Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết – thực trạng và một số kiến nghị...

Tài liệu Các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết – thực trạng và một số kiến nghị

.PDF
97
1
62

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH – NHÀ NƯỚC ------------***------------ TRẦN VINH THIỆN MSSV: 1853801012181 CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VĂN BẢN KHIẾM KHUYẾT – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật Niên khoá: 2018 – 2022 Người hướng dẫn: ThS. Vũ Thị Ngọc Dung TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật với đề tài: “Các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết – Thực trạng và một số kiến nghị” – thuộc môn Xây dựng văn bản pháp luật, Khoa Luật Hành chính – Nhà nước là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. Vũ Thị Ngọc Dung. Các số liệu, dữ liệu và kết quả trình bày trong khóa luận này là trung thực, khoa học và chưa từng được công bố trong bất kỳ các công trình, luận văn, khóa luận, luận án và bài viết nào trước đây. Khóa luận của tôi có kế thừa một cách có chọn lọc các tác phẩm, kết quả nghiên cứu từ những tác giả trước đây. Các thông tin tham khảo trong khóa luận đều được tôi trích dẫn một cách đầy đủ và cẩn thận, đảm bảo tính khoa học, sáng tạo của khóa luận. Sinh viên ký tên LỜI CẢM ƠN Qua công trình khóa luận tốt nghiệp với đề tài: “Các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết – Thực trạng và một số kiến nghị” – thuộc môn Xây dựng văn bản pháp luật – khoa Luật Hành chính – Nhà nước. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh và Quý Thầy, Cô đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi có thể hoàn thành khóa luận này, đặc biệt là ThS. Vũ Thị Ngọc Dung đã đồng hành và tận tình hướng dẫn để tôi có thể hoàn thành một cách đầy đủ và đúng tiến độ khóa luận này. Trong quá trình nghiên cứu cũng như thực hiện khóa luận tốt nghiệp này, với thời gian hạn hẹp, cùng với vốn kiến thức chưa sâu, không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong nhận được những góp ý của Quý Thầy, Cô để khóa luận của tôi hoàn thiện nhất có thể. Tôi xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................. 1 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 2 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài ........................ 2 2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài ....................... 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................. 5 5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài ....................................................... 5 6. Bố cục của đề tài ............................................................................................. 5 1.1. Khái quát về văn bản khiếm khuyết ............................................................. 6 1.1.1. Khái niệm văn bản khiếm khuyết .......................................................... 6 1.1.2. Đặc điểm của văn bản khiếm khuyết .................................................... 9 1.1.3. Căn cứ xác định khiếm khuyết của văn bản ........................................ 10 1.1.3.1. Những căn cứ xác định tính bất hợp pháp .................................... 10 1.1.3.2. Những căn cứ xác định tính bất hợp lý ......................................... 14 1.2. Khái quát về xử lý văn bản khiếm khuyết ................................................. 15 1.2.1. Khái niệm xử lý văn bản khiếm khuyết .............................................. 15 1.2.2. Các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ........................................ 17 1.2.2.1. Các biện pháp xử lý văn bản quy phạm pháp luật khiếm khuyết . 17 1.2.2.2. Các biện pháp xử lý văn bản áp dụng quy phạm pháp luật khiếm khuyết ........................................................................................................ 20 1.2.3. Nguyên tắc xử lý văn bản khiếm khuyết ............................................. 23 1.2.4. Thẩm quyền xử lý văn bản khiếm khuyết ........................................... 24 1.2.5. Thủ tục xử lý văn bản khiếm khuyết ................................................... 28 1.2.6. Truy cứu trách nhiệm đối với cơ quan, người có thẩm quyền ban hành văn bản khiếm khuyết ................................................................................... 31 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ..................................................................................... 33 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VĂN BẢN KHIẾM KHUYẾT................................. 34 2.1. Thực trạng pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ......... 34 2.1.1. Pháp luật hiện hành về cơ bản có những quy định phù hợp về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ................................................................. 34 2.1.2. Những bất cập trong quy định của pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết .......................................................................................... 39 2.1.3. Nguyên nhân hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết .......................................................................... 43 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ........................................................................................................................... 46 2.2.1. Tình hình áp dụng các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ........... 46 2.2.2. Thành tựu đạt được trong việc áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ................................................................................... 50 2.2.3. Những hạn chế trong việc áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết .......................................................................................... 55 2.2.4. Nguyên nhân hạn chế trong thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý văn bản khiếm khuyết .......................................................................................... 59 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ..................................................................................... 63 CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ VĂN BẢN KHIẾM KHUYẾT................................. 64 3.1. Yêu cầu khách quan của việc nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết ................................................................................... 64 3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................................. 64 3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ....................................................................................................... 64 3.1.3. Xuất phát từ hội nhập kinh tế quốc tế ................................................. 65 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật ................................................... 66 3.2.1. Pháp luật cần có quy định rõ ràng về thuật ngữ “văn bản khiếm khuyết”, “xử lý văn bản khiếm khuyết” ....................................................................... 66 3.2.2. Cần quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi áp dụng biện pháp bãi bỏ trong một số trường hợp cụ thể .......................................................... 66 3.2.4. Cần có sự xem xét, đánh giá về hiệu lực pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật ........................................................................................................ 67 3.2.5. Trao quyền cho các cơ quan chuyên trách được xử lý văn bản khiếm khuyết ............................................................................................................ 67 3.2.6. Bổ sung những căn cứ pháp lý quy định về tính bất hợp lý, hợp pháp của văn bản khiếm khuyết ............................................................................. 68 3.2.7. Trao quyền xử lý văn bản khiếm khuyết cho Tòa án .......................... 69 3.3. Kiến nghị về công tác xử lý văn bản khiếm khuyết ................................... 70 3.3.1. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về xử lý văn bản khiếm khuyết một cách cụ thể, chi tiết ........................................................................................ 70 3.3.2. Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ xử lý văn bản khiếm khuyết nhiều về số lượng và tốt về chất lượng ........................................................................ 71 3.3.3. Hoàn thiện pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản quy phạm pháp luật và truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm trong việc xử lý, ban hành và tham mưu ban hành văn bản quy phạm pháp luật bất hợp pháp ....................................................................................................................... 72 3.3.4. Tăng cường sự chỉ đạo, quan tâm của nhà nước đối với công tác xử lý văn bản khiếm khuyết và khen thưởng, động viên những chủ thể xuất sắc trong việc xử lý văn bản khiếm khuyết................................................................... 73 3.3.5. Khuyến khích người dân tích cực tham gia vào quản lý, kiểm tra, rà soát văn bản khiếm khuyết ................................................................................... 74 3.3.6. Liên kết chặt chẽ kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật với xây dựng, rà soát, hệ thống hóa và theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp luật ....................................................................................................................... 75 3.7. Nâng cao vai trò, nhiệm vụ của Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong xử lý văn bản khiếm khuyết .................................................................... 76 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ..................................................................................... 77 KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................... PHỤ LỤC ..................................................................................................................... DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Nội dung viết tắt Quy phạm pháp luật 1. QPPL 2. VBQPPL 3. VBPL Văn bản pháp luật 4. VBKK Văn bản khiếm khuyết 5. Luật 2008 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 17/2008/QH12 6. Luật 2015 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Văn bản quy phạm pháp luật Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày 18 tháng 6 năm 2020 7. Nghị định 34/2016/NĐ-CP Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 8. Nghị định 154/2020/NĐ-CP Nghị định 154/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 9. UBND Ủy ban nhân dân 10. HĐND Hội đồng nhân dân 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020” 1 là mục tiêu lớn mà Nghị quyết 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã đề ra. Nhờ sự cố gắng, Nhà nước ta đã hoàn thành xuất sắc Nghị quyết 48-NQ/TW và tiếp tục triển khai thực hiện chiến lược mới với mục tiêu tiếp tục kế thừa, phát triển những kết quả, những giá trị của Nghị quyết 48-NQ/TW tiến hành “nâng cấp” lên để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển từ nay đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 20452. Từ đó cho thấy công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam là một yêu cầu tất yếu, được sự quan tâm của Nhà nước trong thời gian qua. Bởi, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật có ý nghĩa đặc biệt đổi với việc phát triển hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa nói chung và công tác xây dựng, ban hành, xử lý VBPL nói riêng. VBPL ở Việt Nam giữ một vai trò vô cùng quan trọng đối với Nhà nước nói chung và cuộc sống của mỗi con người nói riêng. VBPL là cơ sở để các chủ thể thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của bản thân và xã hội, giúp ổn định trật tự xã hội, bảo đảm cho xã hội phát triển cũng như buộc các chủ thể phải thực hiện những quy định của pháp luật, ngăn cấm những hành vi vi phạm pháp luật. Tầm quan trọng của VBPL trong đời sống là không thể phủ nhận, vì vậy việc soạn thảo và ban hành VBPL cần được chú trọng và được đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả và đảm bảo tính nghiêm minh, chính xác. Trong những năm gần đây, công tác xây dựng, ban hành VBPL đã và đang được Nhà nước ta hết sức quan tâm và ngày càng có nhiều các chính sách để hỗ trợ cho việc ban hành VBPL. Nhiều giải pháp đã được các chủ thể có thẩm quyền đưa ra nhằm nâng cao chất lượng của văn bản được ban hành. Những giải pháp này về cơ bản đã khắc phục được một số hạn chế, bất cập trong quá trình ban hành, thực thi các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn ban hành VBPL cho thấy, hoạt động xây dựng VBPL đã bộc lộ nhiều bất cập, trong đó có việc đảm bảo chất lượng của các Mục I, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. 2 Phạm Thuý (2021), Kế thừa, nâng tầm hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển, 30/4/2022, từ http://mattran.org.vn/tin-tuc/ke-thua-nang-tam-he-thong-phap-luat-phu-hop-voi-yeu-cau-phat-trien41104.html. 1 2 VBPL được ban hành mà chúng ta thường gọi là “văn bản khiếm khuyết”. Những VBKK cần phải được phát hiện, xử lý kịp thời để đảm bảo tính chặt chẽ và đồng bộ của hệ thống VBPL. Trong thời gian qua, các cơ quan có thẩm quyền đã đẩy mạnh hoạt động kiểm tra và xử lý VBKK, đã phát huy khá tốt vai trò, ý nghĩa của mình trong việc “làm sạch” hệ thống văn bản VBPL, tạo lập được lòng tin của người dân đối với Nhà nước. Thông qua hoạt động kiểm tra, xử lý rất nhiều VBKK có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với nội dung VBQPPL của cấp trên; ban hành trái thẩm quyền, vi phạm về thủ tục xây dựng và ban hành văn bản, thiếu tính khả thi,... đã được phát hiện và xử lý3. Có thể khẳng định, xử lý VBKK là hoạt động không thể thiếu trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước một cách có hiệu quả, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các chủ thể có thẩm quyền trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật, đảm bảo sự thống nhất của pháp luật được diễn ra một cách bình thường. Để nâng cao chất lượng của văn bản được ban hành, đòi hỏi phải đổi mới, xây dựng và hoàn thiện công tác xử lý VBKK là một nhu cầu cấp bách đặt ra hiện nay. Hoạt động này đòi hỏi phải được tiến hành một cách thường xuyên, kịp thời và toàn diện để kịp thời phát hiện và xử lý những văn bản không hợp pháp, trái với quy định của pháp luật. Nếu để những VBKK tồn tại, về lâu dài có thể sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của nhà nước, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ, tổn hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và từng địa phương cụ thể nói riêng. Hiện nay, đã có các công trình nghiên cứu bàn về vấn đề xử lý VBQPPL có dấu hiệu vi phạm pháp luật, tuy nhiên chưa có đề tài nào thực sự đi sâu vào nghiên cứu mặt lý luận về VBKK cũng như quy trình, biện pháp, cách thức xử lý VBKK. Vì vậy, xuất phát từ nhu cầu nghiên cứu cá nhân, cũng như tình hình thực tiễn của đất nước về vấn đề xử lý VBKK, tôi đã lựa chọn đề tài: “Các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết – Thực trạng và một số kiến nghị” làm khóa luận tốt nghiệp của bản thân, đáp ứng nhu cầu nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước có liên quan đến đề tài Xử lý VBKK là một vấn đề vô cùng quan trọng ở Việt Nam hiện nay, là việc làm có ý nghĩa to lớn trong hoạt động ban hành và thực hiện các quy định của pháp luật của những chủ thể có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương. Đây là vấn đề Bộ Tư pháp (2021), Báo cáo số 78/BC-BTP ngày 10/5/2021 của Bộ Tư pháp về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, Hà Nội. 3 3 nóng, được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp, định hướng để khắc phục những hạn chế và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam. Những bài nghiên cứu liên quan đến hoạt động xử lý VBKK đã được tác giả tiếp cận một cách đa chiều từ lý luận đến thực tiễn để có thể nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện. Liên quan đến vấn đề này, đầu tiên là đề tài của tác giả Đoàn Thị Tố Uyên bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật học năm 2012 tại Trường Đại học Luật Hà Nội với đề tài Kiểm tra và xử lý VBQPPL ở Việt Nam hiện nay. Đề tài của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Mai trong báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2021 với đề tài “Xử lý văn bản quy phạm pháp luật của hội Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh”. Bài viết của tác giả Nguyễn Toàn Thắng trong tạp chí Số 252, Quản lý nhà nước, Học viện hành chính Quốc gia, tr. 36 - 39 với nhan đề “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh”. Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Việt Nga trong chuyên đề tháng 8, Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, 2018, tr. 18 - 21 với nhan đề “Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật với công tác xử lý văn bản trái pháp luật”. Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Thu Hòe trong chuyên đề tháng 10, Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, 2013, tr. 18 - 20 với nhan đề “Công tác kiểm tra, xử lý văn bản có chứa quy phạm pháp luật”. Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Tuấn trong chuyên đề tháng 4, Dân chủ và pháp luật, Bộ Tư pháp, 2013, tr. 49 - 51, 59 với nhan đề “Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật một số sai sót thường gặp và khó khăn, vướng mắc”. Bài viết của tác giả Cao Vũ Minh trong Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp, 6/2012 với nhan đề “Đính chính văn bản quy phạm pháp luật – biện pháp xử lý khiếm khuyết hay sự lạm quyền?”. Cuốn sách của Bộ Tư pháp với nhan đề “Công tác kiểm tra, xử lý, rà soát VBQPPL”, Nxb. Tư pháp, 2017. Cuốn sách đã tập hợp các bài viết về bản chất, vai trò, đặc điểm của công tác kiểm tra, xử lý, rà soát văn bản quy phạm pháp luật; thực trạng hoạt động kiểm tra văn bản tại bộ, ngành, địa phương và đưa ra một số giải pháp đổi mới hoạt động kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian tới. Sách chuyên khảo của tác giả Đoàn Thị Tố Uyên với nhan đề “Lý luận và thực tiễn về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Công an nhân dân. 4 Cuốn sách của tác giả Nguyễn Văn Thâm với nhan đề “Soạn thảo và xử lý văn bản quản lý nhà nước”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2001. Cuốn sách của tác giả Nguyễn Thế Quyền với nhan đề “Xử lý văn bản quản lý hành chính nhà nước khiếm khuyết”, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009. Những đề tài trên đều phân tích một cách cụ thể những vấn đề cơ bản về hoạt động kiểm tra và xử lý VBQPPL cũng như cơ sở lý luận của hoạt động này, đánh giá thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn thực hiện xử lý văn bản, đồng thời đề xuất các giải pháp cụ thể cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động này góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật. Mặc dù nội dung của các đề tài trên không đi thẳng vào vấn đề xử lý VBKK nhưng nhìn chung trong những bài viết ở trên, các tác giả cũng đề cập đến ở một mức độ nhất định, có giá trị tham khảo cho tác giả khi thực hiện đề tài về xử lý VBKK. 2.2. Tình hình nghiên cứu nước ngoài có liên quan đến đề tài Cuốn sách Cải cách cơ chế kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản hành chính ở Trung Quốc của tác giả Meng Seng được dịch bởi Đinh Văn Minh và Nguyễn Văn Toàn. Nội dung cuốn sách có đề cập tới kinh nghiệm của Trung Quốc trong hoạt động đánh giá văn bản hành chính của các cơ quan hành chính về tính hợp pháp của văn bản. Cuốn sách Pháp luật hành chính của Cộng hòa Pháp của Martine Lombard, Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Panthéon-Assas (Paris II) và Gilles Dumont, Giáo sư Trường Đại học Luật và Kinh tế Limoges do Đào Nguyệt Ánh, Nguyễn Thị Việt Hà, Trần Quang Hiếu, Đoàn Thanh Loan và Hồ Thu Phương biên dịch, Nguyễn Văn Bình hiệu đính, Nxb. Tư pháp, xuất bản năm 2007. Tất cả những công trình nêu trên đều có giá trị tham khảo tốt về mặt lý luận liên quan đến xử lý VBKK. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Khóa luận tốt nghiệp này với mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận về xử lý VBKK để làm rõ khái niệm, đặc điểm, căn cứ xác định VBKK. Bên cạnh đó, nghiên cứu thực trạng xử lý VBKK để thấy được những điểm bất cập, hạn chế, từ đó có những biện pháp xử lý VBKK hiệu quả nhằm hoàn thiện công tác xử lý VBKK, đảm bảo chất lượng văn bản được ban hành đồng bộ, toàn diện từ trung ương đến địa phương, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể và nâng cao tính “thượng tôn pháp luật” ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu: (i) Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về VBKK và xử lý VBKK (khái niệm VBKK, khái niệm xử lý VBKK, căn cứ xác định VBKK,...) 5 (ii) Nghiên cứu thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý VBKK. (iii) Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý VBKK (kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật, kiến nghị về công tác xử lý VBKK). 4. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được hình thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Cơ sở phương pháp luận của khóa luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng những phương pháp như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để lý giải từ những vấn đề lý luận cơ bản cho đến thực trạng và giải pháp về hoạt động xử lý VBQPPL. 5. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài Ý nghĩa khoa học: Những kết quả nghiên cứu trong khóa luận có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động xử lý VBKK. Ứng dụng của đề tài: Kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể là cơ sở giúp cơ quan có thẩm quyền nhận diện chính xác và có biện pháp xử lý phù hợp đối với VBKK; làm tư liệu tham khảo cho các bạn sinh viên, những người có nhu cầu nghiên cứu khoa học về vấn đề này trong tương lai. 6. Bố cục của đề tài Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp lý về văn bản khiếm khuyết và xử lý văn bản khiếm khuyết. Chương 2. Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết. Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp xử lý văn bản khiếm khuyết. 6 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VĂN BẢN KHIẾM KHUYẾT VÀ XỬ LÝ VĂN BẢN KHIẾM KHUYẾT 1.1. Khái quát về văn bản khiếm khuyết 1.1.1. Khái niệm văn bản khiếm khuyết Khái niệm VBKK được xây dựng dựa trên khái niệm VBPL. Như vậy, đầu tiên chúng ta cần hiểu, VBPL là gì? Đầu tiên, Giáo trình Kỹ thuật soạn thảo văn bản của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm VBPL, theo đó “Văn bản pháp luật là hình thức thể hiện bằng ngôn ngữ viết các quyết định mang tính ý chí nhà nước, do các cơ quan hoặc người có thẩm quyền của các cơ quan nhà nước ban hành, theo các hình thức, thủ tục do pháp luật quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí của nhà nước, bao gồm VBQPPL và VBADQPPL”. Ngoài ra, trong Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội (tái bản năm 2021) cũng đề cập đến khái niệm VBPL, theo đó “Văn bản pháp luật là hình thức thể hiện ý chí của nhà nước, được ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy định, luôn mang tính và được đảm bảo thực hiện bởi nhà nước”. Từ hai khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu VBPL chính là tiền đề để xác định VBKK. Việc không tuân thủ các yêu cầu khi ban hành VBPL sẽ tạo ra VBKK. Hiện nay, dưới góc độ nghiên cứu khoa học pháp lý thì đã có một số quan điểm về VBKK. Theo đó, Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật của Trường Đại học Luật Hà Nội (tái bản năm 2021) đã nêu ra khái niệm về VBKK, theo đó: “Văn bản khiếm khuyết là văn bản “còn thiếu sót – chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo chất lượng mà Nhà nước yêu cầu”. Về cơ bản, khái niệm trên đã thể hiện một cách khá đầy đủ, luận giải được những vấn đề xoay quanh VBKK. Tuy nhiên, theo ý kiến tác giả thì khái niệm trên chưa diễn giải một cách chi tiết nghĩa của cụm từ “còn thiếu sót – chưa hoàn chỉnh” và không đảm bảo chất lượng mà Nhà nước yêu cầu. Chính vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa những quan điểm khoa học về VBKK, tôi đưa ra quan điểm của mình về khái niệm VBKK như sau: “Văn bản khiếm khuyết là văn bản được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định nhằm đạt được mục tiêu quản lý và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Tuy nhiên, trong quá trình ban hành những văn bản này lại có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý không đảm bảo được chất lượng mà Nhà nước yêu cầu”. VBKK bao gồm hai nhóm văn bản sau đây: Một là, nhóm VBQPPL khiếm khuyết được quy định tại khoản 2 Điều 103 Nghị định 34/2016/NĐ-CP, điểm b khoản 17 Điều 1 Nghị định 154/2020/NĐ-CP, bao gồm: 7 - Văn bản trái pháp luật: Văn bản ban hành không đúng thẩm quyền; văn bản có nội dung trái với Hiến pháp, trái với VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn; văn bản quy định thời điểm có hiệu lực trái với quy định của Điều 151 Luật 2015, văn bản vi phạm quy định của pháp luật về đánh giá tác động của chính sách, lấy ý kiến, thẩm định, thẩm tra dự thảo; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành trong trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn theo trình tự, thủ tục rút gọn nhưng không thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 147 của Luật 2015. Ví dụ: Quyết định số 07/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh NA có quy định về tiêu chuẩn đối với người lái xe ô tô vận tải hành khách như sau: “…có thâm niên lái xe (tính từ ngày được cấp giấy phép lái xe) từ 03 năm trở lên”. Theo Luật giao thông đường bộ năm 2001 quy định: “Người lái xe tham gia giao thông phải có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Người lái xe phải bảo đảm độ tuổi, sức khỏe theo quy định của Luật này”; Đồng thời, Nghị định số 110/2006/NĐ-CP của Chính phủ về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô quy định: “Lái xe, nhân viên phải có lý lịch rõ ràng được chính quyền địa phương xác nhận; giấy chứng nhận sức khỏe; có hợp đồng lao động…”. Như vậy, các VBQPPL ở Trung ương không đặt ra điều kiện đối với người lái xe ô tô vận tải hành khách phải có “thâm niên lái xe (tính từ ngày được cấp giấy phép lái xe) từ 03 năm trở lên”. Việc UBND đặt thêm điều kiện này là trái với quy định của pháp luật. - Văn bản có sai sót về căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày. Ví dụ: Ngày 03/01/2019, UBND tỉnh Hưng Yên ban hành Quyết định số 01/2019/QĐUBND về việc ban hành quy chế theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và do UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh giao, tại mục nơi nhận của Quyết định này ghi “Thường trực Tỉnh uỷ” trước “Văn phòng chính phủ (Vụ tổng hợp)” và “Cục Kiểm tra văn bản văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp”. Ta thấy Quyết định này đã sai về thể thức ban hành, vì cơ quan cao hơn sẽ đứng trước cơ quan có thẩm quyền thấp hơn. Chính vì vậy, ngày 19/11/2019, UBND tỉnh Hưng Yên đã ban hành Quyết định số 2652/QĐ-UBND về việc ban hành danh mục đính chính một số sai sót về căn cứ ban hành, thể thức, kỹ thuật trình bày trong các quyết định là VBQPPL của UBND tỉnh ban hành trong thời điểm từ ngày 01 tháng 01 năm 2019 đến 15 tháng 10 năm 2019, trong đó đính chính Quyết định 01/2019/QĐ-UBND, tại phần nơi nhận: Đảo nơi nhận “Văn phòng chính phủ (Vụ tổng hợp)” và “Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật - Bộ Tư pháp” lên trước nơi nhận “Thường trực Tỉnh ủy”. 8 - Văn bản có chứa QPPL nhưng không được ban hành bằng hình thức VBQPPL; văn bản có chứa QPPL hoặc có thể thức như VBQPPL do cơ quan, người không có thẩm quyền ban hành. Ví dụ: Cục trưởng Cục A (thuộc Bộ) ban hành Công văn về việc kiểm dịch thực vật cây có bầu đất, trong đó có hướng dẫn:“Chỉ làm thủ tục kiểm dịch đối với cây mang theo bầu đất theo hình thức tạm nhập tái xuất hoặc quá cảnh”. Theo nội dung trên thì chúng ta có thể dễ dàng nhận biết, Công văn do Cục trưởng Cục A ban hành đã chứa QPPL. Theo quy định của Luật 2008 về thẩm quyền ban hành VBQPPL, Cục là đơn vị thuộc Bộ nên không có thẩm quyền đưa ra các quy định có tính QPPL. Hơn nữa, khoản 4 Điều 9 Nghị định số 02/2007/NĐ-CP ngày 05/01/2007 của Chính phủ về kiểm dịch thực vật đã nghiêm cấm: “Đưa thực vật mang theo đất dưới mọi hình thức vào Việt Nam”. Do đó, hướng dẫn tại Công văn trên là không phù hợp với cơ quan nhà nước cấp trên. Hai là, nhóm các VBADQPPL khiếm khuyết. Trước tiên, VBADQPPL là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, hình thức, thủ tục do pháp luật quy định nhằm áp dụng QPPL vào từng trường hợp cụ thể, có hiệu lực áp dụng một lần và được nhà nước đảm bảo thực hiện.4 Như vậy, chúng ta có thể hiểu VBADQPPL khiếm khuyết cũng là văn bản được ban hành nhưng không tuân thủ theo các quy định của pháp luật, không tuân theo trình tự, thủ tục gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của một hoặc một số chủ thể nhất định. Ví dụ: Ngày 01/8/2020 ông Trần Quang Thịnh, Phó Chủ tịch UBND Phường Vĩnh Nguyên đã ký Thông báo số 810 gửi đến các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn với nội dung: Tạm thời đóng cửa các cơ sở kinh doanh dịch vụ không cần thiết từ 0 giờ ngày 2/8/2020, bao gồm: Khu vui chơi, giải trí, dịch vụ massage, vũ trường, quán bar, karaoke và các cơ sở làm đẹp. Tuy nhiên, việc ban hành văn bản trên của UBND Phường Vĩnh Nguyên là không đúng quy định vì UBND thành phố Nha Trang chưa ban hành văn bản nào liên quan đến việc tạm dừng các cơ sở kinh doanh dịch vụ không cần thiết. “Theo Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ, thì hiện nay Khánh Hòa nằm trong nhóm nguy cơ thấp. Thành phố vừa chống dịch vừa phục hồi sản xuất. Thành phố không lơ là, chủ quan, áp dụng tất cả các biện pháp phòng chống dịch, thời điểm hiện tại chưa đóng cửa các cơ sở kinh doanh dịch vụ trên địa bàn”. Như vậy, ta thấy trong ví dụ này, UBND thành phố Nha Trang chưa ban hành văn bản liên quan đến việc tạm ngừng cơ sở kinh doanh vì tình hình dịch bệnh tại Nha Trang còn đang ở mức thấp nhưng Phó chủ tịch UBND Phường Vĩnh Nguyên đã ban hành Thông báo số 810 đề việc tạm thời đóng Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình kỹ thuật soạn thảo văn bản, 2021, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 19. 4 9 cửa các cơ sở kinh doanh dịch vụ là “cầm đèn chạy trước ô tô” – không đúng thẩm quyền. 1.1.2. Đặc điểm của văn bản khiếm khuyết Từ khái niệm VBKK mà tác giả đã xây dựng ở trên, chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của VBKK như sau: Thứ nhất, VBKK được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định nhằm đạt được mục tiêu quản lý và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. VBKK là văn bản được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền (các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành hoặc phối hợp ban hành). Ví dụ: Chính phủ ban hành nghị định; Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành thông tư; HĐND ban hành nghị quyết; UBND ban hành quyết định,... Trong đời sống của một xã hội, giữa người và người tồn tại các quan hệ rất đa dạng, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoài pháp luật, các quan hệ xã hội còn được điều chỉnh bởi các quy tắc đạo đức, tôn giáo, chính trị, phong tục, tập quán... Trong xã hội, tồn tại những quan hệ xã hội, mà xét từ lợi ích của giai cấp cầm quyền, từ lợi ích chung của xã hội, của cộng đồng... thì cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật, sự quản lý của Nhà nước. Từ đó, văn bản ra đời để tập trung điều chỉnh các vấn đề trên các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục,… một cách toàn diện, hiệu quả trên cơ sở tuân thủ những quy định của pháp luật. Thứ hai, VBKK có dấu hiệu bất hợp pháp, bất hợp lý không đảm bảo được chất lượng mà Nhà nước yêu cầu. Tính hợp pháp của VBQPPL là sự phù hợp của văn bản đó với thẩm quyền, nội dung, hình thức và phương pháp quản lý của các chủ thể quản lý trong khuôn khổ pháp luật quy định. Tính hợp pháp đối với thủ tục xây dựng và ban hành VBQPPL là sự phù hợp của hoạt động xây dựng và ban hành văn bản đó với các yêu cầu về thủ tục do luật định. Từ đó, chúng ta có thể hiểu bất hợp pháp chính là việc VBQPPL được ban hành trái với thẩm quyền, nội dung, hình thức và phương pháp quản lý của các chủ thể quản lý trong khuôn khổ pháp luật quy định, trái với thủ tục luật định. Tính hợp lý của VBQPPL là sự thể hiện phương án được lựa chọn để điều chỉnh đối tượng quản lý trong văn bản là phương án tốt nhất. Văn bản đó biểu hiện tính khả thi và hiệu quả cao nhất về kinh tế - chính trị, xã hội; được sự đồng thuận của mọi người. Từ đó chúng ta có thể hiểu tính bất hợp lý của VBQPPL là việc VBQPPL có nội dung không phù hợp với thực tiễn; không đáp ứng được yêu cầu về khoa học; khiếm khuyết về ngôn ngữ và kỹ thuật trình bày văn bản;… Tựu chung lại, mục đích của việc xây dựng và ban hành VBQPPL là để quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội, làm cho quy định của pháp luật trở nên hiệu quả trong 10 thực tiễn, bảo đảm được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo và ban hành VBPL đã không thực đúng yêu cầu của nhà nước, làm cho VBPL được ban hành không đảm bảo được chất lượng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của nhà nước, tính hiệu quả của quy định pháp luật và đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền cũng như lợi ích của các chủ thể chịu sự tác động trực tiếp từ VBKK này. 1.1.3. Căn cứ xác định khiếm khuyết của văn bản 1.1.3.1. Những căn cứ xác định tính bất hợp pháp * Sai hoặc thiếu căn cứ pháp lý Căn cứ pháp lý là chuẩn mực pháp luật bảo đảm tính hợp pháp, là cơ sở để ban hành và tổ chức thực hiện đối với VBPL. Thực tế hiện nay cho thấy, một số VBQPPL đã hết hiệu lực thi hành, nhưng vẫn được các chủ thể có thẩm quyền hoặc các cơ quan, tổ chức viện dẫn làm căn cứ để ban hành VBPL khác. Có trường hợp cơ quan ban hành VBPL còn viện dẫn văn bản hành chính và văn bản của các tổ chức xã hội làm căn cứ pháp lý cho việc ban hành VBPL. Phổ biến hơn là trường hợp viện dẫn thiếu hoặc viện dẫn sai căn cứ pháp lý về thẩm quyền hoặc nội dung của VBPL. Điều này đã trực tiếp làm ảnh hưởng đến hiệu lực pháp lý của VBPL, ảnh hưởng đến việc ban hành, và tính đảm bảo thực hiện sau khi ban hành. Ví dụ: Ngày 10/01/2021, UBND tỉnh X đã ban hành Quyết định 01/2021/QĐ-UBND về việc ban hành quy chế phối hợp quản lý nhà nước về người lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh X dựa trên căn cứ ban hành là Bộ luật Lao động 2012. Tại thời điểm ban hành Quyết định số 01/2021/QĐ-UBND, Bộ luật Lao động 2012 đã hết hiệu lực pháp luật và được thay thế bằng Bộ luật Lao động 2019 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021). Vì vậy, căn cứ này là không chính xác. * Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền ban hành VBPL vi phạm thẩm quyền bao gồm hai hành vi vi phạm: Vi phạm thẩm quyền về hình thức và vi phạm thẩm quyền về nội dung. Văn bản pháp luật vi phạm thẩm quyền về hình thức là văn bản có tên loại văn bản không đúng với quy định của pháp luật hiện hành. Đầu tiên, đó chính là việc cơ quan, tổ chức ban hành văn bản sử dụng tên loại VBPL thuộc thẩm quyền ban hành của chủ thể khác. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì UBND ban hành quyết định, HĐND ban hành nghị quyết, thì thay vào đó, UBND lại ban hành nghị quyết, HĐND lại ban hành quyết định. Ngoài ra, vi phạm thẩm quyền về hình thức còn thể hiện ở việc sử dụng văn bản hành chính như thông báo, công văn,… để đặt ra các QPPL. Dấu hiệu khiếm 11 khuyết của những văn bản này hiện nay còn xảy ra khá phổ biến đối với những văn bản được ban hành từ trung ương đến địa phương. Mặt khác, việc ban hành VBQPPL vi phạm về hình thức ngoài những khiếm khuyết đã đề cập ở trên thì còn có thể xảy ra trong trường hợp chủ thể ban hành sử dụng tên VBPL thuộc thẩm quyền của mình nhưng lại không phù hợp với nội dung giải quyết – không đúng vai trò của văn bản. Ví dụ: Ban hành quyết định thay cho lệnh khám nơi cất giấu tang vật vi phạm, hay ban hành quyết định để chỉ đạo cấp dưới về chuyên môn, nghiệp vụ,…5 Trong một số trường hợp cá biệt, còn bắt gặp tình trạng các cơ quan có thẩm quyền sử dụng loại VBPL không do pháp luật quy định để đặt ra các quy định pháp luật, ví dụ như: UBND ban hành thông tri,…6 Vi phạm thẩm quyền về nội dung được hiểu là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền ban hành VBPL giải quyết công việc không thuộc thẩm quyền mà pháp luật trao cho. Thẩm quyền nội dung ban hành VBPL bắt nguồn từ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể từ phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực của mỗi cơ quan và người có thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Biểu hiện cụ thể về vi phạm thẩm quyền nội dung trên thực tế cũng khá đa dạng và phong phú. Trước hết, sự vi phạm thẩm quyền nội dung thể hiện ở việc cơ quan ban hành VBPL giải quyết công việc hoàn toàn không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể. Ví dụ: Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc bộ như cục, vụ, viện, văn phòng... ban hành VBQPPL. Ngoài ra, VBPL vi phạm về thẩm quyền nội dung còn thể hiện trong việc chủ thể ban hành văn bản để giải quyết công việc vượt thẩm quyền mà pháp luật quy định đối với chủ thể đó. Ví dụ: Phó Hiệu trưởng trường tiểu học X ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc giáo viên A dạy môn Lịch sử vì cho rằng bà A đã không thường xuyên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ta thấy, trong trường hợp này theo quy định tại khoản 2 Điều 31 Nghị định 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ về việc về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức, đối với viên chức không giữ chức vụ quản lý, người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật. Pháp luật quy định rằng người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập quản lý viên chức là hiệu trưởng mới có quyền xử lý kỷ luật đối với Trường Đại học Luật Hà Nội (2021), Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, tr. 236. Khoản 10 Điều 4 Quyết định 66-QĐ/TW quy định về thể loại, thẩm quyền và thể thức văn bản của Đảng: “Thông tri là văn bản chỉ đạo, giải thích, hướng dẫn các cấp ủy, tổ chức, cơ quan đảng cấp dưới thực hiện nghị quyết, quyết định, chỉ thị… của cấp ủy, hoặc thực hiện một nhiệm vụ cụ thể”. Khoản 11 Điều 4 Quyết định 66-QĐ/TW quy định về thể loại, thẩm quyền và thể thức văn bản của Đảng: “Hướng dẫn là văn bản giải thích, chỉ dẫn cụ thể việc tổ chức thực hiện văn bản của cấp ủy hoặc của cơ quan đảng cấp trên”. 5 6 12 giáo viên A. Do đó, trong trường hợp này, Phó hiệu trưởng trường tiểu học không được uỷ quyền của Hiệu trưởng mà ra quyết định kỷ luật, từ đó cho thấy, Phó hiệu trưởng đã vượt quá thẩm quyền của mình trong việc giải quyết công việc. * Văn bản pháp luật có nội dung trái với quy định của pháp luật Có nhiều biểu hiện về nội dung của VBPL trái với quy định pháp luật hiện hành. Trước hết, nội dung trái quy định pháp luật hiện hành thể hiện trong việc không viện dẫn hoặc viện dẫn sai những văn bản làm căn cứ pháp lý để ban hành văn bản đó. Ví dụ: Trong Quyết định của UBND tỉnh A về quản lý, khai thác và bảo vệ tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh, phần căn cứ pháp lý chỉ nêu Luật Tổ chức chính quyền địa phương mà không viện dẫn Luật Bảo vệ môi trường là văn bản quy định trực tiếp về thẩm quyền của UBND tỉnh trong lĩnh vực này. Thứ hai, nội dung của VBPL trái với quy định pháp luật hiện hành thể hiện rõ nét trong trường hợp nội dung VBQPPL của cấp dưới trái với nội dung VBQPPL của cấp trên hoặc văn bản hành chính có các quy định mang tính quy phạm trái với các QPPL hiện hành. Ví dụ: Điều 2 Nghị định 95/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng quy định về thời điểm có hiệu lực của văn bản trái với quy định tại Điều 78 Luật 20087. * Văn bản pháp luật có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia Hiện nay dấu hiệu này rất cần được xem xét trong quá trình xử lý VBQPPL. Vì muốn thực hiện tốt các cam kết quốc tế, Việt Nam không chỉ tiến hành việc nội luật hoá mà còn phải rà soát nhằm phát hiện VBQPPL hiện hành nào chưa phù hợp để sửa đổi, bổ sung thậm chí bãi bỏ, thay thế bằng văn bản khác. Kể từ khi ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, cũng như trở thành thành viên chính thức của nhiều tổ chức quốc tế, Việt Nam đã và đang rà soát tất cả các VBPL quy định về lĩnh vực thương mại và các lĩnh vực khác có liên quan để bảo đảm tính tương thích, đồng bộ trong quá trình triển khai thực hiện các cam kết quốc tế. Điều 2 Nghị định 95/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng quy định trái pháp luật với Điều 78 Luật 2008 có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký (20-10-2011). Tuy nhiên, khoản 1 Điều 78 Luật 2008 quy định như sau: “Thời điểm có hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong văn bản nhưng không sớm hơn 45 ngày, kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành. Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp, văn bản được ban hành để kịp thời đáp ứng yêu cầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh thì có thể có hiệu lực kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành nhưng phải được đăng ngay trên trang thông tin điện tử của cơ quan ban hành và phải được đưa tin trên phương tiện thông tin đại chúng; đăng Công báo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chậm nhất sau hai ngày làm việc kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành”. 7 13 Như vậy, nếu VBQPPL nào chưa phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì đó là lý do để cơ quan có thẩm quyền tiến hành xử lý bằng biện pháp sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ và ban hành mới những văn bản có liên quan đến điều ước quốc tế đó. Ví dụ, tại khoản 2 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định: “Xe ô tô có trang bị dây an toàn thì người lái xe và người ngồi hàng ghế phía trước trong xe ô tô phải thắt dây an toàn”, còn tại khoản 5 Điều 7 Công ước Viên về giao thông đường bộ có quy định: “Người điều khiển và hành khách trên phương tiện cơ giới có ghế ngồi trang bị dây an toàn thì bắt buộc phải thắt dây an toàn”. Như vậy, ta thấy pháp luật Việt Nam đang có quy định chưa phù hợp với quy định của Điều ước quốc tế. Nhưng sau đó, pháp luật Việt Nam đã có sự điều chỉnh tại Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt: “q) Chở người trên xe ô tô không thắt dây an toàn (tại vị trí có trang bị dây an toàn) khi xe đang chạy” 8. Như vậy, ta thấy hiện nay các xe ô tô đều có trang bị dây an toàn cho những người ngồi sau, việc quy định như vậy là bắt buộc những người ngồi sau xe phải thắt dây an toàn nếu không sẽ bị phạt và quy định này đã phù hợp với Điều ước quốc tế. * Văn bản pháp luật vi phạm các quy định về hình thức và thủ tục ban hành VBPL có thể thức hình thức không đúng quy định của pháp luật, biểu hiện thông qua các sai phạm về cách trình bày trong quá trình ban hành VBPL như: VBQPPL không có năm ban hành trong phần số, ký hiệu hay văn bản viết địa danh ban hành văn bản không đúng (ví dụ: Tp. HCM, ngày... tháng... năm...); trích yếu nội dung văn bản viết in nghiêng,... VBPL vi phạm về thủ tục ban hành hoặc không thực hiện những thủ tục liên quan đến việc ban hành là cơ sở để xác định tính hợp pháp cho VBADQPPL. Để một VBPL được ban hành hợp pháp thì cần phải đáp ứng các điều kiện về thủ tục ban hành, khi không tuân thủ các quy định về thủ tục ban hành thì bị xem là VBKK. Ví dụ: Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Luật 2015 về việc thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện9. Tuy nhiên, trong quá trình ban hành Nghị quyết của HĐND huyện M, tỉnh N, Phòng Tư pháp của huyện M đã không thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND mà trình trực tiếp lên UBND huyện M. Ta thấy, hành vi này Điểm q, khoản 3 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông, đường bộ và đường sắt. 9 Khoản 1 Điều 134 Luật 2015: “1. Phòng Tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện trước khi trình Ủy ban nhân dân cấp huyện. Chậm nhất là 10 ngày trước ngày Ủy ban nhân dân họp, cơ quan chủ trì soạn thảo phải gửi hồ sơ dự thảo nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp huyện đến Phòng Tư pháp để thẩm định”. 8
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan