Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biện pháp tạm giam nghiên cứu so sánh luật tố tụng hình sự liên bang nga và kinh...

Tài liệu Biện pháp tạm giam nghiên cứu so sánh luật tố tụng hình sự liên bang nga và kinh nghiệm cho việt nam

.PDF
72
1
52

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH LÊ THỊ HỒNG DIỄM BIỆN PHÁP TẠM GIAM: NGHIÊN CỨU SO SÁNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH BIỆN PHÁP TẠM GIAM: NGHIÊN CỨU SO SÁNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ LIÊN BANG NGA VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa Học viên: Lê Thị Hồng Diễm Lớp: Cao học Luật hình sự và Tố tụng hình sự khóa 30 Mã số học viên: 18300410073 Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Hồng Diễm DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật Hình sự BLTTHS: CQĐT: Bộ luật Tố tụng Hình sự Cơ quan điều tra RSFSR Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga TTHS: XHCN: Tố tụng hình sự Xã hội chủ nghĩa VKSND: Viện Kiểm sát Nhân dân VKSNDTC: Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao BPNCTG: CQTHTT NTHTT: Biện pháp ngăn chặn tạm giam Cơ quan tiến hành tố tụng Người tiến hành tố tụng MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, LIÊN BANG NGA VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM ............................................................................................................................. 16 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................................16 1.1.1. Khái niệm của biện pháp tạm giam ........................................................16 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp tạm giam .........................................................18 1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp tạm giam ............................................................21 1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp tạm giam trong tố tụng hình sự Liên bang Nga ........................................................................................23 1.2.1. Khái niệm của biện pháp tạm giam ........................................................23 1.2.2. Đặc điểm của biện pháp tạm giam .........................................................24 1.2.3. Ý nghĩa của biện pháp tạm giam ............................................................27 1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam .........................................................................29 CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM, LIÊN BANG NGA VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM......................................................................................................................................... 33 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Liên bang Nga về đối tượng và căn cứ áp dụng của biện pháp tạm giam ..........................................33 2.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đối tượng và căn cứ áp dụng của biện pháp tạm giam .....................................................................33 2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga về đối tượng và căn cứ áp dụng của biện pháp tạm giam ..........................................................35 2.1.3. Tương đồng, khác biệt trong quy định về đối tượng và căn cứ áp dụng của biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam ...................................39 2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Liên bang Nga về thời hạn áp dụng biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam ..........42 2.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thời hạn áp dụng của biện pháp tạm giam ...................................................................................42 2.2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga về thời hạn áp dụng của biện pháp tạm giam ..........................................................................45 2.2.3. Tương đồng, khác biệt trong quy định về thời hạn áp dụng của biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam ..................................................48 2.3 Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Liên bang Nga về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam ..............................................................................................................50 2.3.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về thẩm quyền và thủ tục áp dụng của biện pháp tạm giam ...............................................................50 2.3.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Liên bang Nga về thẩm quyền và thủ tục áp dụng của biện pháp tạm giam .........................................................53 2.3.3 Tương đồng, khác biệt trong quy định về thẩm quyền và thủ tục áp dụng của biện pháp tạm giam và kinh nghiệm cho Việt Nam ...................................55 KẾT LUẬN............................................................................................................................. 60 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài “Biện pháp tạm giam: nghiên cứu so sánh luật tố tụng hình sự Liên bang Nga và kinh nghiệm cho Việt Nam” xuất phát từ những lý do chủ yếu sau đây: Thứ nhất, bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp tạm giam là chủ trương lớn đã được chuyển hóa thành yêu cầu về chính sách hình sự. Cụ thể, về mặt chính trị, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện qua việc ban hành một số văn bản như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới nhằm đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp và Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đều nhấn mạnh việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của công dân. Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề hoàn thiện pháp luật TTHS và nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết vụ án hình sự yêu cầu: “Xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp tạm giam”. Như vậy, đây vừa là yêu cầu chiến lược lâu dài trong cải cách pháp luật hướng đến bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Đảng Cộng sản, vừa là yêu cầu cấp thiết trong giải quyết tình trạng áp dụng biện pháp tạm giam vốn gây ra nhiều oan, sai trong thời gian qua. Thứ hai, về thực trạng lập pháp đối với biện pháp tạm giam. Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 đã ghi nhận các quy định về quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế TTHS thì biện pháp tạm giam chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất. Áp dụng biện pháp tạm giam luôn dẫn đến việc hạn chế quyền tự do của cá nhân, hạn chế một số quyền cơ bản của công dân như quyền tự do đi lại, quyền bầu cử, ứng cử. Quá trình áp dụng biện pháp này không đúng, gây oan, sai sẽ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân cũng như các quyền, lợi ích hợp pháp của con người đã được pháp luật bảo hộ. Mặc dù không ngừng được hoàn thiện dần qua những lần pháp điển hóa, song thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS về biện pháp tạm giam trong thời gian qua cho thấy vẫn hàm chứa khả năng xâm phạm đến quyền lợi 2 của người bị cáo buộc phạm tội. Đề tài của luận văn này nhằm so sánh, đối chiếu, đánh giá thực trạng pháp luật TTHS của Liên bang Nga về biện pháp tạm giam với pháp luật hiện hành của Việt Nam, góp phần thực hiện chuyển hóa các kinh nghiệm pháp lý cũng như kinh nghiệm thực thi pháp luật TTHS về biện pháp tạm giam của Liên bang Nga cho Việt Nam, mang lại sự công bằng và nhân văn cho những người có khả năng bị áp dụng biện pháp này. Thứ ba, về thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Đó là việc tạm giam bị can, bị cáo một số trường hợp không đúng căn cứ; sử dụng biện pháp tạm giam như là một biện pháp nghiệp vụ điều tra; tình trạng tạm giam bị can, bị cáo “không thời hạn”. Những sai sót đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, dẫn đến việc hạn chế mục đích cần đạt được của TTHS nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng.1 Nghiên cứu này so sánh, đối chiếu giữa Việt Nam và Liên bang Nga để đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam kết hợp với trang bị nhận thức mới về vấn đề này của người hay cơ quan tiến hành tố tụng, kiến nghị một số giải pháp trên cơ sở chọn lọc kinh nghiệm từ Liên bang Nga nhằm khắc phục tình trạng tạm giam tùy tiện, bảo đảm quyền con người cho người bị cáo buộc phạm tội trong quá trình tạm giam. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Biện pháp tạm giam: nghiên cứu so sánh luật tố tụng hình sự Liên bang Nga và kinh nghiệm cho Việt Nam” nhằm giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Khảo sát tình hình nghiên cứu đề tài Biện pháp tam giam là một trong những biện pháp cơ bản và được áp dụng phổ biến nhất, đồng thời lại là biện pháp có sự tác động đến quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo. Do đó biện pháp này cũng nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước và nước ngoài. Các kết quả nghiên cứu được đăng tải đa dạng trên các dạng ấn phẩm nghiên cứu. Cụ thể như sau: Nhóm tài liệu nghiên cứu cơ bản về biện pháp tạm giam thông qua các ấn phẩm là giáo trình, sách chuyên khảo, đề tài khoa học 1 Những sai sót trong thủ tục tố tụng là một trong những nguyên nhân của các vụ án oan sai xảy ra trong thời gian vừa qua. Chẳng hạn như vụ án Nguyễn Thanh Chấn, Vụ án Hàn Đức Long. Xem thêm: Hội đồng Thẩm phán - Tòa án Nhân dân Tối cao (2013), Quyết định tái thẩm số 18/2013/HS-TT ngày 06-11-2013 về vụ án hình sự Nguyễn Thanh Chấn về tội “Giết người”, Hà Nội; Hội đồng thẩm phán - Tòa án Nhân dân tối cao (2014), Quyết định giám đốc thẩm số 20/2014/HS-GĐT ngày 22/11/2014 về vụ án hình sự Hàn Đức Long về các tội “Hiếp dâm”, “Giết người” và “Hiếp dâm trẻ em, Hà Nội; 2 3 Tiêu biểu và căn bản là Giáo trình Luật TTHS Việt Nam thể hiện quan điểm của giới luật học tại Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội về các biện pháp ngăn chặn, như sau: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế TTHS được quy định trong pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang, người có lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như nhằm bảo đảm cho việc thi hành án... Với mục đích như vậy, biện pháp ngăn chặn trong TTHS khác với biện pháp cưỡng chế khác và với hình phạt trong luật hình sự.2 Tương tự, tác giả Trần Quang Tiệp cho rằng các biện pháp cưỡng chế là cách thức mang tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục được pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi của người tham gia tố tụng buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm cho việc thực hành hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.3 Ở một cách tiếp cận khác, tác giả Nguyễn Trọng Phúc đi từ khái niệm, bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn cho rằng: Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế nhà nước mang tính chất phòng ngừa do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS áp dụng đối với người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị can, bị cáo khi có căn cứ cụ thể nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.4 Trong cách tiếp cận này, tác giả đã làm sâu sắc thêm những quyền tự do mà người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bị hạn chế bao gồm: tự do đi lại, bất khả xâm phạm về thân thể. Bàn về căn cứ và thẩm quyền áp dụng BPNCTG, từ khá sớm, tác giả Mai Bộ trong cuốn sách chuyên khảo “Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” lại đề cập đến căn cứ và thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn thông qua viện phân tích các quy định trong BLTTHS. Trong đó tác giả phân tích chi tiết các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn, luận giải và nêu ra các ý kiến xung quanh việc áp dụng biện pháp ngăn chặn.5 Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội (2019), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nguyễn Ngọc Chí - Lê Lan Chi (đồng chủ biên), Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội, tr. 245. 3 Trần Quang Tiệp (2005), Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 27. 4 Nguyễn Trọng Phúc (2015), Chế định các biện pháp ngăn chặn theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.45 5 Mai Bộ (1997), Các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. , tr.63 2 3 4 Đề tài khoa học “Những vấn đề lí luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật TTHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” do các tác giả Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản đồng chủ biên. Đề tài đã đặt ra góc nhìn bảo vệ quyền con người trong chính các quy định của pháp luật hình sự và TTHS, trong đó có các quy định về các biện pháp ngăn chặn. Các tác giả cho rằng đây là hoạt động cấp bách của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam, nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng pháp luật, tăng cường dân chủ và công bằng xã hội. Đề tài cũng đưa ra những kết luận về mối quan hệ giữa áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn trong TTHS với vấn đề bảo vệ quyền con người.6 Nên kết luận hẹp lại là mối quan hệ giữa biện pháp tạm giam với vấn đề bảo vệ quyền con người, và trích dẫn phần nội dung liên quan đó vào. Đề tài khoa học “Luật TTHS Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người” chủ trì bởi tác giả Nguyễn Ngọc Chí cũng đặt ra nền tảng nghiên cứu là quyền con người gắn với hoạt động TTHS. Tác giả khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa việc áp dụng, thay đổi huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn với hoạt động bảo đảm một cách tốt nhất các quyền cơ bản của con người. Tác giả cũng đưa ra phân tích mối quan hệ này bằng sự thể hiện của các quy định trong BLTTHS, tìm ra những lỗ hổng về mặt lập pháp, đề xuất các biện pháp khắc phục.7 Nhóm tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp tạm giam: bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành Tác giả Vũ Gia Lâm xây dựng khái niệm biện pháp tạm giam dựa trên tính chất nghiêm khắc và ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp này: “Biện pháp tạm giam được coi là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật và có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hình sự”.8 Khái niệm này của tác giả không có nhiều khác biệt với các quan điểm đã được phân tích ở trên, có chăng tác giả chỉ muốn nhấn mạnh hơn về mục đích, ý nghĩa của các biện pháp này. Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản (đồng chủ biên) (2006), Những vấn đề lí luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài khoa học cấp trường, Đại học Quốc gia, Hà Nội. 7 Nguyễn Ngọc Chí (2011), Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài khoa học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 8 Vũ Gia Lâm (2012), Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn, Tạp chí Luật học, Số 9, tr.27. 6 4 5 Bàn về căn cứ và thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam, tác giả Đỗ Văn Đương trong bài viết “Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng tạm giam” có chỉ ra rằng việc quy định các căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam cần tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt là xuất phát từ thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, kiến nghị xác định rõ hơn về căn cứ tạm giam theo hướng vừa căn cứ vào loại tội phạm, vào lỗi, chính sách hình sự và yêu cầu của việc ngăn chặn tội phạm, xử lý vụ án.9 Đây cũng có thể được coi là một trong những yêu cầu và định hướng cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện cũng như áp dụng biện pháp tạm giam. Một chủ đề được các tác giả quan tâm nữa là việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với người chưa thành niên. Bài viết “Về biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của tác giả Trịnh Tiến Việt đã phân tích các căn cứ đặc trưng của viên áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội, đồng thời đưa ra những khó khăn vướng mắc trên thực tế áp dụng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện BLTTHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng.10 Tác giả Mai Bộ trong bài viết “Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội” đã chỉ ra những vấn đề trong việc áp dụng các quy định của BLTTHS trên thực tế đối với các đối tượng này.11 Các công trình trên chủ yếu tập trung lý giải những điểm khác biệt khi quy định hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng người chưa thành niên và cũng phù hợp với các nguyên tắc xử lý được quy định tại luật nội dung. Theo một hướng nghiên cứu khác, một số tác giả chứng minh rằng, việc áp dụng biện pháp tạm giam có nguy cơ cao xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người nên trên thực tế đã có nhiều trường hợp bị can, bị cáo bị tạm giam quá thời hạn hoặc bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm trong thời hạn tạm giam nhưng chưa được bồi thường. Các bài viết “Một số bất cập trong quy định của BLTTHS về thời hạn điều tra và tạm giam để điều tra” và “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác Đỗ Văn Đương (2012), Căn cứ tạm giam, hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng tạm giam, Tạp chí Kiểm sát, Số 19. 10 Trịnh Tiến Việt (2005), “Về biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí Toà án nhân dân, Số 6. 11 Mai Bộ (2006), “Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội”, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 5. tr.16 9 5 6 giả Hoàng Thị Minh Sơn12 tập trung phân tích các bất cập trong quy định của BLTTHS, vấn đề bảo đảm quyền hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam trong TTHS và đề xuất hướng khắc phục. Bài viết “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam” của tác giả Trần Văn Độ. Tác giả tập trung đi sâu vào phân tích biện pháp tạm được quy định trong TTHS, đặc biệt là những điểm còn bộc lộ nhiều vấn đề trong việc áp dụng trên thực tế. Tác giả cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện vấn đề trên như sau: Thứ nhất, cần quy định cụ thể, chặt chẽ căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, và biện pháp tạm giam nói riêng, phân biệt rõ ràng giữa mục đích và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp tạm giam; Thứ hai, không sử dụng kết quả phân loại tội phạm như cơ sở độc lập để xây dựng căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam. Cần coi khả năng bị can, bị cáo có thể cản trở, gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc có thể thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định biện pháp tạm giam. Trường hợp cần thiết thì có thể căn cứ vào chế tài của quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm để áp dụng; Thứ ba, bổ sung thêm một trong những căn căn cứ tạm giam là khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do không có kết quả nhằm khuyến khích các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp này; tạm giam cần được áp dụng như là biện pháp bất đắc dĩ cuối cùng trong TTHS; Thứ tư, sửa đổi các Điều 177, 228, 243, 250, 287 theo hướng dẫn chiếu căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn về Điều 88 và điều 303 BLTTHS hiện hành; Thứ năm, cần nghiên cứu về việc hạn chế tạm giam đối với một số loại tội phạm. Thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ở nước ta những năm qua cho thấy, do BLTTHS hiện hành không quy định đối với những loại (nhóm) tội phạm nào thì có thể hạn chế việc tạm giam, nên việc xem xét, quyết định tạm giam chỉ căn cứ vào quy định của Điều 79, Điều 88 BLTTHS (và Điều 303 nếu bị can, bị cáo là người chưa thành niên) chứ không căn cứ vào loại tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Thứ sáu, cần có quy định rõ ràng hơn về việc xem xét hồ sơ, tài liệu là chứng cứ chứng minh về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam.13 Hoàng Thị Minh Sơn (2010), “Một số bất cập trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thời hạn điều tra và tạm giam để điều tra”, Tạp chí Luật học, Số 11. tr.12 Hoàng Thị Minh Sơn (2011), “Bảo đảm quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 3. tr.18 13 Trần Văn Độ (2012), “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam”, Tạp chí Kiểm sát, Số 21. tr.43 12 6 7 Bên cạnh những nghiên cứu mang tính chất thuần tuý về biện pháp tạm giam, một trong những vấn đề được các tác giả quan tâm đặt ra nữa là bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Bài viết “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận cơ bản” của tác giả Lê Văn Cảm. Tác giả đã tổng hợp các vấn đề lý luận cơ bản trong việc xây dựng cơ chế bảo đảm quyền con người trong các quy định của pháp luật TTHS. Bài viết gợi mở những hướng tiếp cận mang tính chất nền tảng trong việc lựa chọn các tiêu chí đáp ứng yêu cầu bảo đảm quyền con người để hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS.14 Bài viết “Hiến pháp 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự” của tác giả Đào Trí Úc phân tích cơ sở lý luận, nội dung, các quan điểm khác nhau về bảo đảm quyền con người trong TTHS mà theo tác giả thì đó là trục xoay của toàn bộ các hoạt động TTHS. Yếu tố “công bằng”, “công minh” vì thế là biểu tượng chung, bao trùm của một nền tư pháp, là bản tính của nền tư pháp. Theo đó, công bằng được hiểu trên hai bình diện. Ở bình diện thứ nhất, đó là yêu cầu về sự công bằng của các thủ tục tố tụng, của việc tiến hành các thủ tục tố tụng. Ở bình diện thứ hai, đó là yêu cầu về sự đối xử công bằng, có vị trí pháp lý, có các cơ hội pháp lý công bằng giữa các bên trong tố tụng.15 Tương tự, tác giả Nguyễn Ngọc Chí trong bài viết “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS” đã phân tích một trong những hoạt động bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS bằng các quy định về các biện pháp ngăn chặn. Tác giả khẳng định bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự là phương thức phổ biến ở các quốc gia hiện nay. Do vậy, cần phải nhanh chóng nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về TTHS để bảo đảm tốt hơn các quyền con người.16 Nhóm tài liệu nghiên cứu thông qua luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ Tác giả Nguyễn Văn Điệp trong luận án tiến sĩ đã kế thừa một số quan điểm trước đó về biện pháp ngăn chặn đồng thời củng cố, bổ sung để đưa ra khái niệm về biện pháp ngăn chặn “là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn Lê Văn Cảm (2010), “Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam: Những vấn đề lý luận cơ bản”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 7. tr. 15 Đào Trí Úc (2015), “Hiến pháp 2013 và nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học pháp lý (Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh), Số 3. tr.23 16 Nguyễn Ngọc Chí (2007), “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội - Chuyên san Luật học, Số 2 (Tập 23), tr.23. 14 7 8 chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm”.17 Một số các tác giả khác như Nguyễn Thị Thu Hoài, Bùi Long Hưng cũng tiếp cận nghiên cứu các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên trong TTHS Việt Nam, trong đó có nghiên cứu về biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, trong các công trình này có một số tác giả này giới hạn địa bàn nghiên cứu chỉ trên một tỉnh thành như Hà Nam, Hải Dương nên kết quả nghiên cứu dừng lại ở tính ứng dụng vào thực tiễn tại các địa phương đó.18 Nhóm tài liệu nghiên cứu về biện pháp tạm giam của Liên Bang Nga Bên cạnh những công trình nghiên cứu biện pháp ngăn chặn tạm giam trong cùng một hệ thống với các biện pháp ngăn chặn khác, các công trình tập trung làm rõ bản chất, mục đích và căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam theo quan điểm truyền thống cũng thể hiện sự phân hóa. Tại những quốc gia như Nga và Ukraine, các tác giả có xu hướng cho rằng việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cần căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Chẳng hạn như tác giả Victor V. Filippov cho rằng: “biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo nếu hành vi phạm tội mà họ thực hiện có mức hình phạt tước tự do có thời hạn từ một năm trở lên. Trong một số trường hợp ngoại lệ, biện pháp tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà hành vi phạm tội do họ thực hiện có mức hình phạt tước tự do dưới một năm”.19 Quan điểm này được củng cố trong một số báo cáo của các tổ chức phi chính phủ khi nghiên cứu vấn đề tội phạm và hình phạt tại một số quốc gia cũng chỉ ra rằng: “căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện thông qua mức hình phạt tước tự do có thể được áp dụng đối với tội phạm đó hiện đang được nhiều quốc gia áp dụng như một căn cứ quan trọng nhất”.20 Nguyễn Văn Điệp (2005), Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Luận án tiến sĩ Luật học (Trường Đại học Luật Hà Nội), Hà Nội, tr.10. 18 Nguyễn Thị Thu Hoài (2015), Các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sỹ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 19 Filippov, V.V(2003), The New Russian Code of Criminal Procedure: The Next Step on the Path of Russia's Democratization, Demonkratizatsiya, No. 11, tr. 398. 20 International Helsinki Federation for Human Rights (2013), Russian NGO Shadow Report on the Observance of the Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment by the Russian Federation for the period from 2006 to 2012, Wien, p.3. 17 8 9 Ngược lại, thận trọng hơn, dù thừa nhận mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là một yếu tố quan trọng để áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, nhưng không đủ. Nhóm các tác giả Rusudan Mchedlishvili, Anna Tvaradze, Sopo Verdzeuli, Giorgi Turazashvilli, Nino Elbakidze đã nêu ra quan điểm như sau: “Biện pháp ngăn chặn tạm giam là một trong những loại biện pháp ngăn chặn và chỉ được áp dụng khi đã cân nhắc đến các lợi ích liên quan đến quyền tự do của con người”21. Khẳng định này là cách gián tiếp để các tác giả chỉ ra rằng biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp có tác động lớn đến quyền tự do của con người, do đó chỉ được áp dụng khi đã cân nhắc nhiều yếu tố. Từ lý luận nền tảng trên, các tác giả đưa ra bốn (04) căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam bao gồm: (i) Có đe dọa cho rằng người phạm tội sẽ bỏ trốn; (ii) Có đe dọa cho rằng người phạm tội sẽ không xuất hiện trước tòa; (iii) Có đe dọa cho rằng chứng cứ của vụ án sẽ bị hủy hoại; (iv) Ngăn chặn một tội phạm mới sẽ được thực hiện. Các tác giả cũng nhấn mạnh “việc áp dụng các căn cứ trên phải dựa trên các tình tiết được đánh giá khách quan và những thông tin xác thực cao nhất”.22 Bàn về vấn đề thủ tục TTHS nói chung và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế nói riêng, trong đó có việc áp dụng biện pháp tạm giam, có nhiều công trình nghiên cứu khẳng định rằng cần cân nhắc mục đích của biện pháp ngăn chặn tạm giam. Trong khi coi biện pháp ngăn chặn tạm giam là biện pháp bảo vệ trật tự xã hội và quyền con người nói chung, lại vô tình xâm phạm đến quyền của những người, mà theo nguyên tắc suy đoán vô tội chưa bị coi là tội phạm. Các nội dung này được thể hiện qua các công trình nghiên cứu “Các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự” do I.L.Trunov và L.K.Trunova thuộc Trung tâm pháp luật hợp tác về lý thuyết và thực tiễn của luật hình sự và TTHS Nga thực hiện năm 2003. Trong đó, khi quan niệm về bản chất và sự ảnh hưởng của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong đó chủ yếu là biện pháp tạm giữ và biện pháp tạm giam, tác giả I.L.Trunov và L.K.Trunova khẳng định: việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này hạn chế đáng kể các quyền hiến pháp quy định của người bị buộc tội (nghi phạm) đối với tự do, quyền bất khả xâm phạm cá nhân và các quyền và tự do khác. Quyền tự do và quyền bất khả xâm phạm và quyền tự quyết cá nhân của mỗi người được đảm bảo bởi một hệ thống bảo đảm về thủ tục tố tụng pháp lý và hình sự. Vì vậy căn cứ để lựa chọn biện pháp 21 Rusudan Mchedlishvili, Anna Tvaradze, Sopo Verdzeuli, Giorgi Turazashvilli, Nino Elbakidze (2010), Application of Preventive measures in Criminal Proceedings: Legislation and Practice, Civic Intiative for an Indepentdent Judicary project, p.4. 22 Rusudan Mchedlishvili, Anna Tvaradze, Sopo Verdzeuli, Giorgi Turazashvilli, Nino Elbakidze (2010), Tlđd, p.4, 5. 9 10 cưỡng chế cần phải được kiểm tra cẩn thận trong phiên tòa, tính đến danh tính, nghề nghiệp, nơi thường trú, tuổi tác, tình trạng sức khỏe, tình trạng hôn nhân, người phụ thuộc, trẻ vị thành niên và hoàn cảnh liên quan khác. Trong quyết định về việc hối thúc yêu cầu lựa chọn biện pháp cưỡng chế giam giữ phải ghi rõ căn cứ và động cơ cần phải giam giữ nghi phạm hoặc người bị buộc tội, cũng như vạch ra các tình huống qua đó cho thấy không thể lựa chọn một biện pháp khác nhẹ hơn. Trong luật TTHS Liên Bang Nga, khi quy định về mục đích, điều kiện để áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến giữ, giam người bị buộc tội, thì luôn chú ý đến vấn đề ban hành các quy định này cũng như cả việc thi hành các quy định đó trên thực tế phải luôn thực sự chú ý đến yếu tố bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội. Chẳng hạn, trong “Giáo trình Tố tụng hình sự” của Đại học tổng hợp quốc gia Mát-xcơ-va, quan niệm việc “giam giữ (bắt giữ) bị can hoặc nghi phạm là thực thi hơn cả, so với tất cả các biện pháp cưỡng chế khác, hạn chế quyền hiến định và tự do của con người mà cho đến thời điểm bị buộc tội khi giả định về sự vô tội vẫn được coi là vô tội. Vì vậy, để áp dụng biện pháp này cần bảo đảm đáng tin cậy đặc biệt chống lại các sai sót có thể có và sự lạm dụng”. Chính vì thế, nỗ lực của các nhà lập pháp Nga trong việc nhằm hạn chế các quyền lợi của bị can, bị cáo khi bị áp dụng các biện pháp này là cùng với việc thi hành luật pháp TTHS hiện hành, theo Hiến pháp Liên bang Nga việc bắt giữ, tạm giam và giam giữ chỉ được phép thực hiện theo quyết định của tòa án. Bên cạnh đó, vấn đề bảo đảm các quyền lợi, nghĩa vụ khác của bị can, bị cáo khi bị áp dụng các biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam cũng được quan tâm, điều này thể hiện qua quy định tại Điều 98 BLTTHS: các cơ quan mà trong quá giải quyết vụ án hình sự và ra bản án có hiệu lực pháp luật, chịu trách nhiệm áp dụng các biện pháp nuôi dưỡng trẻ em và việc bảo vệ tài sản của người bị bắt giam, cũng như thông báo về việc này cho người kế nhiệm. 2.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu Những kết quả nghiên cứu mà đề tài luận văn kế thừa Các công trình nghiên cứu sâu về biện pháp tạm giam chủ yếu tập trung vào việc giới thiệu các nội dung liên quan đến biện pháp tạm giam trong các mô hình tố tụng khác nhau hoặc là những quy định chung của các quốc gia về biện pháp tạm giam ở quốc gia được nghiên cứu. Do đó, các tài liệu này chủ yếu có ý nghĩa tham khảo, so sánh, đối chiếu và phân tích trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu, đánh giá quy định của pháp luật TTHS Việt Nam. Từ những phân tích về tình hình nghiên cứu nói trên, luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu mang tính nền tảng sau đây: 10 11 Thứ nhất, luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu về tính chất nghiêm khắc của những biện pháp ngăn chặn cũng như biện pháp tạm giam thể hiện qua sự chặt chẽ của căn cứ áp dụng và thẩm quyền, trình tự thủ tục áp dụng. Các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn không những cần phải được quy định cụ thể trong pháp luật hình sự mà còn phải được thể hiện, chứng minh bằng các chứng cứ, tài liệu cụ thể chứ không chỉ dựa vào nhận thức pháp luật và ý chí chủ quan của người áp dụng. Điều này còn cần phải nhấn mạnh hơn đối với biện pháp tạm giam, là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất và có tác động sâu sắc nhất đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Đối với thẩm quyền áp dụng, các biện pháp này chỉ thuộc về các cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước và phải bảo đảm thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Thứ hai, luận văn kế thừa các nghiên cứu về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp xem xét đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị can, bị cáo thực hiện. Đồng thời cũng kế thừa những đối tượng đặc biệt khi áp dụng căn cứ tạm giam như: người già yếu, phụ nữ mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, người chưa thành niên. Đây được coi là những đối tượng ngoại lệ và phải cân nhắc khi áp dụng biện pháp tạm giam. Thứ ba, luận văn kế thừa các nghiên cứu về bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp tạm giam như: chế độ tạm giam, thời hạn tạm giam, vấn đề bồi thường thiệt hại với các quyết định tạm giam vi phạm pháp luật. Những nghiên cứu này là tiền đề để hoàn thiện lý luận và giải pháp, kiến nghị trong luận văn. Những vấn đề chưa được nghiên cứu từ góc độ so sánh luật, đặc biệt là ở góc độ so sánh với luật TTHS Liên Bang Nga cần được nghiên cứu mới để hoàn thiện luật TTHS Việt Nam Hiện các công trình nghiên cứu từ góc độ so sánh luật giữa pháp luật TTHS Việt Nam với TTHS Liên Bang Nga là rất hạn chế. Điều này tạo ra khoảng trống ở một số phương diện pháp lý cần được bổ sung, bởi sự tương đồng nhất định giữa hai hệ thống pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực TTHS, mà Việt Nam đã kế thừa từ thời Liên Xô. Bên cạnh những vấn đề mà luận văn kế thừa được từ các kết quả nghiên cứu của các tác giả trước đó, luận văn tiếp tục nghiên cứu làm rõ các vấn đề có liên quan như sau: Thứ nhất, Luận văn tiếp tục khái quát các căn cứ chung áp dụng đối với biện pháp tạm giam, thông qua nghiên cứu so sánh, phân tích đồng thời tìm ra các căn cứ riêng đối với các đối tượng đặc biệt; 11 12 Thứ hai, Luận văn tiết tục xác định được thẩm quyền áp dụng các biện pháp tạm giam, vừa bảo đảm được nguyên tắc pháp chế, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Riêng đối với biện pháp tạm giam, luận văn sẽ làm rõ nét thêm các vấn đề về giới hạn, phạm vi của thẩm quyền áp dụng biện pháp này; Thứ ba, Luận văn tiếp tục làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa việc áp dụng biện pháp tạm giam với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra các định hướng, yêu cầu để xây dựng và áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giam trên góc độ bảo vệ quyền con người; Thứ tư, Luận văn sẽ đưa ra những so sánh nhất định về quy định của pháp luật Liên Bang Nga về biện pháp tạm giam, tìm ra và luận giải những điểm tương đồng, những điểm khác biệt; đồng thời có sự trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS cũng như nâng cao hiệu quả của biện pháp này; Thứ năm, Luận văn tiếp tục tổng kết thực trạng áp dụng trên thực tế biện pháp tạm giam trong những năm trở lại đây. Qua đó, tìm ra những vướng mắc, bất cập trên thực tế và nguyên nhân của chúng để đưa ra các giải pháp, kiến nghị phù hợp với từng nguyên nhân. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là qua việc nghiên cứu so sánh kinh nghiệm lập pháp về biện pháp tạm giam trong luật TTHS Liên Bang Nga và Việt Nam từ đó rút ra một số kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Một là, làm rõ một số vấn đề về cơ sở nghiên cứu so sánh và phương pháp nghiên cứu so sánh về biện pháp tạm giam trong luật TTHS Liên Bang Nga và Việt Nam. Hai là, nghiên cứu so sánh quy định về biện pháp tạm giam trong pháp luật TTHS Liên Bang Nga và trong pháp luật Việt Nam để rút ra những giá trị tham khảo về hoạt động lập pháp. Ba là, những kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam trên cơ sở kết quả nghiên cứu so sánh với luật TTHS Liên Bang Nga. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là biện pháp tạm giam trong BLTTHS Việt Nam năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung ngày 20 tháng 6 năm 2017 (Gọi tắt là 12 13 BLTTHS Việt Nam), so sánh với biện pháp tạm giam trong BLTTHS Liên bang Nga năm 2001 sửa đổi lần cuối bởi Luật số N33-P ngày 18 tháng 7 năm 2022 (Gọi tắt là BLTTHS Liên bang Nga) , bao gồm các vấn đề: đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam, thẩm quyền và thủ tục áp dụng, thời hạn tạm giam và hình thức tạm giam được quy định trong luật TTHS Việt Nam, có so sánh với Liên Bang Nga. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Luận văn nghiên cứu một số vấn đề pháp lý về biện pháp tạm giam có ý nghĩa so sánh với pháp luật TTHS Liên Bang Nga nhằm hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam. Như vậy, không phải tất cả các vấn đề biện pháp tạm giam cũng đều được nghiên cứu nếu không có nhiều ý nghĩa với kinh nghiệm lập pháp. Về không gian và thời gian: Biện pháp tạm giam được nghiên cứu so sánh theo Bộ luật TTHS năm 2015 và Bộ luật TTHS Liên Bang Nga hiện hành. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lý thuyết luật học: Đây là phương pháp trọng tâm của các nghiên cứu ngành luật. Phương pháp này dùng để phân tích các quy phạm thể hiện trong các đạo luật và văn bản dưới luật. Phương pháp so sánh: Đây cũng là phương pháp nghiên cứu chủ đạo được sử dụng trong luận văn để tìm hiểu sự tương đồng và khác biệt về biện pháp tạm giam trong luật TTHS Liên bang Nga và trong luật TTHS Việt Nam. Từ năm 1986 đến nay, những yêu cầu của quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có thể chủ động hội nhập với kinh tế thế giới. Nhờ đó, luật so sánh đã được phát triển mạnh hơn so với các giai đoạn trước trên cả hai phương diện là so sánh lập pháp và so sánh học thuật. Ở phương diện so sánh lập pháp, các nhà làm luật trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật đã tìm hiểu và tham khảo kinh nghiệm pháp luật của các nước khác nhau, đặc biệt là những nước có những hoàn cảnh tương đồng mà quá trình cải cách pháp luật đã đạt được những thành tựu. Trong quá trình soạn thảo các văn bản này, các nhà làm luật đã tìm hiểu, phân tích, đánh giá khả năng tiếp nhận các quy định pháp luật nước ngoài để đề xuất các phương án có thể được sử dụng phù hợp với điều 13 14 kiện hoàn cảnh của Việt Nam. Tuy nhiên, “hướng nghiên cứu so sánh lập pháp của giới pháp lý Việt Nam chưa thực sự rõ rệt, sâu sắc và có bài bản”.23 Ở phương diện luật so sánh học thuật, các nhà luật học Việt Nam trong giai đoạn này đã bắt đầu quan tâm đến các nghiên cứu so sánh học thuật. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các nhà luật học Việt Nam chủ yếu là giới thiệu các dòng họ pháp luật trên thế giới hoặc giới thiệu những vấn đề cụ thể của các hệ thống pháp luật nước ngoài. Các công trình nghiên cứu so sánh luật trên cơ sở những nguyên tắc và lí thuyết của luật so sánh chưa nhiều. Đặc biệt, các nghiên cứu lí thuyết về luật so sánh còn rất khiêm tốn. Tuy nhiên, để bảo đảm cho việc so sánh và phân tích những điểm tương đồng được tiến hành một cách có hệ thống, việc xác định những điểm tương đồng và khác biệt đó cần phải được thực hiện dựa trên, những tiêu chí nhất định. Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên trong bước này là xác định được hệ thống các tiêu chí cho việc so sánh. Xây dựng hệ thống tiêu chí so sánh cũng không phải là vấn đề đơn giản bởi vì, như đã phân tích ở trên, các hệ thống pháp luật khác nhau có thể có cách giải quyết vấn đề khác nhau, hệ thống khái niệm khác nhau… Do đó, hệ thống này phải linh hoạt có các khái niệm đủ rộng để bao quát được tất cả các chế định pháp luật khác nhau mà về mặt chức năng, chúng có thể so sánh được. Điều đó có nghĩa là không được sử dụng các khái niệm không đồng nhất giữa các hệ thống pháp luật cũng như các khái niệm riêng biệt, đặc thù một hệ thống pháp luật nào đó làm tiêu chí cho việc so sánh. Mặt khác, do một số hệ thống pháp luật có thể không sử dụng giải pháp bằng pháp luật để giải quyết vấn đề đã được xác định, vì vậy, hệ thống các tiêu chí phải bao gồm cả những tiêu chí gắn với giải pháp có tính chất pháp lý và những tiêu chí gắn với giải pháp mang tính xã hội. Với cách tiếp cận như thế, các học giả đã đi đến nhận định rằng các chế định trong các hệ thống pháp luật khác nhau có chức năng tương đương với nhau khi chúng có cùng vai trò trong các xã hội đó, cùng được sử dụng để giải quyết vấn đề tương tự ở các xã hội đó hoặc cùng điều chỉnh loại quan hệ ở các xã hội đó… Những chế định này có thể so sánh được với nhau vì chúng có “mẫu số so sánh chung” - đó chính là chức năng của chúng. Với cách đặt vấn đề như vậy, tác giả sử dụng phương pháp so sánh được thực hiện ở từng chương như sau: Chương 1: Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh những vấn đề lý luận chung về biện pháp tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Liên bang 23 http://giaotrinhluatsosanh.blogspot.com/2015/07/su-thay-oi-cua-lap-phap-viet-nam-sau.html 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan