữa nhà nước – pháp luật – con người trong xã hội có giai cấp. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng về nhà nước pháp quyền vẫn là thượng tôn vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Theo tư tưởng về nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền có một số nội dung cơ bản sau đây: - Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm tính tối cao của pháp luật trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội, trong đó pháp luật phải phản ánh ý 11 chí chung của nhân dân, lợi ích chung của xã hội. Tính tối cao của pháp luật thể hiện ở hai phương diện: thứ nhất, bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; thứ hai, tính bắt buộc của pháp luật đối với nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân; pháp luật là tiêu chuẩn, là căn cứ cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội, nhà nước ban hành pháp luật nhưng nhà nước cũng phải tuân thủ pháp luật. - Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó các quyền, tự do, dân chủ của công dân được nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Nhà nước pháp quyền không chỉ công nhận và tuyên bố các quyền tự do của công dân mà còn phải bảo đảm thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi chúng bị xâm hại. Tự do của một người là được làm những gì pháp luật không cấm trong khuôn khổ không xâm phạm đến tự do của người khác. Pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội. - Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó có mối quan hệ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa nhà nước với công dân. Cả nhà nước và công dân đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Nhà nước coi quyền của công dân là nghĩa vụ của mình và công dân cũng xem quyền của nhà nước là nghĩa vụ của mình; khi vi phạm pháp luật thì cả hai bên đều phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau, không có ngoại lệ. Có thể nói, những đúc kết cơ bản đó về nhà nước pháp quyền của các triết gia, các nhà lý luận, các nhà tư tưởng vĩ đại cho thấy, nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước trong một “xã hội công dân” thay thế “xã hội thần dân”. Giá trị của lý luận về nhà nước pháp quyền trong lịch sử được thể hiện ở chỗ: coi nhà nước là tổ chức công quyền chịu sự ràng buộc của pháp luật và thống nhất quản lý xã hội bằng pháp luật, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán và sự tùy tiện trong bộ máy nhà nước và nhân viên của nó; coi công dân là chủ thể của “xã hội công dân”, công dân là đối tượng phục vụ của nhà nước, nhà nước có trách nhiệm với công dân và bảo 12 đảm tự do của mỗi công dân trong khuôn khổ pháp luật, ngăn ngừa sự xâm hại tự do của người khác và lợi ích của xã hội. Có thể nói, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được sinh ra trong cuộc cách mạng giải phóng nhân loại khỏi chế độ phong kiến chuyên chế, nhưng những tư tưởng ban đầu của nó đã bắt đầu từ thời cổ đại. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền ra đời gắn liền với sự khẳng định chủ quyền của nhân dân, nhân dân là gốc của quyền lực, gắn liền với sự tự do của nhân dân được đảm bảo, với sự tuân thủ pháp luật của nhà nước, sự phụ thuộc của nhà nước vào xã hội. Với bản chất tiến bộ và nhân đạo, tư tưởng khoa học về nhà nước pháp quyền đã trở thành một giá trị văn minh của nhân loại. Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới là hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền và do đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền lại tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện. Hiện nay, trong lý luận còn có các quan điểm khác nhau về khái niệm và các yếu tố cơ bản cuả nhà nước pháp quyền (tính tối cao của pháp luật, nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của nhà nước, nguyên tắc phân công quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp; dân chủ, xã hội công dân; quyền tự do cơ bản của công dân; chủ quyền nhân dân…). Có quan điểm cho rằng, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó, mọi chủ thể, (không ngoại trừ nhà nước) đều tuân thủ nghiêm chỉnh, chịu phục tùng pháp luật – một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lí trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao nhất của xã hội, của con người. Quan điểm khác cho rằng: nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức quyền lực chính trị; đó là hai yếu tố không thể thiếu khi nói đến nhà nước pháp quyền. Quan điểm khác nữa lại định nghĩa về nhà nước pháp quyền dựa trên các đặc trưng của nó, theo đó, nhà nước pháp quyền là nhà nước dựa trên các nguyên tắc như tính tối cao của luật; chủ quyền của nhân dân; phân công quyền lực; tính vững chắc của các quyền và tự do của con người..vv… 13 Tuy có nhấn mạnh về các khía cạnh khác nhau trong nội dung nhà nước pháp quyền, nhưng quan điểm chung đều cho rằng, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mới. Trong lịch sử loài người chỉ có 4 kiểu nhà nước là nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản và XHCN. Nhà nước pháp quyền là hình thức phân công và tổ chức quyền lực nhà nước, nó có những đặc trưng riêng: đó là nhà nước mà hiến pháp và các đạo luật phải giữ địa vị tối cao; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân công quyền lực; con người là giá trị cao quý và mục tiêu cao nhất; bảo đảm chủ quyền của nhân dân. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa gắn liền và phù hợp với chế độ chính trị đa đảng. Các đặc điểm, tiêu chí của nhà nước pháp quyền có những mức độ thể hiện khác nhau ở các quốc gia tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Có thể nói về nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước, một trong những tiêu chí quan trọng nhất của nhà nước pháp quyền tư sản thì các nước cũng có cách áp dụng khác nhau, không theo một khuôn mẫu chung. Có những nhà nước tư sản áp dụng việc phân quyền một cách mềm dẻo (ở các nhà nước theo chính thể đại nghị, giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp có sự phối hợp với nhau và hành pháp phải chịu trách nhiệm trước lập pháp); có những nhà nước áp dụng phân quyền một cách cứng rắn (ở các nhà nước theo chính thể cộng hòa tổng thống có sự độc lập của các cơ quan quyền lực, hành pháp không chịu trách nhiệm trước lập pháp). Như vậy, có thể thấy rằng không có một khuôn mẫu nhất định về nhà nước pháp quyền để áp dụng chung cho mọi nhà nước tư sản với các hình thức nhà nước khác nhau và càng không thể có một khuôn mẫu chung về nhà nước pháp quyền áp dụng cho mọi nhà nước với những chế độ chính trị khác nhau. 14 1.1.2 - Sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam Ở các nước XHCN, sự nghiên cứu, tiếp thu, phát triển những yếu tố hợp lý trong tư tưởng tư sản về nhà nước pháp quyền chỉ thực sự bắt đầu khi Liên Xô và các nước XHCN thực hiện cải tổ, đổi mới vào khoảng những năm 80 cuối thế kỷ trước. Bắt đầu bằng những bài viết của các nhà triết học, chính trị học, luật học… đăng trên các báo của Đảng cộng sản Liên xô và các tạp chí khoa học chuyên nghành, sau đó là những công trình chuyên khảo có giá trị. Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử, từ nguồn gốc, nội dung, giá trị khoa học đến những hạn chế, xu hướng phát triển của nó hiện nay mà còn luận giải để đưa ra căn cứ khẳng định có thể xây dựng được nhà nước pháp quyền XHCN trên cơ sở tiếp thu, vận dụng và phát triển những nhân tố hợp lý trong tư tưởng tư sản về nhà nước pháp quyền. Quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN còn được thể hiện trong các bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng cộng sản Liên Xô và nhà nước xô viết, và cuối cùng, tư tưởng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được chính thức đưa vào văn kiện Đại hội XXVII Đảng cộng sản Liên Xô. Ở các nước XHCN khác cũng vậy, việc nghiên cứu tư tưởng của các nhà triết học cổ đại và các học giả tư sản về nhà nước pháp quyền cũng chỉ được bắt đầu khi có đường lối đổi mới, cải cách của Đảng cộng sản. Một trong những thành quả nghiên cứu ấy là các nhà khoa học đã xác lập được cơ sở lý luận và thựuc tiễn chắc chắn của việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và đề xuất với Đảng cộng sản đưa ra chủ trương, đường lối, chính sách để thực hiện sự nghiệp vĩ đại ấy. Có thể nói, trong hầu hết các văn kiện đại hội các Đảng cộng sản ở các nước XHCN Đông Âu trong giai đoạn từ khi có đường lối đổi mới, cải cách cho đến lúc sụp đổ (1990 – 1991), đều chứa đựng những quan điểm, tư 15 tưởng về các phương hướng, giải pháp xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Đảng ta và Nhà nước ta, Người đích thân lãnh đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật Việt Nam trong những năm đầu của cách mạng, trong thời kỳ kháng chiến chống thựuc dân Pháp, đế quốc Mỹ, xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ đây, cụm từ “chủ nghĩa xã hội” xin được viết tắt là “CNXH”) ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng, tổ chức cuộc đấu tranh vạch trần bản chất phản nhân dân, phản tiến bộ của nhà nước, pháp luật đế quốc, thực dân. Ở Người đã sớm hình thành một hệ thống quan điểm về pháp quyền, nhân quyền (quyền con người), về Hiến pháp, về các quyền tự do, dân chủ, về bản chất, vai trò của pháp luật trong xã hội…vv. Có thể nói mặc dù, chưa một lần dùng đến khái niệm nhà nước pháp quyền , nhưng tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hồ Chủ tịch lại vô cùng phong phú, thể hiện rõ nét trong tư tưởng của người về dân chủ, nhà nước, pháp luật và nhân quyền. Trước hết, nếu nhà nước pháp quyền xuất phát từ yêu cầu dân chủ thì ở Hồ Chí Minh phải là một nền dân chủ triệt để, ở đó, nhân dân có vị trí trung tâm. Cũng từ vị thế này của nhân dân, khi đã xác định chính thể “Việt Nam dân chủ cộng hòa”, người khằng định nguồn gốc sâu xa của quyền lực nhà nước là ở nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra ...Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [10,tr. 698]. Ở đây, nội dung dân chủ XHCN được vận dụng ở nhiều khía cạnh và phát triển theo hướng triệt để, rằng quyền lực nhà nước là ở nhân dân mà nhà nước chỉ là cơ quan đại diện được nhân dân trao quyền, nghĩa là quyết định cuối 16 cùng vẫn là ở nhân dân, do vậy, “nếu chính phủ mà có hại cho dân chúng thì đập đổ chính phủ ấy đi”. Hơn nữa, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước hợp hiến, hợp pháp thì nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, đồng thời phải là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Những tư tưởng ban đầu về một Hiến pháp dân chủ được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ VII (tháng 11/1940) rằng “Ban bố Hiến pháp dân chủ, ban bố những quyền tự do dân chủ cho nhân dân, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do hội họp”. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những nhiệm vụ cấp bách, trong đó có 2 nhiệm vụ trực tiếp liên quan đến xây dựng nhà nước pháp quyền là xác lập nền tảng dân chủ và pháp quyền cho chế độ nhà nước kiểu mới, tổ chức tổng tuyển cử và xây dựng hiến pháp dân chủ. Trên nền tảng đó, Người lãnh đạo và quán triệt vào thực tiễn xây dựng một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Về hệ thống pháp luật, nếu nhà nước pháp quyền đề cao pháp luật thì ở Hồ Chí Minh đó là hệ thống pháp luật dân chủ, nhân văn. Người viết “luật pháp của chúng ta…là ý chí của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng…, pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi của hàng triệu người lao động…, pháp luật của chúng ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do quá mức mà phạm đến tựu do của người khác là phạm pháp…” [11, tr.186]. Về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát triển quyền con người, trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Hồ Chí Minh có cách tiếp cận vấn đề quyền con người mới mẻ và sâu sắc từ thực trạng nhân dân bị áp bức, bóc lột nặng nề. 17 Vấn đề quyền con người không chỉ là quyền cá nhân mà còn là quyền bình đẳng dân tộc, độc lập dân tộc, giải phóng con người. Những tư tưởng của Hồ Chủ tịch về nhà nước pháp quyền đã được Đảng ta vận dụng và phát huy trong suốt quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nhằm “chăm lo con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Bác Hồ luôn xuất phát từ thực tiễn lịch sử cách mạng của Việt Nam, vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, bao gồm các tư tưởng tích cực, tiến bộ về nhà nước pháp quyền, tổ chức nhà nước và kinh nghiệm áp dụng các tư tưởng đó của các nước trên thế giới để đưa vào thử nghiệm và từng bước xây dựng, hoàn thiện ở Việt Nam. Đây là quá trình tìm tòi, nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc, không sao chép, rập khuôn, giáo điều mà luôn sáng tạo để vận dụng một cách linh hoạt vào thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam. Mặc dù trước đây chúng ta chưa sử dụng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng xét theo nội dung và yêu cầu khách quan của nhà nước pháp quyền thì những nội dung và yêu cầu đó đã được nhận thức và diễn đạt ngày càng rõ nét trong các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980 và 1992 và trong các văn bản quy phạm pháp luật khác. Đó chính là kết quả của việc vận dụng các quan điểm về nhà nước pháp quyền của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta. Từ khi tiến hành thành công công cuộc đổi mới, chúng ta đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền là nhấn mạnh hơn những yêu cầu, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền và nghiên cứu, tìm tòi những thiết chế cụ thể bảo đảm nhà nước tuân thủ pháp luật, thực thi dân chủ, quản lý xã hội theo pháp luật và bằng pháp luật, xây dựng một nhà nước pháp quyền thật sự của dân, do dân, vì dân. 18 Từ sau Đại hội VI của Đảng, tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, phản ánh quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại cũng như quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng ở nước ta hiện nay. Đầu tiên phải kể đến đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đặt ra chủ trương phải “cải cách lớn” bộ máy nhà nước, sửa đổi Hiến pháp năm 1980 đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Quá trình thực hiện chủ trương cải cách nhà nước nói riêng và chuẩn bị sửa đổi Hiến pháp nói chung đòi hỏi phải tăng cường nghiên cứu các vấn đề lý luận về nhà nước, pháp luật và vai trò, định hướng xây dựng nhà nước, pháp luật trong điều kiện Đảng cầm quyền thực hiện đường lối đổi mới kinh tế. Kết quả nghiên cứu những vấn đề này được phản ánh tập trung trong tác phẩm “Xây dựng nhà nước của nhân dân – Thành tựu, kinh nghiệm, đổi mới” của đồng chí Đỗ Mười - được xuất bản nhân dịp kỷ niệm 45 năm xây dựng nhà nước kiểu mới ở nước ta. Trong tác phẩm này, mặc dù chưa đề cập đến khái niệm nhà nước pháp quyền nhưng những nội dung, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền đã được vạch ra rất rõ nét. Khi xác định yêu cầu đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, thực hiện được chế độ dân chủ XHCN, đảm bảo cho đất nước ổn định và phát triển, đồng chí Đỗ Mười đã khẳng định “phải xây dựng một nhà nước mà toàn bộ tổ chức, hoạt động của nó dựa trên cơ sở pháp luật, tuân thủ pháp luật, đồng thời thực hiện được chức năng quản lý xã hội bằng pháp luật”[26, tr. 62 - 63]. Lần đầu tiên, thuật ngữ nhà nước pháp quyền và sự cần thiết phải nghiên cứu nhà nước pháp quyền được nêu trong bài phát biểu của đồng chí Đỗ Mười tại Hội nghị toàn quốc về ngành tư pháp năm 1989: “Hiện nay, trên thế giới đang trở lại khái niệm nhà nước pháp quyền mà nội dung quan trọng của nó là thừa 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan