Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo luật hôn nhân và...

Tài liệu Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000

.DOCX
100
282
84

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ GIANG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ GIANG BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan HÀ NỘI - 2013 2 T r a n g p h ụ bì a MỤC LỤC Lời cam đoan Trang Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ 7 LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN 1.1. Ly hôn và hậu quả pháp lý của ly hôn đối với con 7 1.1.1. Khái niệm ly hôn 71.1.2. Hậu quả pháp lý và xã hội của việc cha mẹ ly hôn đối với con 8 1.2. Khái niệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha 12 mẹ ly hôn 1.2.1. Khái niệm 12 13 1.2.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn 1.2.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn 1.3. Cơ sở pháp lý và đặc điểm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp 18 pháp của con khi cha mẹ ly hôn 16 1.3.1. Cơ sở pháp lý của 18 việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp 20 pháp của con khi cha mẹ ly hôn 1.3.2. Đặc điểm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn 3 Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ BẢO VỆ QUYỀN, LỢI 26 ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 2.1. Các nguyên tắc chung bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của 26 con khi cha mẹ ly hôn 2.1.1. Giao con cho 26 bên nào trực tiếp nuôi 33 dưỡng, giáo dục là vì quyền và lợi ích hợp pháp về mọi mặt của con 2.1.2. Bảo đảm các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ cha mẹ và con được thực hiện giữa con với người không trực tiếp nuôi con sau khi cha mẹ ly hôn 2.2. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn 34 2.2.1. Quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con 35 2.2.2. Quyền thăm nom con 36 2.2.3. Quyền đại diện cho con 39 2.2.4. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra 40 2.2.5. Quyền đối với tài sản riêng của con 42 2.2.6. Quyền để lại di sản thừa kế cho con 43 2.3. 43 Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con sau khi ly hôn 2.3.1. Mức cấp dưỡng nuôi con 45 2.3.2. Phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng 49 2.3.3. Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 52 2.4. 55 Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con 2.4.1. Chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi 55 dưỡng, giáo dục con 2.4.2. Điều kiện để Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con 4 55 2.4.3. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ sau khi thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con 57 2.5. 58 Hạn chế quyền của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn 2.5.1. Căn cứ hạn chế quyền của cha mẹ đối với con 58 2.5.2. Hậu quả pháp lý của việc cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con 61 Chương 3: 62 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn trong 62 hoạt động xét xử của Tòa án 3.2. Những bất cập và một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật 69 hôn nhân và gia đình về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn 3.2.1. Về các quy định pháp luật 69 3.2.2. Về công tác áp dụng pháp luật vào xét xử 82 3.2.3. Về việc thi hành án của đương sự 83 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90 5 bảng 3.1 3.2 33 Số hiệu D A N H BẢNG M Ụ C C Á C Tên bảng Trang Tổng số vụ án ly hôn được giải quyết từ năm 2006 đến 2010 62 Tổng số án ly hôn có tranh chấp về cấp dưỡng 62 Tổng số án ly hôn có tranh chấp về quyền nuôi con 62 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ly hôn là một hiện tượng đặc biệt của xã hội, chịu sự tác động trực tiếp từ xã hội. Biến đổi xã hội làm cho đời sống gia đình có xu hướng mở rộng phạm vi và cả mức độ mâu thuẫn trong các lĩnh vực của đời sống hôn nhân và gia đình. Xã hội càng phát triển, ly hôn diễn ra càng phổ biến và được xã hội quan tâm vì những hậu quả nặng nề, không mong muốn của nó. Khi cuộc sống vợ chồng rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì ly hôn là lối thoát cho cuộc sống bế tắc, không còn tình cảm của hai vợ chồng. Nhưng hậu quả pháp lý và xã hội mà nó để lại ảnh hưởng nghiêm trọng đến một đối tượng vốn là niềm hạnh phúc của hai vợ chồng - đó là những đứa con. Những đứa trẻ chưa thành niên còn ngây thơ vốn rất cần sự yêu thương, chăm sóc của cả cha và mẹ trong một gia đình êm ấm phải chịu cảnh gia đình tan nát, nếu không được bảo vệ sẽ rất dễ đánh mất cả tuổi thơ và tương lai. Đối với những người con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình sẽ sống thế nào nếu không được sự quan tâm, nuôi dưỡng của cả cha và mẹ. Vì vậy, là những mầm non tương lai của đất nước, những đứa con cần phải được bảo vệ khi cha mẹ ly hôn. Pháp luật với vai trò không thể thiếu là bảo vệ những đứa trẻ vô tội luôn quy định về hậu quả pháp lý của ly hôn, đặc biệt là quy định những quy phạm điều chỉnh về trách nhiệm của cha, mẹ đối với con sau khi ly hôn. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ra đời đã góp phần tích cực và quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn với những nội dung cơ bản như quy định về nguyên tắc giao con cho ai nuôi là vì quyền và lợi ích hợp pháp mọi mặt của con; quy định về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn, quy định về việc thay đổi 7 người trực tiếp nuôi con khi quyền và lợi ích hợp pháp mọi mặt của con không được đảm bảo Tuy nhiên, có thể thấy một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề này còn có những bất cập, khó áp dụng vào thực tiễn và điều này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến đối tượng mà pháp luật đang bảo vệ. Chính vì vậy, những giải pháp thích hợp để hạn chế những bất cập của pháp luật, đảm bảo việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hôn một cách hiệu quả trong các vụ việc ly hôn là một vấn đề thực tế rất cần được quan tâm và giải quyết. Vì vậy tôi đã chọn đề tài "Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong khoa học pháp lý nói chung và Luật Hôn nhân và gia đình nói riêng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn được nghiên cứu như một chuyên đề về đảm bảo quyền của trẻ em. Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều cấp khác nhau đề cập trực tiếp hoặc có liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn như sau: - Nhóm luận văn, luận án Ở nhóm này có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của cha, mẹ và con trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Lê Thu Lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2008; "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em khi ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Khóa luận tốt nghiệp, của Nguyễn Thị Phương Thảo, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007; "Bảo vệ quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn", Khóa luận tốt nghiệp, của Hồ Thị Nga, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007; "Nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ và các con khi vợ chồng ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Thu Trang, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2012 8 - Nhóm giáo trình, sách bình luận chuyên sâu Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tập I, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; Tưởng Duy Lượng, Bình luận một số án dân sự và hôn nhân và gia đình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; Đinh Thị Mai Phương, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006 Ngoài ra còn một số giáo trình và bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình. - Nhóm các bài báo, tạp chí chuyên ngành Luật Các bài báo, tạp chí viết về vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn chủ yếu mới đề cập đến một hoặc một số khía cạnh của bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn như cấp dưỡng, nuôi con Như vậy, cho đến nay, dù có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn nhưng mỗi công trình nghiên cứu ở một số khía cạnh khác nhau của vấn đề, chưa có công trình nghiên cứu nào được đầy đủ và toàn diện. Trong khi đó, vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn là một vấn đề quan trọng, có tính thực tế cao do đó cần có sự nghiên cứu sâu sắc, toàn diện. Vì vậy việc nghiên cứu đề tài vẫn đảm bảo tính khoa học, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích Đề tài nghiên cứu những khía cạnh lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn, sự cần thiết phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con sau khi cha mẹ ly hôn; phân tích việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và việc áp dụng các qui định này trong thực tiễn giải quyết các vụ 9 án ly hôn. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn. - Nhiệm vụ Để đạt được mục đích nói trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Làm rõ những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hôn. - Nêu rõ sự cần thiết khách quan phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hôn. - Phân tích việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hôn và thực trạng thực hiện vấn đề này hiện nay. - Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn cũng như các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn một cách hiệu quả trên thực tế 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn; các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi cha mẹ ly hôn; thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án khi giải quyết việc ly hôn với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con và hướng hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn. 10 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn chủ yếu ở việc phân tích các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn. - Nghiên cứu việc áp dụng các quy định pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nhằm đảm bảo quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn qua các bản án, quyết định giải quyết ly hôn của các tòa án trong thực tiễn xét xử từ năm 2001 đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, đồng thời cũng sử dụng kết hợp các phương pháp cụ thể, là phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, tổng hợp và phân tích. 6. Những đóng góp của luận văn - Luận văn nghiên cứu và đưa ra được những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn, chỉ ra sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn. - Luận văn đánh giá một cách khách quan thực trạng áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn của Tòa án, từ đó có thể thấy được những hạn chế của các quy định pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn và cách áp dụng pháp luật của Tòa án - Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn. Trong bối cảnh Nhà nước ta đang thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, những nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần 11 nhất định trong việc sửa đổi các quy định của pháp luật về việc bảo vệ quyền của trẻ em khi cha mẹ ly hôn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn. Chương 2: Những nội dung cơ bản về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn và một số kiến nghị. 12 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN 1.1. LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN ĐỐI VỚI CON 1.1.1. Khái niệm ly hôn Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân, nó là mặt trái, mặt bất bình thường nhưng là mặt không thể thiếu của quan hệ hôn nhân và gia đình. Khi tình yêu thương giữa vợ chồng đã hết, mâu thuẫn gia đình sâu sắc, mục đích hôn nhân không đạt được thì vấn đề ly hôn được đặt ra nhằm giải phóng cho vợ chồng thoát khỏi những xung đột, bế tắc trong đời sống chung. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân không thể đạt được. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, thực chất quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn mất hết ý nghĩa thì "tự do ly hôn không có nghĩa là làm tan rã những mối quan hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong xã hội văn minh" [13, tr. 335]. Vấn đề ly hôn, được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác nhau. Một số nước cấm ly hôn như Anđôna, Manta, Paragoat có nước lại đặt ra các quy định hết sức nghiêm ngặt như Achentina, Italia... Nhưng việc cấm hay hạn chế ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân, V. I Lênin đã khẳng định: Người ta không thể là một người dân chủ và xã hội chủ nghĩa nếu ngay từ bây giờ không đòi quyền hoàn toàn tự do ly hôn, 13 vì thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp lớn đối với giới bị áp bức, đối với phụ nữ. Tuy hoàn toàn chẳng khó khăn gì mà không hiểu được rằng khi ta thừa nhận cho phụ nữ tự do bỏ chồng không có nghĩa là ta khuyên tất cả họ bỏ chồng [13, tr. 350]. Ly hôn là sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân mà chỉ có vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, quyền ly hôn của vợ, chồng phải đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước và pháp luật nhằm hạn chế, ngăn chặn những hiện tượng vợ chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. Đứng trên quan điểm tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin, Khoản 8 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 quy định: "Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng" [28]. Như vậy khi nhận thấy cuộc hôn nhân của mình là sai lầm, quan hệ vợ chồng luôn căng thẳng, nặng nề thì ai cũng có thể đứng ra yêu cầu Tòa án chấm dứt quan hệ đó. Tòa án sẽ nhìn nhận, xem xét toàn diện vấn đề và đưa ra quyết định cuối cùng. Đảm bảo quyền tự do ly hôn là một nội dung quan trọng của nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ đã được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 và được cụ thể hóa tại Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên, tự do ly hôn không phải là tự do một cách tùy tiện mà phải dựa vào những căn cứ luật định là quan hệ vợ chồng lâm vào "tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được" [28, khoản 1 Điều 89] và ly hôn chỉ có giá trị pháp lý khi nó được Tòa án công nhận. 1.1.2. Hậu quả pháp lý và xã hội của việc cha mẹ ly hôn đối với con Trẻ em là hạnh phúc, là niềm vui của các bậc cha mẹ. Nhưng khi gia đình tan vỡ, cha mẹ chia tay nhau, cũng chính trẻ em là người chịu thiệt thòi nhất. Vì lý do gì đi nữa cũng không thể phủ nhận một điều rằng có những 14 quyết định khiến cho người lớn toại lòng nhưng, đối với con trẻ, lại là nỗi bất hạnh, tủi buồn, thậm chí có thể trở thành cơn bão đẩy các em vào sóng gió. Đối với những số phận không may mắn, người xung quanh chỉ có thể cảm thông, giúp đỡ, an ủi một phần mà chẳng thể nào bù đắp được những mất mát to lớn trong tình cảm của các em. Khi vợ chồng ly hôn, quan hệ hôn nhân chấm dứt, tuy nhiên quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn không hề thay đổi. Vì vậy, trên phương diện pháp lý, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau sẽ chấm dứt nhưng các quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con vẫn tồn tại. Cha mẹ là người sinh thành ra các con, cha mẹ có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng các con khi chúng chưa thể tự lo cho bản thân mình mà không phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình. Khi ly hôn, vợ chồng cảm thấy thỏa mãn vì bản thân đã được giải thoát nhưng lại không thể tránh khỏi việc gây ra đau khổ, thiệt thòi cho con cái - những đứa trẻ vô tội trong sự tan vỡ của gia đình. Nguyên nhân của ly hôn là tình cảm của vợ chồng đã rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên mọi người khi đi đến quyết định ly hôn đã muốn có một cuộc sống riêng cho mình. Vì vậy, sau khi ly hôn họ không còn lý do gì để sống chung với nhau. Khi cha mẹ không còn chung sống, pháp luật quy định con chỉ được sống với một người và đó là người có khả năng bảo đảm quyền lợi về mọi mặt cho con. Sự thiệt thòi, mất mát không chỉ dừng lại ở việc con không được sống cùng cả cha và mẹ mà ngay cả sự gần gũi, gắn bó giữa các anh, chị, em trong gia đình cũng bị chia rẽ. Khi một người không đủ khả năng chăm sóc cho tất cả các con thì họ buộc phải lựa chọn đứa con nào ở với mình để quyền lợi của chúng được đảm bảo hơn và khi đó, các anh, chị, em sẽ phải chia lìa nhau. Quyết định khó khăn đó cũng là để bảo đảm cuộc sống vật chất cho con, nhưng lại làm mất đi một cuộc sống vui vẻ với tình cảm yêu thương, quấn quýt nhau giữa các anh, chị, em trong một gia đình. 15 Sau khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con vẫn không hề thay đổi nhưng do con chỉ được sống với một người nên cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ có một số thay đổi, đặc biệt là đối với người không trực tiếp nuôi con. Đứa con chỉ được sự chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp bởi một người và người kia thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình một cách gián tiếp qua việc thăm nom, cấp dưỡng cho con. Đây chỉ là một sự cố gắng bù đắp chứ không thể lấp đầy khoảng trống về tình cảm trong lòng những đứa trẻ còn ngây thơ. Những hậu quả pháp lý của ly hôn sẽ kéo theo những hậu quả về mặt xã hội rất nặng nề, ảnh hưởng tới cuộc sống và sự phát triển của các em. Trước hết, hậu quả tiêu cực của ly hôn đối với con cái là những trẻ em này sẽ bị giằng co giữa bố và mẹ sau khi ly hôn. Thông thường, sau khi ly hôn sẽ không ai chịu trách nhiệm phần lỗi về mình, và do đó, sẽ tìm cách bao che khuyết điểm của mình bằng đổ lỗi cho người kia, không thấy mấy trường hợp cha mẹ sau khi ly hôn đã nhận phần lỗi của mình và tìm cách đền bù lại đối với con cái trong việc giáo dục. Nhưng trong tâm lý trẻ thơ, chúng chỉ muốn biết những điều tốt, đẹp, hãnh diện về bố mẹ chứ không phải là những điều xấu, những lý do đã khiến cho bố hoặc mẹ bỏ nhau. Vì vậy, những điều tiêu cực kia sẽ làm mất dần hình ảnh đẹp của bố mẹ trong mắt các con, nhất là khi chúng gặp những khó khăn và thử thách của cuộc sống. Ảnh hưởng này sẽ khiến các em có cái nhìn tiêu cựcvề hôn nhân và gia đình. Các em sẽ không tìm được một mô hình gia đình và hôn nhân hạnh phúc. Ý nghĩa và đặc tính của hôn nhân cũng sẽ được diễn dịch một cách lệch lạc khi các em nhìn vào bố mẹ mình và đời sống hôn nhân gia đình của bố mẹ sau khi đã ly hôn. Những hậu quả tiêu cực này có thể dẫn đến những diễn biến tiêu cực trong cuộc sống của trẻ như không hạnh phúc trong cuộc sống hoặc có những hành vi xử sự liều lĩnh, thiếu suy nghĩ, không cần để ý đến hậu quả như tệ nạn phá thai và ly hôn Theo kết quả khảo cứu, thì con cái của những cha mẹ ly hôn có xác suất ly hôn cao hơn những gia đình mà cha mẹ không ly hôn. 16 Cha mẹ bất hòa luôn ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của con về mặt tâm lý. Những cảnh cãi vã nhau, những câu chì chiết, những câu chửi hay những lần đánh nhau trước mặt con lúc nào cũng có hại và sẽ rất khó xóa nhòa trong ký ức tuổi thơ của con. Trẻ rơi vào tình trạng luôn lo lắng, bất an, có cảm giác bị bỏ rơi. Cũng có trường hợp trẻ tự kết tội mình có phần nào trách nhiệm trong sự chia ly của bố mẹ. Sự buồn bã, sự suy nhược, sự cách ly, sự mất ngủ, những cơn ác mộng và những nỗi sợ hãi, ám ảnh ban đêm đều có khả năng chế ngự trong đời sống tinh thần của đứa trẻ. Kết quả học tập cũng có phần sụt giảm. Đôi khi đứa trẻ chuyển sự thô bạo trong gia đình sang những quan hệ xã hội. Trong những trường hợp khác, chúng chọn thái độ của một người lớn trưởng thành sớm, chúng già giặn và không còn sự hồn nhiên như bạn bè cùng lứa. Trẻ sống trong các gia đình ly hôn thường rất mặc cảm trong cuộc sống, ngại tiếp xúc, kín kẽ khi nói về bản thân và gia đình không trọn vẹn của mình. Nhìn xa hơn ở những trường hợp cha mẹ ly hôn mà cả hai đều chạy theo cuộc sống riêng tư của mình, những đứa trẻ bỗng dưng bị bỏ rơi, lạc lõng giữa cuộc đời. Và một thực tế là những trẻ đó rất dễ vướng vào những cạm bẫy của cuộc đời và rơi vào con đường phạm pháp. Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nếu không được sự quan tâm của xã hội, sự bảo vệ của pháp luật thì những mầm non của hôm nay không thể trở thành những công dân có ích cho xã hội mai sau được. Những trẻ có cha mẹ ly hôn phải chịu nhiều thiệt thòi so với các bạn bè đồng lứa, hơn nữa, chúng vẫn còn chưa thể tự lo được cho mình, vì vậy, rất cần có sự quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Mặt khác, chúng đang trong quá trình phát triển về nhân cách và nhận thức, rất cần được dạy dỗ, chỉ bảo, định hướng của những người đi trước. Đây cũng là lứa tuổi dễ bị lợi dụng, dễ sa vào cạm bẫy nên sự quan tâm, sự định hướng của người lớn lại càng cần thiết. 17 1.2. KHÁI NIỆM BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CON KHI CHA MẸ LY HÔN 1.2.1. Khái niệm Trong trường hợp cha mẹ ly hôn, việc bảo vệ quyền lợi của con được đặt ra đối với con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. Bởi lẽ khi cha mẹ ly hôn, những người con đã thành niên đã phát triển toàn diện về nhận thức và nhân cách, đồng thời họ cũng có đủ khả năng lao động để tự nuôi sống bản thân nên không bị ảnh hưởng nhiều do việc ly hôn của cha mẹ. Ngược lại, những người con chưa thành niên, chưa phát triển toàn diện về mặt nhận thức và nhân cách nên dễ bị chấn động tâm lý khiến chúng bị phát triển lệch lạc về đạo đức, nhân cách. Những người đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài chính để tự nuôi sống bản thân sẽ không thể tồn tại nếu không có sự hỗ trợ từ cha mẹ. Chính vì vậy những đối tượng này cần được đặc biệt quan tâm và bảo vệ khi cha mẹ ly hôn. Quyền của con khi cha mẹ ly hôn là một bộ phận của quyền con người, do đó để tìm hiểu một cách toàn diện về quyền của con khi cha mẹ ly hôn, cần tìm hiểu khái niệm về quyền con người. Quyền con người là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá phổ biến, tuy nhiên trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia chưa có một định nghĩa chính thức nào về quyền con người. Các nhà nghiên cứu luật học khi nghiên cứu về vấn đề này có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Dựa trên những quy định của luật pháp quốc tế và các nghiên cứu khoa học về quyền con người, có thể hiểu: Quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên hệ với Nhà nước và cá nhân con người khác. 18 Bảo vệ quyền của con khi cha mẹ ly hôn là bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em khi cha mẹ chúng ly hôn. Đó chính là việc "che chở", "giữ gìn", ngăn ngừa, hạn chế hoặc chống lại những hành vi xâm phạm các quyền của trẻ em đặc biệt trong hoàn cảnh cha mẹ ly hôn. Bảo vệ quyền của con khi cha mẹ ly hôn được thể hiện qua hệ thống các biện pháp, cách thức nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con được thực hiện trên thực tế, ngăn chặn mọi khả năng có thể xâm phạm đến quyền trẻ em của con và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm gắn với việc ly hôn của cha mẹ. Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn là hệ thống các biện pháp, cơ chế, cách thức được pháp luật quy định nhằm đảm bảo thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của con trên thực tế, đảm bảo cho các quyền cơ bản của con không bị xâm phạm, hạn chế hoặc bị ảnh hưởng xấu do việc ly hôn của cha mẹ gây ra, cũng như đảm bảo việc xử lý nghiêm khắc, kịp thời mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của con. 1.2.2. Sự cần thiết của việc điều chỉnh bằng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn Trong xã hội xưa và nay, trẻ em luôn đóng vai trò quan trọng, không chỉ trong gia đình mà đối với toàn xã hội. Tuy nhiên trẻ em cũng là đối tượng dễ bị lạm dụng, bóc lột sức lao động và lạm dụng tình dục, đặc biệt khi trẻ là con của các cặp vợ chồng ly hôn càng có nguy cơ cao hơn. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải ban hành các quy phạm pháp luật ràng buộc chặt chẽ trách nhiệm của cha mẹ đối với con khi ly hôn. Tổ chức lao động Quốc tế trong một báo cáo cho thấy, trong 215 triệu trẻ em trên thế giới thì có khoảng 115 triệu trẻ em đang tham gia vào những công việc nguy hiểm. Ước tính trên thế giới, cứ mỗi phút trôi qua là có một trẻ em bị tai nạn, bệnh tật hoặc chấn thương lao động. Ở Việt Nam, theo thống kê của Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động Thương binh và Xã hội), hiện nay cả nước còn khoảng 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan