BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĨNH KIM LOAN
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT THẢ RÔNG
GÂY RA THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT THẢ RÔNG
GÂY RA THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Định hướng ứng dụng
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Đỗ Văn Đại
Học viên: Nguyễn Vĩnh Kim Loan
Lớp: Cao học Luật Bình Thuận - Khóa 2
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sỹ “Bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây
ra theo pháp luật dân sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân
tôi thực hiện với sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Đỗ Văn Đại. Những tài liệu, số
liệu được sử dụng trong luận văn bảo đảm tính khách quan, chính xác. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào khác.
Tác giả
Nguyễn Vĩnh Kim Loan
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Viết đầy đủ
1
BLDS
Bộ luật Dân sự
2
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự
3
HĐTP
Hội đồng Thẩm phán
4
Nghị
Stt
quyết
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội
03/2006/NQ-HĐTP đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày
08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định
của bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng
5
TAND
Tòa án nhân dân
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1................................................................................................................7
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT THẢ RÔNG THEO TẬP QUÁN
GÂY RA .....................................................................................................................7
1.1. Nguyên tắc áp dụng tập quán nói chung và áp dụng tập quán trong
trường hợp súc vật được thả rông theo tập quán nói riêng ..............................8
1.1.1. Nguyên tắc áp dụng tập quán nói chung ....................................................8
1.1.2. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong trường hợp súc vật được thả rông
theo tập quán ........................................................................................................9
1.2. Chủ thể bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây thiệt
hại: ........................................................................................................................11
1.2.1. Chủ sở hữu súc vật thả rông theo tập quán gây ra thiệt hại .....................12
1.2.2. Các chủ thể khác trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán gây
thiệt hại ..............................................................................................................13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................16
CHƯƠNG 2..............................................................................................................17
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT THẢ RÔNG KHÁC GÂY RA ....17
2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông
khác gây ra ...........................................................................................................18
2.1.1. Thiệt hại do súc vật thả rông khác gây ra ................................................18
2.2.2. Không thuộc trường hợp lỗi hoàn toàn của người bị thiệt hại và trường
hợp do sự kiện bất khả kháng ............................................................................28
2.2. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông khác
gây ra ....................................................................................................................30
2.2.1. Trường hợp một chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật
thả rông khác gây ra ...........................................................................................30
2.2.2. Trường hợp liên đới bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông khác gây ra
...........................................................................................................................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................38
KẾT LUẬN ..............................................................................................................39
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thực tế đời sống sinh hoạt, sản xuất của con người, các loài súc vật như
trâu, bò, chó, ngựa… là những loại thú nuôi phổ biến. Tuy nhiên, do thói quen nuôi
súc vật thả rông trong nhân dân, điển hình như việc nuôi chó để canh nhà, nuôi trâu,
bò cho sản xuất nông nghiệp theo lối chăn thả tự do dẫn đến nhiều trường hợp súc
vật gây thiệt hại nặng nề không chỉ về tài sản mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm
chí tính mạng con người.
Với thực tế đó, pháp luật dân sự đã quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân là chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hoặc người thứ ba trong việc bồi
thường thiệt hại do các loài súc vật gây ra, cụ thể tại Điều 603 Bộ luật Dân sự năm
2015.
Các quy định này tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại, bảo vệ quyền lợi của người
bị thiệt hại cũng như đảm bảo sự ổn định của xã hội, lợi ích chung của cộng đồng.
Mặc dù Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định tương đối đầy đủ về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra nhưng trên thực tế áp dụng các quy
định này vào việc bồi thường cho người bị thiệt hại cũng còn nhiều vấn đề phải bàn,
như:
(i) Việc xác định người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ là chủ sở hữu
súc vật trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán là không phù hợp;
(ii) Trong trường hợp người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm súc vật thả rông gây
thiệt hại thì việc bồi thường thiệt hại được xác định theo khoản 2 hay khoản 4 của
Bộ luật Dân sự năm 2015, và trong trường hợp súc vật thả rông bị người khác
chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt
hại được xác định theo quy định tại khoản 3 hay khoản 4?
(iii) Khoản 4 Điều 603 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định vấn đề bồi thường
thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây ra chỉ được giải quyết theo tập quán
là chưa phù hợp.
(iv) Chưa có quy định về trường hợp súc vật bị bỏ rơi hoặc bỏ trốn gây thiệt
hại cho người khác thì chủ thể nào sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
(v) Pháp luật chỉ quy định người thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên
đới bồi thường thiệt hại và không đề cập đến người đang chiếm hữu, sử dụng súc
vật trong thời gian được giao quản lý mà gây ra thiệt hại.
Chính vì lí do trên mà tác giả chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại do súc vật thả
rông gây ra theo pháp luật dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn cao học. Thông
2
qua việc nghiên cứu, tác giả hy vọng rằng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn
thiện hơn các quy định giải quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại
do súc vật thả rông gây ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra thuộc trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. So với một số trường hợp bồi thường cụ thể được quy
định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì các công trình nghiên cứu về bồi thường thiệt
hại do súc vật thả rông gây ra nói riêng còn rất hạn chế. Đến nay, đã có một số công
trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến đề tài này như:
* Giáo trình, sách chuyên khảo:
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2017), Giáo trình pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Đỗ Văn Đại chủ biên, Nxb. Hồng
Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Giáo trình cung cấp cho người đọc lý luận chung về
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Tuy nhiên, giáo trình không đề cập
nhiều đến bồi thường thiệt hại về tài sản mà đặc biệt là bồi thường thiệt hại do súc
vật thả rông gây ra. Từ lý luận chung trong giáo trình, người viết có cơ sở xây dựng
lý luận về luận văn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra mà
đặc biệt là súc vật thả rông theo tập quán gây ra.
- Trần Thị Huệ (2013), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
theo pháp luật dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Đây là cuốn
sách đã kế thừa hầu hết các nội dung trong đề tài khoa học cấp trường với nhan đề
“Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo vệ
năm 2009, do TS Trần Thị Huệ làm chủ nhiệm đề tài.
- Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự
2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân. Sách
đã bình luận chuyên sâu từng điểm, khoản các điều luật và có đưa ra một số ví dụ
thực tiễn để phân tích và dẫn giải, giúp cho người đọc hiểu đúng tinh thần của các
điều luật trong Bộ luật Dân sự 2015. Trong đó, tác giả đã dành đến 03 trang để bình
luận về điều khoản bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, đánh giá các nội dung
mới trong điều này so với quy định của các bộ luật dân sự trước đây. Công trình
nghiên cứu cung cấp cho người đọc lý luận chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng nói chung làm cơ sở xây dựng lý luận về luận văn trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do súc vật thả rông gây ra,
- Đỗ Văn Đại (2016), Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và
bình luận bản án, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Trong cuốn sách này,
tác giả đã phân tích, đánh giá sâu sắc về các vấn đề chung về bồi thường thiệt hại
3
như căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường; phương thức, hình thức, thay đổi,
giảm mức bồi thường; xác định thiệt hại khi tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm
phạm. Thông qua việc bình luận, tác giả đã nêu ra một số quan điểm, cách giải
quyết có tính thiết thực, hợp lý những vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
tài sản gây ra, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.
- Phùng Trung Tập (2017), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Luật Dân sự Việt Nam-Bình giải và áp dụng, Nxb Công an nhân dân. Trong cuốn
sách này, tác giả đã phân tích các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Liên quan đến luận văn, công trình này có chỉ ra, phân tích một số
phong tục, tập quán, luật tục về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra.
Tuy nhiên, công trình này chưa bình giải chuyên sâu về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do súc vật thả rông gây ra.
- Nguyễn Mạnh Bách (1998), Nghĩa vụ dân sự trong luật dân sự Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Đây là công trình nghiên cứu tổng hợp các quy
định của Bộ luật Dân sự năm 1995 về nghĩa vụ dân sự. Liên quan đến luận văn,
công trình này cũng đưa ra nhưng quan điểm về lỗi trong trách nhiệm do tác động
của các vật (bao gồm công trình kiến trúc, cây cối, súc vật và các vật vô tri khác mà
việc sử dụng tạo ra một nguồn nguy hiểm cao độ) khi phân tích về các điều kiện
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
* Luận văn, bài viết:
- Nguyễn Thị Mận (2013), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra
theo pháp luật Việt Nam, Luận văn, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Luận
văn nghiên cứu sâu những vấn đề lý luận liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tài sản gây ra nhưng không đi sâu phân tích các quy định cũng như thực tiễn
về bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra.
- Lê Hà Huy Phát (2015), Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luận văn, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh. Luận văn đã nghiên cứu sâu những vấn đề lý luận cũng như thực trạng pháp
luật liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra về chủ thể chịu
trách nhiệm bồi thường, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường... Tác giả cũng
trình bày về vấn đề áp dụng tập quán để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt
hại do súc vật gây ra. Nhưng tác giả chưa nghiên cứu sâu về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do súc vật thả rông gây ra.
- Trần Thị Huệ (2009), Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại, vấn đề lý
luận và thực tiễn, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội. Đề tài
4
bao gồm 12 chuyên đề, nghiên cứu tổng hợp các vấn đề lý luận và thực tiễn về trách
nhiệm dân sự khi tài sản gây thiệt hại.
- Vũ Thị Hồng Yến (2012), Bàn về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp
tài sản gây ra thiệt hại, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 11/2012, tr.02-10. Trên cơ
sở phân tích các quy định pháp luật có liên quan đến điều kiện xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra, chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường và
những kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
- Bùi Thị Thanh Hằng và Đỗ Giang Nam (2013), Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do tác động của tài sản gây ra dưới góc nhìn so sánh, Tạp chí Luật học, số
03 năm 2013, tr.61-72. Trong bài viết này, tác giả đi vào nghiên cứu so sánh pháp
luật về bồi thường thiệt hại do tác động của tài sản gây ra trong pháp luật của Mỹ,
Pháp, Đức, Châu Âu với Việt Nam.
- Lê Hà Huy Phát (2016), Những điểm mới về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do súc vật gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015, Tạp chí khoa học pháp lý
số 03(97)/2016. Trong bài viết, tác giả đã phân tích các điểm mới về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015
so với bộ luật trước đây như về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc
vật thả rông gây ra và chế định liên đới bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây
ra.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên các tác giả đề cập cơ sở lý luận về
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra nói chung và bồi thường thiệt hại do súc vật
gây ra nhưng chưa đi sâu nghiên cứu trách nhiệm bồi thường do súc vật thả rông
gây ra. Ngoài ra, đây cũng là một quy định còn nhiều điểm chưa rõ ràng làm cho
việc áp dụng quy định này trên thực tế còn hạn chế. Vì vậy, tác giả mong muốn đi
sâu phân tích đồng thời gắn với thực tiễn áp dụng để tìm hiểu những điểm chưa hợp
lý của quy định pháp luật hiện hành, từ đó đề xuất kiến nghị để hoàn thiện pháp
luật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng các
quy định pháp luật hiện hành về giải quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường
thiệt hại do súc vật thả rông gây ra. Từ đó, đề xuất kiến nghị một số giải pháp cơ
bản nhằm hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau:
Một là, nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý liên quan đến bồi thường
thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông gây ra.
5
Hai là, phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử, áp dụng pháp luật trong giải quyết
các tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông
gây ra.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật, thống
nhất hướng giải quyết.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp
luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông
gây ra; đánh giá thực trạng áp dụng các quy định pháp luật để giải quyết tranh chấp
liên quan đến bồi thường thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông gây ra trong
thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu: vấn đề bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra được quy
định trong nhiều văn bản ở nhiều lĩnh vực khác nhau như dân sự, hình sự, hành
chính…. Tuy nhiên, ở luận văn này tác giả tập trung nghiên cứu các vấn đề về bồi
thường thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông gây ra theo pháp luật dân sự và
thực tiễn, vướng mắc khi áp dụng chế định bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông
gây ra.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành như phương pháp bình luận, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh để
hoàn thành luận văn. Trong đó:
Phương pháp phân tích: được sử dụng xuyên suốt đề tài để lý giải, phân tích,
đánh giá nội dung của các quy định.
Phương pháp bình luận án: phương pháp này được sử dụng xuyên suốt đề tài
nhằm đánh giá thực tiễn xét xử, nhìn nhận vấn đề pháp lý trong từng vụ việc liên
quan đến đề tài.
Phương pháp so sánh: được sử dụng để đối chiếu các quy định có liên quan
qua các thời kỳ về bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra.
Phương pháp tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt đề tài nhằm cung cấp đầy
đủ có chọn lọc những quy định pháp luật Việt Nam, những vụ việc tranh chấp trong
thực tiễn liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra
và sử dụng tại phần kết luận của mỗi chương để khái quát những nội dung đã trình
bày và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật.
6. Kết quả nghiên cứu
6
Tác giả mong muốn với việc thực hiện đề tài này sẽ góp phần bổ sung, làm
phong phú thêm kiến thức về khoa học pháp lý đối với vấn đề bồi thường thiệt hại
do súc vật thả rông gây ra.
Đề tài sẽ là một tài liệu hữu ích có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong
công tác nghiên cứu, học tập cũng như giảng dạy; các kiến nghị được đề xuất trong
luận văn có thể được tham khảo trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về
giải quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây
ra.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 02
chương:
Chương 1. Bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây ra
Chương 2. Bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông khác gây ra
Tác giả kết cấu luận văn gồm 02 chương như trên nhằm làm rõ các vấn đề còn
bất cập đối với hai trường hợp súc vật thả rông gây thiệt hại là trường hợp súc vật
thả rông theo tập quán và trường hợp súc vật thả rông khác. Căn cứ theo kỹ thuật
lập pháp tại khoản 4 Điều 603 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán và trường hợp súc vật thả không theo tập quán sẽ có nguyên tắc
bồi thường thiệt hại khác nhau. Ngoài ra, quy định về bồi thường thiệt hại trong
trường hợp súc vật thả rông theo tập quán gây thiệt hại hiện nay vẫn còn nhiều hạn
chế và bất cập trong quy định hiện hành cần được nghiên cứu sâu sắc, toàn diện. Do
đó, tác giả đã chia việc bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông gây ra thành 02
trường hợp tương ứng với 02 chương của luận văn bao gồm: bồi thường thiệt hại do
súc vật thả rông theo tập quán gây ra và bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông
khác gây ra.
7
CHƯƠNG 1.
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SÚC VẬT THẢ RÔNG THEO TẬP QUÁN
GÂY RA
Theo Từ điển Tiếng Việt thì súc vật được hiểu là “thú vật nuôi trong nhà”1.
Theo giáo trình Luật Dân sự của Học viện Tư pháp: “Súc vật được hiểu theo cách
thông thường nhất là bao gồm những động vật có vú nuôi trong nhà như trâu, bò
lợn, chó, mèo…”. Tập quán được hiểu theo ngôn ngữ thông thường là “Thói quen
đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và trong sinh hoạt thường ngày,
được mọi người công nhận và làm theo”2 hay “là những quy tắc xử sự được hình
thành một cách tự phát lâu ngày thành thói quen trong đời sống xã hội hoặc giao lưu
quốc tế, đang tồn tại và được các chủ thể thừa nhận như là quy tắc xử sự chung” 3.
Trong khoa học pháp lý, tập quán là “thói quen đã thành nếp sống trong đời sống xã
hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó
thừa nhận và làm theo như một qui ước chung của cộng đồng” và “Cộng đồng là tập
thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối
trong sinh hoạt xã hội tại nơi có tập quán”4.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLDS năm 2015 thì: “Tập quán là quy tắc
xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân
trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một
thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc,
cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự”.
Súc vật thả rông theo tập quán được hiểu là súc vật nuôi trong nhà được tự
do hoạt động mà không bị nhốt giữ theo thói quen được công nhận của một vùng,
miền, dân tộc, cộng đồng dân cư. Ví dụ điển hình về trường hợp súc vật thả rông
theo luật tục của dân tộc Êđê. Những quy định của luật tục Êđê về bồi thường thiệt
hại có đặc điểm chung là người gây thiệt hại là người có trách nhiệm bồi thường;
mức bồi thường cũng căn cứ vào hình thức lỗi của người gây thiệt hại. Ngoài khoản
bồi thường vật chất, người gây thiệt hại còn phải thực hiện những nghi lễ nhất định
để chuộc lỗi; bồi thường thiệt hại cũng theo nguyên tắc toàn bộ và kịp thời. Theo
luật tục Êđê, chủ sở hữu gia súc phải bồi thường thiệt hại do gia súc của mình gây
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội, tr. 873.
Hoàng Phê (2003), tlđd (1), tr.901.
3
Bộ Tư pháp, Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp,
tr.693.
4
Điểm g khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn về thi hành một số quy định về “Chứng minh và chứng cứ” của Bộ luật Tố tụng
dân sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011.
1
2
8
ra. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là ngang giá. Người có gia súc gây thiệt hại cho
người khác về sức khỏe, tính mạng, tài sản còn phải chịu trách nhiệm bằng một số
tài sản khác, ngoài khoản bồi thường thiệt hại thực tế5.
Việc bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán hiện nay được
quy định tại khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 “Trường hợp súc vật thả rông theo
tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán
nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Tuy nhiên, trong thực tế việc xác
định súc vật có thả rông theo tập quán hay không là tương đối khó khăn. Bên cạnh
đó, quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán vẫn
còn một số hạn chế và bất cập cần được hoàn thiện để có sự thống nhất trong công
tác xét xử.
Ngoài ra, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật thả
rông theo tập quán gây ra được xác định tương tự như điều kiện phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông khác gây ra. Do đó, tác giả xin được
trình bày chung tại Tiểu mục 2.2 về Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do súc vật do súc vật thả rông khác gây ra, tránh việc lặp lại nội dung này
tại cả hai chương. Đồng thời, trong chương 1 tác giả chỉ tập trung phân tích những
vấn đề đặc trưng của việc bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây
ra.
1.1. Nguyên tắc áp dụng tập quán nói chung và áp dụng tập quán trong
trường hợp súc vật được thả rông theo tập quán nói riêng
1.1.1. Nguyên tắc áp dụng tập quán nói chung
Về nguyên tắc áp dụng tập quán nói chung đã được quy định từ rất sớm, Bộ
Dân luật Bắc kỳ quy định: “Khi nào không có điều luật thi hành được, thì quan
Thẩm phán xử theo theo tập quán phong tục và nếu không có phong tục thì xử theo
lẽ phải và sự công bằng, cũng là châm chước tục riêng, thói quen và tình ý của
người đương sự”6, Bộ Dân luật Trung Kỳ có quy định: “Khi nào không có điều luật
dẫn dụng được, thời gian Thẩm phán sẽ xử theo phong tục, nếu phong tục cũng
không có, thời xử theo lẽ phải và sự công bằng, mà xử theo tục riêng, cùng thói
quen và tình ý của người đương sự”7, Bộ Dân luật Sài Gòn quy định: “Gặp trường
hợp không có điều luật nào có thể vận dụng, Thẩm phán sẽ quyết định theo tục lệ,
“Nét đẹp trong tập quán bồi thường của người Ê đê”, theo: http://baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/net-deptrong-tap-quan-ve-boi-thuong-cua-nguoi-ede-316572.html, truy cập ngày 19/3/2022.
6
Điều 4 Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931.
7
Điều 4 Hoàng Việt Trung kỳ Hộ luật 1931-1939.
5
9
nếu không có tục lệ, sẽ theo công bằng và lẽ phải mà xét xử và phải chú trọng đến ý
định của các đương sự”8.
Theo quy định của BLDS năm 2015 thì: “Trường hợp các bên không có thỏa
thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp
dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại
Điều 3 của Bộ luật này”9.
Như vậy, nguyên tắc để Toà án áp dụng tập quán gồm hai tiêu chí: Thứ nhất,
tập quán được áp dụng trong trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật
không quy định; thứ hai, tập quán được áp dụng không được trái với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân sự10.
1.1.2. Nguyên tắc áp dụng tập quán trong trường hợp súc vật được thả
rông theo tập quán
Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán, khoản 4 Điều 603 BLDS
năm 2015 quy định: “Trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì
chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội”. Như vậy, vấn đề bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo
tập quán gây ra tại Điều 603 BLDS năm 2015 chỉ được giải quyết theo tập quán và
cũng phải đáp ứng đủ tiêu chí tập quán không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Theo quy định tại Điều 5 BLDS năm 2015 thì tập quán có thể được áp dụng trong
trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định và tập quán
áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Như vậy,
quy định về việc bồi thường thiệt hại theo tập quán trong trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán gây ra thiệt hại tại Điều 603 BLDS năm 2015 không thống nhất
với nguyên tắc chung của việc áp dụng tập quán quy định tại Điều 5 BLDS năm
2015.
Tác giả xin nêu vụ án tranh chấp về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do súc
vật gây ra giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Nga và bị đơn là ông Lê Phong Nhã
với nội dung vụ án như sau: Vào ngày 05/01/2014, 05 con heo con mỗi con khoảng
12kg của bà Nga đi ăn dưới gầm cầu kênh Thầy Bảy thì bị con chó của ông Nhã cắn
chết 01 con. Bà xác định lúc heo bị chó cắn chết thì giá tại địa phương một con
bằng 1.000.000đ (một triệu đồng).
Điều 9 Bộ Dân luật Việt Nam Cộng Hoà, Sài Gòn (1972).
Khoản 2 Điều 5 BLDS năm 2015.
10
Nguyễn Hải An (2018), “Nhận diện tập quán để áp dụng trong công tác xét xử vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình”, Tạp chí Toà án nhân dân số 11/2018.
8
9
10
Hội đồng xét xử nhận định: “Sự việc 05 con heo con của bà Nga đi ăn trên đất
của ông Nhã thì bị chó của ông Nhã cắn bị thương 01 con là thực tế có xảy ra. Xét
yêu cầu khởi kiện của bà Nga thì thấy rằng: Vị trí heo con của bà Nga bị chó nuôi
của ông Nhã cắn chết là trên đất của ông Nhã. Bà Nga và ông Nhã xác định vật nuôi
của hai bên được thả rông theo tập quán nên xảy ra sự việc chó cắn heo chết. Theo
Điều 625 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “1. Chủ sở hữu súc vật phải bồi
thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác; nếu người bị thiệt hại hoàn toàn
có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu không phải
bồi thường”, “4. Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại
thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán nhưng không được trái
pháp luật, đạo đức xã hội”. Căn cứ điều luật viện dẫn trên, thấy rằng ông Nhã là chủ
sở hữu súc vật (nuôi chó), vật nuôi trong nhà nhưng do lỗi quản lý của ông Nhã nên
chó nuôi của ông Nhã cắn chết heo nuôi của bà Nga. Đối với bà Nga cũng là người
sở hữu vật nuôi trong nhà là heo con nhưng cũng không quản lý đúng quy định, để
heo con chạy qua đất của ông Nhã, hậu quả bị chó của ông Nhã cắn chết, làm cho
bà Nga bị thiệt hại 01 con heo trị giá 1.000.000 đồng. Như vậy, trong trường hợp
trên cả bà Nga và ông Nhã đều có lỗi ngang nhau trong việc quản lý vật nuôi của
mình, đã gây thiệt hại cho bà Nga nên mỗi bên phải chịu 50% mức độ lỗi là đúng
quy định của pháp luật”11.
Thông qua thực tiễn xét xử của Toà án đối với vụ án giữa ông Nhã, bà
Nga, tác giả nhận thấy có điểm bất cập như sau:
Toà án nhận định đây là trường hợp súc vật thả rông theo tập quán. Theo quy
định tại khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 quy định: “ Trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo
tập quán nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Như vậy, nếu căn cứ
theo điểm luật trên, Toà án phải áp dụng tập quán để giải quyết về vấn đề bồi
thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây ra. Tuy nhiên, Toà án đã áp
dụng quy định của BLDS năm 2005 đang có hiệu lực pháp luật tại thời điểm đó để
giải quyết về tranh chấp bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, cụ thể Toà án đã
nhận định: “Điều 625 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “1. Chủ sở hữu súc vật
phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác; nếu người bị thiệt hại
hoàn toàn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ sở hữu
không phải bồi thường”, …thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc vật (nuôi chó), vật
nuôi trong nhà nhưng do lỗi quản lý của ông Nhã nên chó nuôi của ông Nhã cắn
Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, xem phụ
lục số 01.
11
11
chết heo nuôi của bà Nga. Đối với bà Nga cũng là người sở hữu vật nuôi trong nhà
là heo con nhưng cũng không quản lý đúng quy định, để heo con chạy qua đất của
ông Nhã, hậu quả bị chó của ông Nhã cắn chết, làm cho bà Nga bị thiệt hại 01 con
heo trị giá 1.000.000 đồng. Như vậy, trong trường hợp trên cả bà Nga và ông Nhã
đều có lỗi ngang nhau trong việc quản lý vật nuôi của mình, đã gây thiệt hại cho bà
Nga nên mỗi bên phải chịu 50% mức độ lỗi là đúng quy định của pháp luật”.
Như vậy, khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 quy định trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại phải thì phải áp dụng tập quán để giải quyết
về bồi thường thiệt hại, tuy nhiên thực tiễn xét xử cho thấy Toà án vẫn áp dụng quy
định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông thông thường để giải
quyết khi có thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây ra mà không áp dụng
tập quán để giải quyết. Điều này cho thấy nhận định của Toà án theo hướng trong
trường hợp pháp luật có quy định điều chỉnh thì sẽ áp dụng quy định của pháp luật
mà không xem xét đến tập quán về vấn đề đó.
Ngoài ra, cũng trong trường hợp này, nếu các bên có thoả thuận về việc bồi
thường thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại
thì Toà án có chấp nhận sự thoả thuận của các bên hay không? Theo quan điểm của
tác giả, Toà án cần tôn trọng sự thoả thuận về việc bồi thường thiệt hại do súc vật
thả rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại của các đương sự, điều này phù hợp với
nguyên tắc chung của pháp luật dân sự theo hướng tôn trọng sự tự nguyện thoả
thuận của các bên tham gia giao dịch.
Từ bất cập trên theo quy định của pháp luật, tác giả kiến nghị: cần xem
xét trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán mà gây ra thiệt
hại sẽ được xử lý tương tự như súc vật thả rông khác. Điều này tạo nên sự thống
nhất trong nguyên tắc áp dụng tập quán theo quy định tại khoản 2 Điều 5 BLDS
năm 2015, theo đó tập quán sẽ được áp dụng trong trường hợp các bên không có
thỏa thuận và pháp luật không quy định. Trong trường hợp súc vật thả rông mà gây
ra thiệt hại đã có quy phạm pháp luật điều chỉnh nên không áp dụng tập quán trong
trường hợp này. Theo đó:
Tác giả kiến nghị bãi bỏ quy định tại khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 về
trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại
hoặc sửa đổi khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 theo hướng: “Trường hợp súc vật
thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường
theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
1.2. Chủ thể bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây
thiệt hại:
12
1.2.1. Chủ sở hữu súc vật thả rông theo tập quán gây ra thiệt hại
Trường hợp bồi thường thiệt hại do súc vật thả rông theo tập quán gây ra
thiệt hại căn cứ theo khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 thì trong trường hợp súc
vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Thông qua vụ việc của ông Nhã, bà Nga được đề cập tại phần trên. Hội đồng
xét xử nhận định: “Theo Điều 625 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “1. Chủ sở
hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác; nếu người bị
thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc làm chủ súc vật gây thiệt hại cho mình thì chủ
sở hữu không phải bồi thường”, “4. Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập
quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu súc vật đó phải bồi thường theo tập quán
nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”. Căn cứ điều luật viện dẫn trên,
thấy rằng ông Nhã là chủ sở hữu súc vật (nuôi chó), vật nuôi trong nhà nhưng do lỗi
quản lý của ông Nhã nên chó nuôi của ông Nhã cắn chết heo nuôi của bà Nga. Đối
với bà Nga cũng là người sở hữu vật nuôi trong nhà là heo con nhưng cũng không
quản lý đúng quy định, để heo con chạy qua đất của ông Nhã, hậu quả bị chó của
ông Nhã cắn chết, làm cho bà Nga bị thiệt hại 01 con heo trị giá 1.000.000 đồng.
Như vậy, trong trường hợp trên cả bà Nga và ông Nhã đều có lỗi ngang nhau trong
việc quản lý vật nuôi của mình, đã gây thiệt hại cho bà Nga nên mỗi bên phải chịu
50% mức độ lỗi là đúng quy định của pháp luật”12.
Như vậy, trong trường hợp này, Toà nhận định ông Nhã là chủ sở hữu súc vật
(nuôi chó) thả rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại. Do đó, ông Nhã có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nga bằng mức độ lỗi của mình. Việc thả rông súc
vật là hành vi vi phạm quy định pháp luật về quản lý, bảo quản tài sản của chủ sở
hữu (Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
an ninh, trật tự, an toàn xã hội). Do đó, quy định chủ sở hữu phải bồi thường thiệt
hại do gia súc mà mình thả rông gây ra là hợp lý.
Theo luật tục của người Êđê về bồi thường thiệt hại do gia súc gây ra dựa trên
yếu tố lỗi của chủ sở hữu và trong một số trường hợp chủ sở hữu của gia súc cho dù
không có lỗi cũng phải bồi thường, vì gia súc đó thuộc quyền sở hữu của mình.
Đáng chú ý, luật tục Êđê có tính đến trường hợp riêng biệt mà chủ sở hữu gia súc
được miễn bồi thường: “Trâu, bò mùa khô, chúng muốn đi đâu, chúng đi; chúng
muốn đi lang thang đâu đó, chúng đi. Nếu chúng húc nhau đến chết cũng mặc,
không phải đưa nhau ra xét xử, cứ đem chúng ra thui mà ăn”. Thiệt hại trên nằm
ngoài sự kiểm soát của con người, coi là sự kiện bất khả kháng, người có gia súc
Bản án số 23/2017/DS-ST ngày 08/5/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, xem phụ
lục số 01.
12
13
gây thiệt hại không phải bồi thường. Tuy nhiên, nếu gia súc gây thiệt hại đến sức
khỏe của người khác, cho dù chủ sở hữu không có lỗi nhưng cũng phải bồi thường:
“Nếu trâu, bò hung dữ báng chết một người thì chủ sở hữu của nó phải bồi thường;
còn con vật bị giết thịt làm vật hiến sinh cúng cho người chết”. Nếu người bị báng
chỉ bị thương thì chủ của gia súc phải bồi thường theo thiệt hại xác định được: “Nếu
vết thương nhẹ, khoản bồi thường sẽ ít; nếu vết thương nặng, khoản bồi thường sẽ
nhiều”13.
Tác giả đồng quan điểm với các chuyên gia cho rằng luật tục Êđê quy định về
chủ thể phải bồi thường thiệt hại, mức bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là phù
hợp với những quy định của BLDS năm 2015. Cụ thể ở những điểm sau: trâu, bò
trong mùa phải chăn giữ, nếu chúng hăng máu đấu nhau mà bị chết, bị què hay bị
đui thì cũng không có chuyện gì phải đưa ra xét xử; nếu do lỗi của chủ sở hữu trâu
bò, do thiếu sự quản lý, chăn dắt mà để trâu bò của mình gây thiệt hại cho trâu, bò
của người khác thì phải bồi thường ngang giá với thiệt hại (Điều 223 luật tục Êđê);
trâu, bò làm bị thương người khác thì chủ sở hữu của trâu, bò phải bồi thường và
bồi thường các khoản thiệt hại khác về tài sản xác định được; gia súc phá hoại hoa
màu của người khác, chủ sở hữu gia súc phải bồi thường.
1.2.2. Các chủ thể khác trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán
gây thiệt hại
a) Người quản lý súc vật hợp pháp:
Theo quy định tại khoảng 4 Điều 603 BLDS năm 2015 thì trong trường hợp
súc vật thả rông theo tập quán mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt
hại.
Tuy nhiên, thông qua vụ việc của ông Nhã, bà Nga nêu trên, vấn đề đặt ra là
trong trường hợp con chó của ông Nhã tại thời điểm cắn chết heo con của bà Nga
đang do người khác quản lý, sử dụng hợp pháp (Ví dụ ông Nhã vì đi công tác nhiều
ngày và giao cho người nhà quản lý hộ) và súc vật đã được người này thả rông theo
tập quán thì người đang quản lý con chó của ông Nhã có phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại hay không bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 603 BLDS năm 2015
thì người chiếm hữu, sử dụng súc vật phải bồi thường thiệt hại trong thời gian
chiếm hữu, sử dụng súc vật.
Từ bất cập trên, tác giả đưa ra kiến nghị theo hướng: Cần sửa đổi, bổ
sung quy định tại khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 nhằm hoàn thiện quy định này
theo hướng xác định trách nhiệm bồi thường và bổ sung chủ thể phải chịu trách
“Nét đẹp trong tập quán bồi thường của người Ê đê”, theo: http://baophapluat.vn/hoi-dap-phap-luat/netdep-trong-tap-quan-ve-boi-thuong-cua-nguoi-ede-316572.html, truy cập ngày 19/3/2022.
13
14
nhiệm bồi thiệt hại cho người bị thiệt hại trong trường hợp súc vật thả rông theo tập
quán mà gây ra thiệt hại bao gồm cả người chiếm hữu, sử dụng súc vật thả rông hợp
pháp.
b) Người thứ ba có lỗi trong việc làm súc vật thả rông theo tập quán gây ra
thiệt hại:
Trong trường hợp người thứ ba có lỗi trong việc làm súc vật thả rông theo
tập quán gây ra thiệt hại thì việc xác định người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại chỉ là chủ sở hữu súc vật theo quy định tại khoản 4 Điều 603 BLDS năm 2015 là
không phù hợp.
Nhận thấy điều luật còn một số điểm bất cập, cụ thể: Việc thả rông súc vật là
hành vi vi phạm quy định pháp luật về quản lý, bảo quản tài sản của chủ sở hữu
(Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự, an toàn xã hội), nên chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do gia súc mà
mình thả rông gây ra là hợp lý. Tuy nhiên, trong trường hợp người thứ ba hoàn toàn
có lỗi làm súc vật thả rông theo tập quán gây thiệt hại thì việc bồi thường thiệt hại
được xác định theo khoản 2 hay khoản 4 của BLDS năm 2015 thì sẽ thuyết phục
hơn?
Theo quan điểm của tác giả, nếu súc vật thả rông gây thiệt hại mà có sự tác
động của người thứ ba thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại cần được xác định theo
khoản 2 Điều 603 BLDS năm 2015. Theo đó, nếu người thứ ba hoàn toàn có lỗi làm
cho súc vật gây thiệt hại thì người thứ ba phải bồi thường. Việc chủ sở hữu thả rông
súc vật thì phải chịu trách nhiệm hành chính theo quy định tại điểm b khoản 1 và
điểm c khoản 2 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Nếu có căn cứ cho rằng người
thứ ba và chủ sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại. Bởi vì trong
trường hợp này chủ sở hữu có lỗi không quản lý tốt gia súc, còn người thứ ba có lỗi
tác động làm gia súc gây thiệt hại. Do đó, phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại.
c) Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật súc vật thả rông theo tập quán mà
gây ra thiệt hại:
Tương tự như trường hợp người thứ ba có lỗi trong việc làm súc vật thả rông
theo tập quán gây ra thiệt hại, trường hợp người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật
súc vật thả rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại thì việc xác định người chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ là chủ sở hữu súc vật theo quy định tại khoản 4 Điều
603 BLDS năm 2015 là không phù hợp.
15
Trong trường hợp súc vật thả rông theo tập quán bị người khác chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật mà gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác
định theo quy định tại khoản 3 hay khoản 4 BLDS năm 2015 thì sẽ thuyết phục
hơn? Hiện nay, pháp luật cũng chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Theo quan điểm của tác giả, nếu súc vật thả rông bị người khác chiếm hữu,
sử dụng trái pháp luật gây thiệt hại thì vấn đề bồi thường thiệt hại phải được xác
định theo khoản 3 Điều 603 BLDS năm 2015. Theo đó, người chiếm hữu, sử dụng
súc vật thả rông trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp súc vật thả
rông theo tập quán mà gây ra thiệt hại. Nếu có căn cứ cho rằng người thứ ba và chủ
sở hữu cùng có lỗi thì phải liên đới bồi thường thiệt hại vì trong trường hợp này chủ
sở hữu có lỗi không quản lý tốt gia súc để người khác chiếm hữu, sử dụng súc vật
trái pháp luật mà gây ra thiệt hại. Do đó, trong trường hợp này hai chủ thể này phải
chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Từ những hạn chế trên của pháp luật, tác giả kiến nghị khoản 4 Điều 603
BLDS năm 2015 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng bổ sung trường hợp: “Nếu
có lỗi của người thứ ba hoặc của người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì việc
bồi thường được thực hiện theo khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.
- Xem thêm -