ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TẠ XUÂN TRÀ
BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG CÁC QUY PHẠM VỀ TỘI PHẠM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TẠ XUÂN TRÀ
BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI
BẰNG CÁC QUY PHẠM VỀ TỘI PHẠM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số
: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm
HÀ NỘI - 2014
2
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
T¹ Xu©n Trµ
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CÁC
QUYỀN
7
CON NGƯỜI BẰNG NHỮNG QUY PHẠM VỀ TỘI PHẠM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.
Khái niệm tội phạm và khái niệm quyền con người
7
1.1.1. Khái niệm tội phạm
7
1.1.2. Khái niệm quyền con người
7
1.2.
Khái niệm, ý nghĩa và đặc điểm của việc bảo vệ các quyền
10
con người bằng những quy phạm về tội phạm trong pháp
luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng những quy
10
phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.2. Ý nghĩa của bảo vệ các quyền con người bằng những quy
11
phạm về tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.3. Đặc điểm của việc bảo vệ các quyền con người bằng những
13
quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tư tưởng bảo
15
vệ các quyền con người bằng những quy phạm về tội phạm
trong pháp luật hình sự Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay
1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp
15
điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
1.3.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến nay
4
17
1.3.3. Những nét cơ bản về bảo vệ các quyền con người bằng
18
những quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự của
một số nước trên thế giới
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON
24
NGƢỜI BẰNG NHỮNG QUY PHẠM VỀ TỘI PHẠM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.
Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
24
những quy phạm về tội phạm quy định trong Phần chung
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
2.1.1. Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng những
24
quy phạm về khái niệm tội phạm và phân loại tội phạm
2.1.2. Bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm của chế
34
định lỗi
2.1.3. Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
40
những quy phạm về các giai đoạn thực hiện tội phạm và
đồng phạm
2.1.4. Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
54
những quy phạm về việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối với
hành vi không tố giác tội phạm khi những người ruột thịt
hoặc thân thích gần thực hiện đối với nhau
2.2.
Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
57
những quy phạm về tội phạm quy định trong Phần riêng
pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành
2.2.1. Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
58
những quy phạm về tội phạm quy định tại Chương 12 Bộ
luật hình sự
2.2.2. Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
những quy phạm về tội phạm quy định tại Chương 13 Bộ
luật hình sự
5
63
2.3.
Thực tiễn áp dụng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật
64
hình sự Việt Nam đối với việc bảo vệ các quyền con người
2.3.1. Thực tiễn áp dụng
64
2.3.2. Những nhận xét, đánh giá
69
Chương 3:
HOÀN THIỆN MỘT SỐ QUY PHẠM VỀ TỘI PHẠM
73
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THEO
ĐỊNH HƢỚNG TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ CÁC QUYỀN
CON NGƢỜI
3.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy phạm về tội phạm
73
trong pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng tăng cường
bảo vệ quyền con người
3.1.1. Về mặt lập pháp hình sự
73
3.1.2. Về mặt chính trị - pháp lý
74
3.1.3. Về mặt thực tiễn
76
3.2.
Những yêu cầu đối với hoàn thiện các quy phạm trong pháp
77
luật hình sự Việt Nam về tội phạm theo định hướng tăng
cường bảo vệ các quyền con người
3.3.
Nội dung hoàn thiện những quy phạm về tội phạm trong
77
pháp luật hình sự Việt Nam theo hướng tăng cường bảo vệ
quyền con người
3.3.1. Nhận xét chung
77
3.3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện
78
KẾT LUẬN
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89
6
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những giá trị pháp lý và nhân văn của các dân tộc,
các quốc gia và cộng đồng trên toàn thế giới. Để bảo đảm được quyền con
người nhất thiết phải sử dụng pháp luật - với vai trò là công cụ chủ yếu và
quan trọng nhất. Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay, chúng ta không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp
luật để bảo đảm tính tối cao, tối thượng của Hiến pháp và pháp luật, mục đích
cuối cùng là nhằm bảo vệ quyền con người. Quyền con người được bảo vệ
bằng nhiều ngành luật khác nhau, như: Luật dân sự; Luật hành chính; Luật
hôn nhân và gia đình… và đặc biệt là Luật hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, thực thi đã góp phần quan
trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Tuy nhiên, pháp luật thuộc phạm
trù ý thức xã hội, do đó chịu sự tác động qua lại biện chứng giữa nó(pháp
luật) với tồn tại xã hội. Nhưng, tội phạm lại thuộc phạm trù tồn tại xã hội,
khi kinh tế - xã hội thay đổi, có nghĩa tồn tại xã hội cũng thay đổi, trong đó
có tội phạm. Xã hội phát triển càng cao thì ngày càng phát sinh những loại
tội phạm mới với cường độ gia tăng, quy mô lớn hơn, thủ đoạn tinh vi, hậu
quả khôn lường, mất trật tự trong xã hội, xâm phạm quyền con người. Từ
đó, đòi hỏi công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm phải đáp ứng với tình
hình mới.
Là công cụ chủ yếu và trực tiếp trong đấu tranh phòng chống tội
phạm, luật hình sự phải quy định rõ ràng và chính xác: Hành vi nào là tội
phạm và hành vi nào không phải tội phạm? Nói cách khác, luật thực định phải
thể hiện: cái gì? điều gì là ranh giới giữa tội phạm và không phải tội phạm?
Khi phân tích, mổ xẻ vấn đề này, cũng đồng nghĩa với việc, chúng ta chỉ ra và
xem xét vấn đề bảo vệ quyền con người được thể hiện ở những nội dung nào?
8
Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện hệ thống
pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự. Việc hoàn thiện đó không chỉ để đáp
ứng và phù hợp với luật quốc gia, mà còn phải đáp ứng và phù hợp với luật
pháp quốc tế; cụ thể như Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 "Về một
số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"...
Về pháp luật của nhà nước, trước tiên phải kể đến Hiến pháp, đặc biệt là
Hiến pháp năm 1992, vừa mới được thay thế bằng Hiến pháp năm 2013, chúng
ta đã dành riêng chương 2 để quy định về quyền con người, trong đó có quyền
con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được nghi nhận với vai trò là một trong
những quyền cơ bản. Cụ thể, Khoản 1 và 2 Điều 20, Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra
tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào
khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
2. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân
dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định [41].
Điều 31, tại các khoản 1, 2, 3, 4 quy định:
1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong
thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín
theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai.
3. Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa [41].
9
Tiếp theo Hiến pháp, là luật và các văn bản dưới luật, quyền con
người và bảo vệ các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được ghi
nhận tương đối đầy đủ và rõ ràng. Đồng thời, đây là vấn đề vô cùng quan
trọng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt từ các nhà khoa học, các luật gia,
cũng như những người làm công tác thực tiễn trong nước và ngoài nước.
Do vậy, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài "Bảo vệ các quyền con
người bằng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam"
làm luận văn thạc sĩ của mình là có tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự đã được
nghiên cứu ở những mức độ khác nhau, có thể điểm qua một số cấp độ sau:
* Sách chuyên khảo, sách tham khảo, đề tài khoa học:
GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền, (Sách chuyên khảo) Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2009; GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học
Luật hình sự (phần chung), (Sách chuyên khảo), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005; TS. Trần Quang Tiệp, Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự,
luật tố tụng hình sự Việt Nam, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2004; GS.TSKH Lê Văn Cảm, PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, PGS.TS Trịnh
Quốc Toản (đồng chủ trì), Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình
sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội,
Mã số: QL. 04.03, Hà Nội, 2006...
* Cấp độ các bài viết:
GS.TSKH Lê Văn Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con
người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tòa án nhân
dân, các số: 11 (6/2006), 12 (6/2006), 13 (7/2006); 14 (7/2006); GS.TSKH Lê
Văn Cảm, Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự - ý nghĩa
10
của việc nghiên cứu, đăng trên Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26 (2010);
PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng
hình sự, Tạp chí Khoa học, (Kinh tế - Luật), số 23 (2007); Đinh Thế Hưng,
Bảo vệ quyền con người bằng các nguyên tắc chuyên biệt của Luật hình sự,
http://dinhthehung.files.wordpress.com, đăng ngày 17/3/2012;...
Những tài liệu nói trên là tư liệu đáng quý để tác giả luận văn kế thừa
nghiên cứu trong luận văn của mình.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Bảo vệ
các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự
Việt Nam. Tuy nhiên, bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội
phạm là một đề tài vô cùng rộng lớn, cần phải nghiên cứu nhiều nội dung, từ
nhiều khía cạnh khác nhau, mà chỉ một công trình ở cấp độ cao hơn mới có
thể, thể hiện được đủ những đòi hỏi đó. Còn ở cấp độ luận văn thạc sĩ này, với
trình độ có hạn, tác giả chỉ dừng lại ở việc đề cập, nghiên cứu một cách tương
đối có tính hệ thống một số nội dung mà theo tác giả cho là chủ yếu đối với
vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm được quy
định trong Phần chung, và 02 Chương: Chương 12 và Chương 13 (thuộc Phần
riêng) của Bộ luật hình sự Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận về bảo vệ
các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong Phần chung và, 02
Chương: Chương 12 và Chương 13 Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản
11
Việt Nam về pháp luật, về đấu tranh phòng chống tội phạm, trên cơ sở chính
sách hình sự của Nhà nước Việt Nam.
* Về phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó, khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp:
Tổng hợp, phân tích, so sánh, lôgic, thống kê, tham khảo ý kiến các chuyên
gia về hình sự cũng như các cán bộ làm công tác thực tiễn.
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Đã phân tích một cách tương đối có hệ thống, tương đối toàn diện một
số vấn đề lý luận và sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
những quy phạm về tội phạm tại Phần chung trong pháp luật hình sự Việt Nam.
- Đã khái quát lịch sử những nội dung bảo vệ các quyền con người
bằng các quy phạm về tội phạm từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến
nay. Từ đó làm cơ sở cho việc tổng quát, đánh giá, đề ra các căn cứ và cơ sở
nghiên cứu vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm về tội
phạm, cũng như thực tiễn áp dụng các quy phạm đó.
- Nghiên cứu một số nét cơ bản của sự thể hiện nội dung bảo vệ các
quyền con người bằng những quy phạm về tội phạm trong luật hình sự của
một số Quốc gia trên thế giới.
- Trên cơ sở các số liệu đã được thống kê tại một số công trình khoa
học tin cậy khác, và số liệu đã được các cơ quan tiến hành tố tụng của tỉnh
Bắc Kạn thể hiện trong báo cáo, và một số bản án của Tòa án hai cấp của tỉnh
có hiệu lực pháp luật, từ đó rút ra một số tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện
bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm trong Phần
chung của Bộ luật hình sự Việt Nam. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị, giải
pháp nhằm thực hiện tốt, có hiệu quả vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng
các quy phạm về tội phạm.
12
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa về mặt lý luận
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, người viết đã phân tích
và chỉ ra một số nội dung bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm
về tội phạm trong Phần chung của Bộ luật hình sự, mà theo tác giả cho là chủ
yếu, cơ bản và quan trọng nhất. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị, nhằm
khắc phục phần nào trong số những quy phạm đang tồn tại trong luật thực
định, hướng tới tăng cường bảo vệ các quyền con người.
* Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Cùng với ý nghĩa về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu, nhận ra một
số tồn tại, trong hoạt động thực tiễn, xét về bình diện bảo vệ các quyền con
người bằng các quy phạm về tội phạm, đưa ra căn cứ và giải pháp nhằm khắc
phục phần nào tồn tại và hạn chế, nâng cao hiệu quả trong việc bảo vệ các
quyền con người.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa trong hoạt động nghiên cứu khoa
học đối với các luật gia, học viên, sinh viên chuyên ngành tư pháp hình sự, kể
cả những người làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp - hình sự, như
trong hoạt động tố tụng hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dùng của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng
những quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Sự thể hiện nội dung bảo vệ các quyền con người bằng
những quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện một số quy phạm về tội phạm trong pháp luật
hình sự Việt Nam theo định hướng tăng cường bảo vệ các quyền con người.
13
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG NHỮNG QUY PHẠM
VỀ TỘI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VÀ KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƢỜI
1.1.1. Khái niệm tội phạm
Từ việc nghiên cứu một số định nghĩa khoa học và định nghĩa pháp lý
trong luật hình sự về tội phạm, chúng ta có thể hiểu về khái niệm tội phạm
như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, thực hiện một cách có lỗi.
1.1.2. Khái niệm quyền con ngƣời
"Quyền con người" hay còn gọi là "Nhân quyền" là "Quyền căn bản
của con người, như quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại,..
(nói khái quát). Bảo vệ nhân quyền" [53, tr. 711].
Là một phạm trù chính trị - pháp lý, "quyền con người" luôn mang
tính thời sự. Tiến trình phát triển của nhân loại luôn mang trong nó nội dung
quyền con người, trong xã hội nguyên thủy, quyền con người chưa được đặt
ra, một trong những lý do chính là: ở xã hội nguyên thủy không có mâu thuẫn,
về quyền lợi, hoặc nếu có, phải chăng đó chưa phải là mâu thuẫn cần phải giải
quyết. Do vậy xã hội cũng không có đấu tranh, và quyền con người chưa được
đặt ra, suy cho cùng: mọi cuộc đấu tranh đều xuất phát từ mâu thuẫn xã hội,
mà nguyên nhân sâu xa là lợi ích cuối cùng - quyền con người.
Ở phạm vi thế giới, quyền con người đã được ghi nhận trong bản
Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, cụ thể là: "Tất cả mọi người sinh
ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm
phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
14
quyền mưu cầu hạnh phúc". Sau đó, tại Pháp - nơi được mệnh danh là kinh đô
ánh sáng của thế giới, quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn của
cách mạng Tư sản Pháp năm 1791, cụ thể: "Người ta sinh ra tự do và bình
đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".
Từ những nội dung về quyền con người ghi nhận trong hai bản tuyên
ngôn đó, theo sự phát triển của nhân loại, những nội dung quyền con người
không ngừng được nâng lên, trở thành vị trí trung tâm, và là cái đích chung
của nhân loại. Chủ nghĩa Mác cũng chỉ ra rằng: Mọi sự vật, hiện tượng trên
thế giới đều tồn tại và phát triển theo những quy luật nhất định, luôn ở trạng
thái vận động. Quyền con người là một phạm trù lịch sử, nên cũng vận động
theo một quy luật của nó, mang tính thời đại, không chỉ là vấn đề của riêng
quốc gia nào. Chính vì vậy, cho đến ngày nay, trên thế giới vẫn xảy ra các
cuộc xung đột gay gắt trên cả lĩnh vực chính trị, vũ trang, tôn giáo, văn hóa…
mà nguyên nhân sâu xa vẫn là quyền con người. Thậm chí, trên thế giới, có
những thế lực lợi dụng vấn đề "quyền con người" đã đem quân can thiệp thô
bạo vào các quốc gia khác, chúng đưa ra những cái gọi là "Bảo đảm nhân
quyền", nhưng bản chất đó là sự chà đạp lên quyền con người.
Đặc biệt, thế giới từ thế kỷ XX đến nay đã xảy ra hai cuộc chiến tranh
lớn nhất lịch sử nhân loại, mà về quy mô, về thiệt hại của nó chưa từng có. Vì
vậy, vấn đề quyền con người, hơn bao giờ hết càng trở nên có ý nghĩa và là
vấn đề trên hết cần phải giải quyết của các quốc gia và của chung toàn thế giới.
Ngày 10/12/1948 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã họp, thông qua
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, trong đó, quyền con người được khẳng
định như sau: "Điều cốt yếu là quyền con người phải được pháp luật bảo vệ
để con người không buộc phải nổi dậy như là biện pháp cuối cùng nhằm
chống lại sự độc tài và áp bức" [31].
Ở phạm vi trong nước, qua quá trình đấu tranh đầy gian nan của cả
dân tộc để giành lấy quyền bính về mình, được đánh dấu bằng thắng lợi của
15
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, quyền con người, quyền dân tộc đã được
ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp năm 1946. Tiếp theo được
phát triển ở những bản Hiến pháp sau này, đặc biệt là lần sửa đổi mới nhất
năm 2013 gần đây, quyền con người đã được ghi nhận tại riêng Chương 2, tại
Điều 14 quy định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật.
2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng [41].
Với vai trò và mục tiêu nêu trên, điều cốt yếu đặt ra đối với tất cả các
nước và từng quốc gia là: Toàn thế giới và từng quốc gia đã đặt quyền con
người ở vị trí nào? Bảo đảm thực thi nó ra sao? "Nhà nước đã ghi nhận về lập
pháp, thực thi về hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp ra sao?" [13, tr. 223].
Điều đó cũng có nghĩa là: Quốc gia nào khi giải quyết tốt các vấn đề
nêu trên là quốc gia đó thực hiện tốt việc bảo vệ các quyền con người.
Để phân tích các nội dung về quyền con người, cũng như bảo vệ các
quyền con người, nhất thiết chúng ta phải định nghĩa thế nào là "Quyền con
người" và "bảo vệ các quyền con người", bảo vệ các quyền con người bằng
các quy phạm về tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam.
Về khái niệm, có nhiều định nghĩa khác nhau về "quyền con người".
Ví dụ:
TS. Trần Quang Tiệp, định nghĩa như sau: "Quyền con người là những
đặc lợi vốn có tự nhiên mà chỉ có con người mới được hưởng trong những
điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định" [43, tr. 14].
16
GS.TSKH. Lê Văn Cảm đưa ra khái niệm quyền con người như sau:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử - cụ thể là giá trị xã
hội cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại
và là đặc trưng tự nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị
tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất,
đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia - thành
viên Liên hợp quốc cũng như bởi cộng đồng quốc tế [8, tr. 224].
Từ việc nghiên cứu, tổng quát các khái niệm của các cơ quan, tổ chức,
các nhà luật học chuyên nghiên cứu về quyền con người, cũng như các văn
bản luật của quốc tế và quốc gia, người viết có thể đưa ra khái niệm về quyền
con người như sau: Quyền con người là tổng hợp những giá trị vốn có và cao
quý nhất của mỗi người từ khi sinh ra, vừa mang bản chất tự nhiên, vừa mang
bản chất xã hội, vừa là động lực vừa là cái đích để nhân loại hướng tới.
1.2. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC BẢO VỆ CÁC
QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG NHỮNG QUY PHẠM VỀ TỘI PHẠM TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm bảo vệ các quyền con ngƣời bằng những quy
phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu vấn đề bảo vệ các quyền con người, cùng với
việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật quốc tế về bảo vệ các quyền con
người, cũng như tinh thần bảo vệ các quyền con người của pháp luật Việt
Nam, tác giả có thể đưa ra khái niệm "bảo vệ các quyền con người bằng các
quy phạm về tội phạm" như sau:
Bảo vệ các quyền con người bằng những quy phạm về tội phạm là
ngăn ngừa sự xâm phạm trái pháp luật các quyền con người bởi những hành
vi bị luật hình sự coi là tội phạm, bằng các hoạt động từ khâu: xây dựng, quy
định những quy phạm về tội phạm trong luật hình sự thực định của quốc gia,
cho tới khâu thực thi pháp luật từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
17
1.2.2. Ý nghĩa của bảo vệ các quyền con người bằng những quy
phạm về tội phạm của pháp luật hình sự Việt Nam
Việc nghiên cứu về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nói
chung, bằng pháp luật hình sự - trong đó có các quy phạm về tội phạm nói
riêng mang nhiều ý nghĩa vô cùng quan trọng, về nhiều phương diện như sau:
- Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội
Xã hội trải qua nhiều hình thái kinh tế, xã hội khác nhau, nhiều kiểu
nhà nước khác nhau được hình thành, tương ứng với mỗi kiểu nhà nước là
nhiều hình thức pháp luật cũng ra đời với mục đích chính là công cụ để bảo
đảm cho giai cấp thống trị xã hội, mà đại diện là bộ máy nhà nước. Tuy nhiên,
lịch sử nhà nước và pháp luật từ trước đến nay, và xu thế quốc tế đương đại
đã minh chứng qua thực tiễn rằng: Chỉ có ở Nhà nước pháp quyền theo đúng
nghĩa thì quyền con người mới được bảo đảm, mới được đặt đúng vị trí của
nó - với vị trí là giá trị xã hội cao quý nhất, giá trị đó được ghi nhận trong
luật, được bảo vệ bằng pháp luật, trong đó có luật hình sự.
Pháp luật hình sự, với nhiều quy phạm khác nhau, mỗi quy phạm đều
chứa đựng nội dung bảo vệ các quyền con người ở mức độ khác nhau. Như
đóng vai trò trung tâm của đạo luật hình sự, các quy phạm về tội phạm đã thể
hiện rõ nét và là căn cứ pháp lý chắc chắn trong bảo vệ các quyền con người.
Từ đó, các cơ quan tư pháp, thực thi quyền hạn của mình tương ứng với từng
giai đoạn tố tụng, bảo đảm việc bảo vệ các quyền con người, đưa các nguyên
tắc của Nhà nước pháp quyền vào cuộc sống.
- Ý nghĩa về phương diện lý luận
Xuất phát từ vấn đề tội phạm, trước hết tội phạm là hành vi vi phạm
pháp luật, bị luật hình sự quy định là tội phạm. Tuy nhiên, ngay trong khái niệm
tội phạm, cũng như các quy phạm liên quan đến tội phạm, hiện nay trên thế giới
có nhiều cách định nghĩa khác nhau (bao gồm cả định nghĩa pháp lý và định
nghĩa khoa học), và ngay trong một quốc gia ở mỗi giai đoạn khác nhau vấn
18
đề coi một hành vi nhất định có phải là tội phạm hay không cũng có sự khác
nhau (tội phạm hóa và phi tội phạm hóa). Từ các vấn đề tội phạm cũng như
vấn đề xung quanh tội phạm luôn có mối liên hệ vừa trực tiếp vừa gián tiếp,
vừa là cơ sở pháp lý, vừa là cơ sở khoa học tới vấn đề bảo vệ các quyền con
người. Vì vậy, trên nền móng những thành tựu của nền pháp lý quốc gia, và
nền pháp lý tiến bộ của thế giới đương đại, việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ các
quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm luôn là nhiệm vụ có ý nghĩa
to lớn. Đặc biệt, trong khi chúng ta đang cải cách tư pháp, nghiên cứu các quy
phạm về tội phạm để làm rõ sự thể hiện những nội dung bảo vệ các quyền con
người như thế nào? Cũng như tìm ra những quy phạm còn chưa hợp lý, hoặc
không còn phù hợp với các quan hệ xã hội hiện tại mà nó không còn đáp ứng
(hoặc chưa đáp ứng) trong việc bảo vệ các quyền con người và không ngừng
tăng cường bảo vệ các quyền con người. Từ đó, đưa ra các kiến giải lập pháp
góp phần vào mục tiêu chung của công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng đất
nước. Cho nên, việc đưa ra nghiên cứu đề tài này là một nhiệm vụ chính đáng.
Hiến pháp và pháp luật là tối thượng, vì thế quyền con người, cũng
như nội dung bảo vệ các quyền con người phải được ghi nhận trong Hiến
pháp và pháp luật, có nghĩa rằng: bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong đó có pháp luật hình sự, được thể hiện ở phương diện lập pháp. Tuy
nhiên, cho đến lần pháp điển hóa lần thứ hai Bộ luật hình sự năm 1999, vẫn
tồn tại một số điểm cần phải hoàn thiện, cũng như phải sửa đổi, bổ sung, vì
bộc lộ những hạn chế nhất định ngay từ khi xây dựng, cũng như những điểm
không còn phụ thuộc trong quá trình áp dụng do sự thay đổi của các yếu tố
kinh tế - xã hội khác, mà trong đó có các quy phạm về tội phạm quy định tại
phần chung của Bộ luật hình sự Việt Nam.
- Ý nghĩa về phương diện thực tiễn
Thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự nói chung và các quy phạm về tội
phạm nói riêng đã và đang đặt ra những đòi hỏi cần thiết trong việc hoàn thiện,
19
mà trước mắt là khắc phục những hạn chế ở những quy phạm hiện hành, trong
đó có các quy phạm về tội phạm liên quan đến bảo vệ các quyền con người.
Một trong những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền là tính minh
bạch của pháp luật, bởi lẽ, để bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp
luật, thì đòi hỏi và nhất thiết đòi hỏi phải minh bạch, tính tối cao và tính minh
bạch là hai đặc điểm khác nhau, nhưng có mối liên hệ mật thiết với nhau, vừa
là động lực và vừa là tiền đề của nhau. Từ tính minh bạch của pháp luật, các
cơ quan nhà nước nói chung, cơ quan tư pháp nói riêng mới có thể thực thi
nhiệm vụ một cách chính xác, từ đó mới làm cơ sở bảo vệ các quyền con
người. Một vấn đề hiển nhiên trong hoạt động của con người, đó là hoạt động
thực thi pháp luật luôn gắn với thực tiễn, đây là hai khái niệm gần giống nhau
nhưng không đồng nhất với nhau. Pháp luật sau khi được ban hành, có đi vào
cuộc sống được hay không, và đi vào cuộc sống nhanh hay chậm, điều đó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, sự phù hợp giữa pháp luật đối với cuộc sống
hay không? Nghĩa là có sự phù hợp của pháp luật với các quan hệ xã hội đang
diễn ra hay không? Ngoài ra, là sự hoạt động, thực thi pháp luật từ phía các cơ
quan nhà nước, trong đó có cơ quan tư pháp.
Việc nghiên cứu về phương diện thực tiễn đối với các quy phạm về tội
phạm có ý nghĩa to lớn, vô cùng quan trọng đối với vấn đề bảo vệ các quyền
con người.
1.2.3. Đặc điểm của việc bảo vệ các quyền con ngƣời bằng những
quy phạm về tội phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt, "đặc điểm" có nghĩa là nét riêng biệt. Từ đó,
có thể hiểu: Các đặc điểm cơ bản của việc bảo vệ các quyền con người bằng
các quy phạm về tội phạm là các dấu hiệu riêng về nội dung và sự thể hiện
của bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm.
Với nội hàm của khái niệm đã nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy việc
bảo vệ các quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm của luật hình sự
Việt Nam có các đặc điểm sau:
20
- Xem thêm -