ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CHU THU HIỀN
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2010
KHOA LUẬT
CHU THU HIỀN
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Quế Anh
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
1
MỞ ĐẦU
Chương 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
6
DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
1.1.
Một số khái niệm cơ bản về môi trường và bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường
6
1.1.1.
Môi trường
6
1.1.2.
Ô nhiễm môi trường
8
1.1.3.
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường
10
1.1.4.
Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
13
1.2.
Khái niệm và đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
15
1.2.1.
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường
15
1.2.2.
Đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường
18
1.3.
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trường
22
1.3.1.
Có hành vi vi phạm pháp luật môi trường
23
1.3.2.
Có thiệt hại xảy ra
24
1.3.3.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường và thiệt hại xảy ra
25
1.3.4.
Có lỗi
26
1.4.
Sơ lược về sự hình thành và phát triển pháp luật về bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường tại Việt Nam
27
1.4.1.
Giai đoạn trước năm 1995
27
1.4.2.
Giai đoạn từ 1995 đến nay
29
1.5.
Quan niệm của một số nước trên thế giới và Việt Nam về
thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường
31
1.5.1.
Quan niệm về thiệt hại do ô nhiễm môi trường
31
1.5.1.1. Quan niệm của một số nước trên thế giới
31
1.5.1.2. Quan niệm của Việt Nam về thiệt hại do ô nhiễm môi trường
33
1.5.2.
34
Quan niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
1.5.2.1. Quan niệm của một số nước trên thế giới
34
1.5.2.2. Quan niệm của Việt Nam
37
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BỒI THƯỜNG
40
THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
2.1.
Cơ sở pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
40
2.2.
Chủ thể tham gia quan hệ bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
44
2.2.1.
Chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
44
2.2.2.
Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại
51
2.3.
Hành vi vi phạm pháp luật môi trường
55
2.4.
Thiệt hại được bồi thường và xác định thiệt hại
61
2.4.1.
Thiệt hại được bồi thường
61
2.4.2.
Xác định thiệt hại
65
2.5.
Phương thức bồi thường
71
2.6.
Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường
73
Chương 3:
THỰC TIỄN ÁP DỤNG; PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI
77
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
3.1.
Thực tiễn áp dụng pháp luật qua một số vụ việc cụ thể về
bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
77
3.1.1.
Nhận xét chung về thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
77
3.1.2.
Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật qua một số vụ việc điển
hình đã được giải quyết trong những năm gần đây
78
3.1.3.
Những vụ việc điển hình chưa giải quyết hoặc đang trong
quá trình giải quyết
81
3.2.
phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường
87
3.2.1.
Sự cần thiết tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp
luật của Việt Nam về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm
môi trường
87
3.2.2.
Phương hướng hoàn thiện pháp luật
88
3.2.2.1.
Quy định về chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường trong
trường hợp thiệt hại là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích
của môi trường
89
3.2.2.2. Xác định nguyên tắc phân chia trách nhiệm khi có nhiều
người cùng có hành vi vi phạm pháp luật môi trường gây
thiệt hại
90
3.2.2.3. Quy định cụ thể về xác định thiệt hại đối với từng thành phần
môi trường
90
3.2.2.4. Xây dựng một hệ thống phương pháp để xác định mức độ
thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra
91
3.2.2.5. Sửa đổi quy định về thời hiệu yêu cầu bồi thường thiệt hại
về môi trường
91
3.2.2.6. Gia nhập các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường
92
3.2.3.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
92
3.2.3.1.
Tăng cường năng lực của các thiết chế liên quan đến giải quyết
bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
92
3.2.3.2. Xác định vai trò của Ủy ban nhân dân các cấp trong quá
trình tham gia hòa giải, giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường
93
3.2.3.3. Xác định cụ thể các tổ chức, cá nhân có hoạt động tiềm ẩn
nguy cơ gây thiệt hại lớn cho môi trường phải mua bảo
hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường
93
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
97
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường hiện đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ đối với Việt Nam
mà đối với nhiều quốc gia trên thế giới, dù đó là quốc gia đang phát triển hay
quốc gia đã phát triển. Trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam, sự ô
nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường đang làm cho môi trường có
những thay đổi bất lợi cho con người. Nguyên nhân chính của tình trạng này
là sự tác động theo chiều hướng tiêu cực của con người tới môi trường ngày
càng gia tăng. Có nhiều cách thức, biện pháp khác nhau được đưa ra nhằm
bảo vệ môi trường, ngăn chặn, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, trong
đó các biện pháp pháp lý dân sự với nội dung chính là quy định trách nhiệm
phải bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm, suy thoái môi trường đã và đang
được các nước trên thế giới và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Từ năm 1993 khi Luật Bảo vệ môi trường lần đầu tiên được ban hành,
Nhà nước ta đã quy định về trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại của tổ chức,
cá nhân có hoạt động gây ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường. Bộ luật Dân
sự năm 1995 cũng đã quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá
nhân, tổ chức có hành vi gây ô nhiễm môi trường.
Kế thừa các quy định này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã có 5
điều quy định về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường (Mục 2
Chương XIV, từ Điều 130 đến Điều 134). Một trong những nguyên tắc bảo vệ
môi trường được đưa ra trong Luật này là nguyên tắc người gây ô nhiễm, suy
thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại và chịu các
trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Đây chính là sự cụ thể hóa
nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả giá" (PPP) đã được cộng đồng quốc tế
thừa nhận. Thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc này không chỉ có tác dụng
trừng phạt người đã gây ô nhiễm môi trường mà còn có tác dụng răn đe các chủ
1
thể khác trong quá trình khai thác, sử dụng các thành tố của môi trường không
được gây tổn hại cho môi trường. Nói khác đi, các quy định về bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường ngày càng được xem là một công cụ quan trọng
trong hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường.
Quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường tại Điều 628 Bộ luật Dân sự năm 1995 đã tiếp tục được kế thừa và
phát triển tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2005. Theo quy định tại Điều 624
thì cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt
hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp người gây
ô nhiễm môi trường không có lỗi.
Các quy định của pháp luật nêu trên, bước đầu đã tạo cơ sở pháp lý
quan trọng để cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do ô nhiễm môi trường có thể yêu
cầu bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây ra nhằm bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, các quy định về bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường hiện vẫn còn dừng lại ở mức quy định
chung, mang tính nguyên tắc. Thực tiễn giải quyết các yêu cầu bồi thường
thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây nên trong thời gian qua tại
Việt Nam đã gặp không ít khó khăn do các quy định pháp luật chưa cụ thể, rõ
ràng, dẫn đến chưa có sự thống nhất về cách hiểu và áp dụng các quy định của
pháp luật hiện hành về vấn đề này. Tuy vậy, hiện tại lại chưa có nhiều công
trình nghiên cứu chuyên về vấn đề này để góp phần đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường.
Chính từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về
vấn đề lý luận cơ bản, cũng như đánh giá một cách toàn diện pháp luật hiện
hành về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường sẽ góp phần hoàn thiện
thêm một bước pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường,
góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu có một số chuyên đề nghiên cứu
và bài viết liên quan đến nội dung của đề tài như:
- "Trách nhiệm pháp lý dân sự trong lĩnh vực môi trường", Đề tài
nghiên cứu khoa học do Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
thực hiện, 2002;
- "Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam - Luật pháp và thực tiễn", của
TS. Nguyễn Hồng Thao;
- "Một số vấn đề về bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi
trường gây ra", Luận văn tốt nghiệp cử nhân Luật của Mai Thị Anh Thư,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2002;
- "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường tại Việt Nam", Luận án tiến sĩ Luật học của Vũ Thu Hạnh, 2004;
- "Bồi thường thiệt hại về môi trường", thuộc Chương trình hợp tác
Việt Nam - Thụy Điển về tăng cường năng lực quản lí nhà nước về đất đai và
môi trường;
- "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", của TS. Phùng
Trung Tập - Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật dân sự, Trường Đại học
Luật Hà Nội, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, 2004;
- "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường gây nên tại Việt Nam", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường của
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007;
- "Bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường", của TS. Vũ
Thu Hạnh, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý, số 3(40), 2007;
- "Lượng giá thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gây ra", Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ do Viện Chiến lược và Chính sách tài nguyên
môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện, 2008.
3
Ngoài ra, còn có một số bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả làm
công tác giảng dạy, nghiên cứu, xây dựng pháp luật về vấn đề này và một số
lĩnh vực liên quan cũng là những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả
lựa chọn tham khảo khi thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
a. Mục đích
- Luận giải cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn về bồi thường thiệt hại
do làm ô nhiễm môi trường;
- Phân tích những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành
về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường;
- Kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
b. Nhiệm vụ
- Góp phần xây dựng các khái niệm cơ bản về bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường;
- Đề xuất hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt
hại do làm ô nhiễm môi trường.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường gồm hai nội dung
chính: Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường từ hành vi vi phạm
pháp luật; và bồi thường thiệt hại về môi trường do sự cố môi trường gây nên.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên
4
cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật làm ô
nhiễm môi trường gây nên. Nghĩa là chỉ nghiên cứu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về môi trường đối với những các chủ thể có năng lực chủ thể khi
thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật môi trường, xâm hại các quan hệ xã
hội được pháp luật môi trường bảo vệ mà không nghiên cứu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về môi trường do tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình
hoạt động của con người.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như: Lôgic - pháp lý, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng
hợp và một số phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp khác.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm môi trường.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng; phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI
DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ MÔI TRƢỜNG VÀ BỒI THƢỜNG
THIỆT HẠI DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
1.1.1. Môi trƣờng
Môi trường thường được hiểu là không gian sống của con người và
các loài sinh vật, là nơi cung cấp tài nguyên, vật chất cần thiết cho cuộc sống
và hoạt động sản xuất của con người, là nơi chứa đựng các chất phế thải do
con người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất của mình. Môi trường
cũng là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người. Khái niệm "môi
trường" có thể được hiểu theo nhiều nghĩa.
Môi trường theo nghĩa rộng là tổng hòa tất cả các nhân tố tự nhiên và
xã hội cần thiết cho sự sinh sống, sản xuất của con người, như tài nguyên
thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, quan hệ xã hội... [31].
Theo nghĩa thông thường, môi trường được cho là "toàn bộ nói chung
những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay sinh vật tồn tại, phát
triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy" [32, tr. 618]. Môi trường
cũng có thể là "tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con
người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể
chế" [30].
Các khái niệm về môi trường như trên là khái niệm đã được mở rộng,
không thể hiện tính pháp lý và khó đánh giá, nghiên cứu trong thực tiễn. Trong
luận văn này, tác giả chỉ có ý định nghiên cứu môi trường trong phạm vi cụ
thể hơn, có ý nghĩa thực tiễn và mang tính pháp lý chặt chẽ nhất.
6
Môi trường sử dụng trong khoa học pháp lý là một khái niệm được
hiểu như là mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó môi trường được
cho là những yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất quan hệ mật thiết với nhau,
bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát
triển của con người và thiên nhiên. Môi trường có thể là "sự kết hợp toàn bộ
hoàn cảnh hoặc điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển
của một thực thể hữu cơ" [44, tr. 616].
Điều 1 Luật Bảo vệ môi trường của Liên bang Nga [46] đưa ra hai
khái niệm là "môi trường xung quanh" và "môi trường tự nhiên". Khái niệm
"Môi trường xung quanh" được định nghĩa là tổng hợp các thành phần của
môi trường tự nhiên, các vật chất tự nhiên, các vật chất bán tự nhiên và nhân
tạo". Còn "môi trường tự nhiên" là tổng hợp các thành phần của môi trường tự
nhiên, các vật chất tự nhiên, các vật chất bán tự nhiên".
Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm
2005 đưa ra khái niệm "môi trường" như sau: "Môi trường bao gồm các yếu
tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời
sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật" [20].
khái niệm pháp lý về môi trường nêu trên,
môi trường
gồm nhiều thành phần, bao gồm cả yếu tố tự nhiên như đất, nước, không khí,
âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác và
những yếu tố vật chất do con người tạo ra nhằm tác động tới các yếu tố tự
nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con người như: hệ thống đê điều, công
trình nghệ thuật… thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa con người và tự nhiên.
Khái niệm môi trường
ảo vệ môi trường năm
2005 mang tính khách quan, có nội dung đầy đủ, cụ thể và là cơ sở để chúng
ta nghiên cứu về các vấn đề môi trường liên quan trong phạm vi được nghiên
cứu cũng như các vấn đề khác trong hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.
7
Môi trường hiện đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ đối với Việt Nam
mà đối với nhiều quốc gia trên thế giới, dù đó là quốc gia đang phát triển hay
quốc gia đã phát triển. Trong những năm vừa qua, ở Việt Nam đã phát hiện
nhiều vụ việc tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật làm ô nhiễm môi
trường làm cho môi trường có những thay đổi bất lợi cho con người, đặc biệt là
những thay đổi đối với các yếu tố mang tính tự nhiên như nước, đất, không khí...
1.1.2. Ô nhiễm môi trƣờng
Trong quá trình sản xuất, sinh hoạt con người có những hoạt động tương
tác với môi trường và do cố ý hoặc bất cẩn có thể gây ra ô nhiễm môi trường
(như thải chất thải chưa qua xử lý ra môi trường, tràn dầu trên biển, nổ nhà
máy điện hạt nhân...) làm xuất hiện các chất hoặc yếu tố vật lý làm cho môi
trường bị biến đổi hoặc trong các chất thải do con người thải ra môi trường có
chứa chất tác động không tốt đến môi trường, làm cho chất lượng môi trường
xấu đi, gây hại cho con người.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa "ô nhiễm" là "nhiễm bẩn tới mức có thể
gây độc hại" [32, tr. 728].
Dưới góc độ sinh học, khái niệm "ô nhiễm môi trường" chỉ tình trạng
của môi trường trong đó những chỉ số hóa học, lý học của môi trường bị
thay đổi theo chiều hướng xấu đi có ảnh hưởng đến đời sống của con người
và sinh vật. Dưới góc độ kinh tế học, "ô nhiễm môi trường" là sự thay đổi
không có lợi cho môi trường sống về các tính chất vật lý, hóa học, sinh học,
mà qua đó có thể gây tác hại tức thời hoặc lâu dài đến sức khỏe con người và
sinh vật [28, tr. 59].
"Ô nhiễm môi trường" cũng được cho là hiện tượng thay đổi tính chất
của các thành phần môi trường (đất, nước, không khí…) theo hướng tiêu cực
và vi phạm các tiêu chuẩn môi trường do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành. Ví dụ: đất bị nhiễm kim loại nặng, nước bị nhiễm axit, không khí bị
nhiễm bụi,… vượt quá tiêu chuẩn chất lượng môi trường cho phép.
8
Dưới góc độ pháp lý, "ô nhiễm môi trường" được cho là "sự biến đổi
của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường,
gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật" [20, Điều 3]. Tiêu chuẩn môi
trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung
quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường.
Điểm chung nhất giữa các khái niệm về ô nhiễm môi trường nêu trên
là đều đề cập đến sự biến đổi của các thành phần môi trường (là các yếu tố tạo
thành môi trường như: không khí, nước, đất, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ
sinh thái...) theo chiều hướng xấu, vượt quá ngưỡng (tiêu chuẩn) được quy
định (tùy từng trường hợp sự vượt quá này có thể là thấp hơn hoặc cao hơn so
với các tiêu chuẩn quy định), gây ảnh hưởng bất lợi cho con người và sinh
vật. Sự biến đổi của các thành phần môi trường này có thể do biến đối bất
thường của tự nhiên hoặc do hoạt động của con người làm phát lộ hoặc phát
sinh chất gây ô nhiễm (là chất hoặc yếu tố vật lý khi xuất hiện trong môi
trường thì làm cho môi trường bị ô nhiễm), nhưng phần lớn, sự biến đổi của
các thành phần môi trường do hoạt động của con người gây ra.
Trên thế giới, "ô nhiễm môi trường" cũng được hiểu là sự biến đổi của
thành phần môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khỏe con người,
đến sự phát triển bình thường của sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng
môi trường.
Một số Công ước quốc tế tuy không đưa ra một khái niệm về "ô nhiễm
môi trường" nói chung nhưng cũng đưa ra định nghĩa về "ô nhiễm" đối với
từng thành phần môi trường cụ thể. Công ước về ô nhiễm không khí xuyên
quốc gia trên diện rộng năm 1979 định nghĩa ô nhiễm không khí bằng cách đề
cập đến các ảnh hưởng có hại đối với các nguồn sống, hệ sinh thái, sức khỏe
con người, tài sản vật chất, cũng như việc cản trở hưởng thụ hoặc sử dụng hợp
pháp về môi trường (Điều 1 (a)) [34].
9
Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982 định nghĩa "ô nhiễm
môi trường biển" là việc "con người đưa các chất hoặc năng lượng vào môi
trường biển, bao gồm cả các cửa sông, một cách trực tiếp hay gián tiếp gây ra
hoặc sẽ gây ra những ảnh hưởng không tốt gây tác hại tới các nguồn sống và
đời sống đại dương, gây nguy hiểm đối với sức khỏe con người, gây cản trở
đối với các hoạt động trên biển kể cả việc khai thác hải sản và các hoạt động
sử dụng biển hợp pháp khác, gây hạn chế chất lượng sử dụng nước biển và
làm suy giảm việc thưởng thức cảnh quan biển" [34].
Từ những phân tích trên có thể thấy "ô nhiễm môi trường" là hiện
tượng thay đổi của các thành phần môi trường (đất, nước, không khí…) theo
hướng tiêu cực, không phù hợp với các tiêu chuẩn môi trường được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quy định và gây ảnh hưởng xấu đối với con người và
sinh vật. Trong một số trường hợp "ô nhiễm môi trường" dẫn đến sự suy thoái
môi trường khi mà hậu quả của sự ô nhiễm dẫn đến sự thay đổi theo chiều
hướng xấu đi về chất lượng và số lượng của các thành phần môi trường gây ra
những thiệt hại cho con người.
1.1.3. Thiệt hại do ô nhiễm môi trƣờng
Ô nhiễm môi trường có thể dẫn đến những thiệt hại cho con người và tự
nhiên.Thiệt hại được hiểu là "bị tổn thất,, hư hao về người và của" [32, tr. 910].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội
thì thiệt hại là "tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản của cá
nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ" [27, tr. 118]. Bộ luật Dân sự Việt Nam
năm 2005 quy định tại Điều 307: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp
tổn thất về tinh thần." Như vậy, về mặt khoa học và luật thực định thì quan
điểm phổ biến hiện nay đều cho rằng thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về vật chất
và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về tinh thần bao gồm "tổn thất về danh dự,
uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân" và thiệt hại
10
về vật chất bao gồm "thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm, tài sản bị
mất, hủy hoại, bị hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt
hại và những hoa lợi, lợi tức đáng ra thu được nhưng lại không thu được".
Tóm lại, thiệt hại có thể hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu
của sự vật sau khi chịu sự tác động từ bên ngoài. Thiệt hại phải là những tổn
thất thực tế tính được thành tiền.
"Thiệt hại do ô nhiễm môi trường" có thể hiểu là sự mất mát về vật
chất phát sinh từ sự ô nhiễm môi trường. Pháp luật môi trường của hầu hết
các nước trên thế giới được nghiên cứu đều không đưa ra một định nghĩa cụ
thể nào về "thiệt hại do ô nhiễm môi trường". Hầu hết các nước thường chỉ
đưa ra hệ thống các tiêu chuẩn môi trường và lấy đó làm căn cứ xác định độ
suy giảm của các thành phần môi trường khi có hành vi gây ô nhiễm môi
trường. Tuy nhiên, một số Công ước quốc tế về môi trường lại đưa ra định
nghĩa về "thiệt hại". Công ước về trách nhiệm và bồi thường thiệt hại có liên
quan đến việc vận chuyển các chất nguy hiểm và độc hại bằng đường biển
năm 1996 định nghĩa "thiệt hại" là tổn thất hoặc thiệt hại do ảnh hưởng của
các chất nguy hiểm, độc hại gây ra đối với môi trường, với điều kiện việc đền
bù thiệt hại môi trường đó không phải là đền bù tổn thất về lợi nhuận do các
hành vi gây hại đó gây ra mà phải được tính là các chi phí để tiến hành các
biện pháp phục hồi hợp lý đã được thực hiện hoặc sẽ được thực hiện [34].
"Thiệt hại do ô nhiễm" được định nghĩa trong Công ước Bruxelles
năm 1969 về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại ô nhiễm dầu như là "tổn thất
hoặc thiệt hại bên ngoài tàu chở dầu xảy ra bởi ô nhiễm phát sinh từ việc thải
hoặc xả dầu, bất kể việc thải hoặc xả dầu như vậy có thể xảy ra ở đâu và bao
gồm các chi phí dùng cho các biện pháp ngăn chặn hoặc tổn thất hoặc thiệt
hại tiếp theo do các biện pháp ngăn chặn gây ra" [34].
Theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 của Việt Nam thì thiệt hại do
ô nhiễm, suy thoái môi trường bao gồm: "1. Suy giảm chức năng, tính hữu ích
11
của môi trường; 2. Thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường gây ra" [20, Điều 131].
Thiệt hại là sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường có
thể được hiểu là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của môi trường
sau khi chịu sự tác động từ bên ngoài, thiệt hại này phải tính được thành
tiền.Ví dụ, sự thay đổi môi trường của một khu vực cụ thể hoặc toàn bộ môi
trường mà sự thay đổi này có tác động xấu đến đặc tính của môi trường hoặc
đến khả năng hỗ trợ và duy trì ở mức có thể chấp nhận được đối với tính bền
vững của sự cân bằng sinh thái và/hoặc chất lượng sống của con người. Từ
thiệt hại là "suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường" có thể dẫn tới
những thiệt hại thực tế về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản hay lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là những thiệt hại bắt nguồn từ sự
biến đổi theo chiều hướng xấu đi của môi trường - sự suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường. Chức năng, tính hữu ích của môi trường là tổng
hợp những tính năng vốn có của môi trường mà những tính năng này có thể tạo
những điều kiện thuận lợi, có ích cho sự tồn tại phát triển của con người và sinh
vật. Sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường là sự biến đổi theo
chiều hướng xấu của môi trường mà những biến đổi này làm giảm đi những
tính năng vốn có của môi trường - những tính năng có thể tạo những điều kiện
thuận lợi, có ích cho sự tồn tại phát triển của con người và sinh vật. Đây là
những tính năng không thể thiếu cho sự tồn tại phát triển chung của cả cộng
đồng. Vì thế, khi nó bị giảm sút, nó sẽ tạo ra những ảnh hưởng bất lợi cho sự tồn
tại và phát triển chung của cả cộng đồng. Điều đó có nghĩa là đã có thiệt hại xảy
ra và đó là những thiệt hại mà cả cộng đồng phải gánh chịu. Khi thiệt hại này
xảy ra, người bị thiệt hại phải chịu tổn thất về vật chất, chi phí cho các biện pháp
phòng ngừa nhằm ngăn ngừa và hạn chế các thiệt hại; chi phí cho việc làm sạch
và khôi phục môi trường; bồi thường cho việc giảm giá trị của môi trường tức
là làm mất đi giá trị sử dụng vốn có của môi trường đối với cộng đồng.
12
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu
ích của môi trường gây ra là những tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tài sản và
các lợi ích hợp pháp khác mà người bị thiệt hại phải gánh chịu từ tình trạng ô
nhiễm môi trường, suy thoái môi trường. Đó là việc họ phải trả tiền khám
chữa bệnh để phục hồi sức khỏe. Bên cạnh đó, họ còn có thể bị mất hoặc bị
giảm những khoản thu nhập mà lẽ ra họ phải có được nếu như không có tình
trạng sức khỏe bị giảm sút. Là những thiệt hại về vật chất của người bị thiệt hại
như mất tài sản, bị giảm sút tài sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa,
thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài
sản mà nguyên nhân của những thiệt hại này là do chức năng, tính hữu ích của
môi trường bị suy giảm. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại
bao gồm chí phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
mất, bị giảm sút do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại; và những thiệt hại
mà người bị thiệt hại phải gánh chịu do việc không thể khai thác, sử dụng các
thành phần môi trường đã bị suy giảm chức năng, tính hữu ích khi họ là
những chủ thể được phép khai thác, sử dụng một cách hợp pháp các thành
phần môi trường đó để phục vụ cho các hoạt động của mình.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm "thiệt hại do ô nhiễm
môi trường" như sau: Thiệt hại do ô nhiễm môi trường là những tổn thất, hư
hao về người và của do ô nhiễm môi trường dẫn đến suy giảm về chức năng,
tính hữu ích của môi trường gây ra.
1.1.4. Bồi thƣờng thiệt hại do làm ô nhiễm môi trƣờng
Ô nhiễm môi trường nếu dẫn đến hậu quả là gây thiệt hại thì người có
hành vi gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo nghĩa
thông thường, bồi thường thiệt hại được hiểu là việc "đền bù những tổn thất
đã gây ra" [39, tr. 191].
13
Về mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát
sinh do gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền
bù những tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì
vậy bồi thường thiệt hại là "hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có
hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn
thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại" [27, tr. 31]. Với
quan niệm thiệt hại là sự không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật
sau khi chịu sự tác động bên ngoài, vì vậy bồi thường thiệt hại có thể hiểu là
trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu của sự vật, hiện tượng. Về mặt
pháp lý, thiệt hại là những tổn thất về tài sản, tổn thất về tính mạng, sức khỏe,
uy tín, danh dự, nhân phẩm; vì vậy, bồi thường thiệt hại là sự khôi phục lại những
tổn thất trên bằng những cách thức và tiêu chí, biện pháp do pháp luật đặt ra.
Từ cách hiểu về "bồi thường thiệt hại" như trên, có thể rút ra khái
niệm về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường như sau: Bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là một loại trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng, theo đó, chủ thể (tổ chức, cá nhân, chủ thể khác) thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật môi trường, gây ô nhiễm môi trường dẫn đến sự suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường; gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe
của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức do sự suy
giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường thì phải trả giá về hành vi của
mình qua việc khôi phục, đền bù, bù đắp những tổn thất và khắc phục những
hậu quả do hành vi vi phạm gây ra.
Cụ thể, những thiệt hại phải bồi thường có thể bao gồm các khoản
sau đây:
- Chi phí cho các biện pháp phòng ngừa: Là các chi phí cho việc sử
dụng các biện pháp nhằm ngăn ngừa và hạn chế các thiệt hại do ô nhiễm môi
trường gây ra;
- Chi phí cho việc làm sạch và khôi phục môi trường;
14
- Xem thêm -