BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
DƯƠNG QUỐC HUY
BẢO HỘ TÁC PHẨM ÂM NHẠC TRONG
MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
BẢO HỘ TÁC PHẨM ÂM NHẠC TRONG
MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: DƯƠNG QUỐC HUY
KHÓA: 43
MSSV: 1853801012072
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TH.S NGUYỄN TRỌNG LUẬN
TP. HỒ CHÍ MINH – THÁNG 6 – NĂM 2022
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, khóa luận tốt nghiệp như một lời cảm ơn chân thành đối với cha mẹ
và dòng họ, những người luôn là chỗ dựa tinh thần và vật chất cho hành trình của
con đến với đại học dễ dàng hơn.
Tiếp theo, bản thân em muốn dành một lời cảm ơn chân thành cho quý thầy cô
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Để hoàn thành khóa luận này không
thể không kể đến công lao, sự tận tâm của thầy cô trong giảng dạy và chỉ bảo. Các
thầy cô như những người truyền những ngọn lửa đam mê cho bản thân em để có thể
học tập và trở thành những người có ích cho xã hội. Thông qua đây em cũng muốn
dành lời cảm ơn riêng đến thầy Nguyễn Trọng Luận, người thầy đã giúp đỡ, chỉ bảo
để em có thể hoàn thành khoá luận tốt nghiệp.
Tiếp theo, em muốn dành lời cảm ơn trân trọng cho gia đình thứ hai của mình là
gia đình “Cây me”. Tại đây, em cảm nhận được sự yêu thương và giúp đỡ của mọi
người dành cho em trong suốt bốn năm đại học.
Và cuối cùng, em muốn dành lời cảm ơn với những người bạn của mình. Cảm
ơn bạn Hiền, Minh, Hạnh, Diệp, Duyên, Khuê,... đã cùng đồng hành với em trong
hành trình cuối cùng này của thời sinh viên.
Trân trọng!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi
trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Trọng Luận, đảm
bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham
khảo. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 06 năm 2022
Tác giả
Dương Quốc Huy
DANH MỤC VIẾT TẮT
SHTT
Sở hữu trí tuệ
Luật SHTT 2005
Luật Sở hữu trí tuệ số 50/2005/QH11 ngày 29
tháng 11 năm 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi
Luật số 36/2009/QH12 ngày 19 tháng 6 năm
2009 và Luật số 42/2019/QH14 ngày 14 tháng 6
năm 2019
Nghị định số 105/2016/NĐ-CP
Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 22/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước
về sở hữu trí tuệ
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP
Nghị định số 22/2018/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2009 về quyền
tác giả, quyền liên quan
CPTPP
Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương
EVFTA
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU
TRIPs
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương
mại của quyền sở hữu trí tuệ
VCPMC
Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ..............................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu ............................................. 2
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................3
5. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................... 4
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài ......................................... 7
7. Bố cục của đề tài .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC
TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ ..............................................................8
1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số ....... 8
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số .................................................10
1.2.1. Khái niệm tác phẩm âm nhạc ............................................................. 10
1.2.2. Khái niệm môi trường kỹ thuật số ......................................................12
1.2.3. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi
trường kỹ thuật số ......................................................................................... 14
1.3. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong
môi trường kỹ thuật số ......................................................................................15
1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số .................................................17
1.4.1. Chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ
thuật số .......................................................................................................... 17
1.4.2. Nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường
kỹ thuật số ..................................................................................................... 23
1.4.3. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi
trường kỹ thuật số ......................................................................................... 32
1.4.4. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong
môi trường kỹ thuật số. ................................................................................. 34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .........................................................................................41
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC
PHẨM ÂM NHẠC TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ TẠI VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ...........................................................42
2.1 Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi
trường kỹ thuật số tại Việt Nam ...................................................................... 42
2.1.1. Thực trạng về hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc trong môi trường kỹ thuật số tại Việt Nam ..........................................42
2.1.2. Nguyên nhân của tình trạng xâm phạm quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số tại Việt Nam ..........................51
2.1.3. Thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số ................................................54
2.2 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc bảo hộ quyền
tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số tại Việt
Nam ..................................................................................................................... 60
2.2.1 Một số kiến nghị đối với việc hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền tác
giả đổi với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số ........................60
2.2.2 Một số kiến nghị đối với việc nâng cao hiệu quả vấn đề thực thi quyền
tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong một trường kỹ thuật số. .................67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .........................................................................................69
KẾT LUẬN CHUNG ............................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 71
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Craig Venter đã từng nói “Sở hữu trí tuệ là một khía cạnh then chốt để phát
triển kinh tế”, không thể phủ nhận sở hữu trí tuệ đóng một vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Qua thực tiễn hơn 15 năm thi hành, Luật
Sở hữu trí tuệ đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt
động sáng tạo, khai thác, sử dụng và thụ hưởng các tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản
ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, thực thi pháp luật trong nước và hội nhập
quốc tế; cho các tổ chức, cá nhân xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần
khuyến khích hoạt động sáng tạo, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư
nước ngoài, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, Luật
Sở hữu trí tuệ còn là nền tảng đưa hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của Việt Nam đạt
chuẩn mực theo Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền
SHTT (TRIPs) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) cũng như đáp ứng các
nghĩa vụ theo cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại tự do (FTA)
thế hệ mới gần đây1.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, hàng loạt các sản phẩm
công nghệ ra đời đã giúp góp phần cho cuộc sống của con người được thuận lợi và
tiện ích hơn. Tuy nhiên, nó cũng mang lại nhiều mặt trái như làm gia tăng khoảng
cách giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, thiên tai,... Hiện nay, đã và đang phổ biến là
hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nói chung và xâm phạm quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc nói riêng trong môi trường kỹ thuật số. Những hành vi xâm
phạm không bị xử lý triệt để mà còn diễn ra khá phổ biến, điều này đã đặt ra nhiều
thách thức cho các nhà lập pháp. Chính vì thế, việc bảo hộ quyền tác giả trước các
hành vi xâm phạm là điều cấp thiết và mang tính thời sự trong bối cảnh hiện nay,
qua đó nhằm góp phần răn đe cũng như là nâng cao ý thức tôn trọng quyền tác giả.
Hiện nay, bảo hộ tác phẩm âm nhạc là một trong thách thức. Bởi lẽ, hành vi diễn ra
vô cùng đa dạng và phổ biến trên môi trường kỹ thuật số, đồng thời, với việc dễ
dàng thực hiện các hành vi sao chép, cắt ghép đã dẫn đến thực trạng xâm phạm
Tờ trình về việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ ngày 17/11/2020 do
Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện.
1
1
quyền cũng từ đó tăng lên. Hơn nữa trong thời kỳ dịch bệnh diễn biến phức tạp thì
các cơ quan nhà nước thực hiện các chính sách giãn cách xã hội, khiến cho nhu cầu
giải trí trực tiếp bị ảnh hưởng vì thế các ứng dụng giải trí trực tuyến phát triển đồng
thời cũng kéo theo các hành vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.
Về cơ bản pháp luật về sở hữu trí tuệ đã có các chế tài tương ứng đối với các hành
vi xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. Tuy nhiên, trên thực tế việc
áp dụng các biện pháp bảo vệ tương ứng vẫn còn nhiều điểm bất cập và khó thực thi,
qua đó, hành vi xâm phạm quyền trên môi trường kỹ thuật số lại khó khăn hơn.
Ngày 22/8/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1068/QĐ-TTG phê
duyệt chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030, quyết định đã mở ra một sự phát triển
có hệ thống quyền sở hữu trí tuệ. Trong đó nhiệm vụ trọng tâm là “nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ, giảm thiểu tình trạng xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ”. Để nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, chiến lược đặt ra chín nhóm nhiệm
vụ và giải pháp cần triển khai thực hiện, trong đó nổi bật là nhiệm vụ “đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả hoạt động thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt nâng cao hiệu
quả xét xử và giải quyết các tranh chấp về quyền tác giả tại Tòa án”.
Chính từ vai trò quan trọng của tác phẩm âm nhạc hiện nay pháp luật cần có
những giải pháp ngăn chặn các hành vi xâm phạm cũng như bảo hộ quyền tác giả
đối với tác phẩm âm nhạc. Với mong muốn tìm ra những giải pháp thích hợp để bảo
hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc đặc biệt là trong môi trường kỹ thuật số,
tác giả đã chọn đề tài: “Bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số
theo pháp luật Việt Nam”.
2. Mục đích nghiên cứu
Công trình sẽ nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các quy định của
pháp luật liên quan đến quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc đặc biệt là trong
môi trường kỹ thuật số. Công trình sẽ tập trung phân tích dưới cả hai góc độ là lý
luận và thực tiễn để có một cái nhìn bao quát hơn về “bức tranh” bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số hiện nay. Thông qua đó
tìm kiếm các giải pháp pháp lý để kiến nghị thay đổi nhằm hoàn hiện quy định pháp
luật nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
2
Quyền tác giả là một trong ba trụ cột chính trong nhóm quyền sở hữu trí tuệ.
Trong bảo hộ quyền tác giả lại có các đối tượng bảo hộ cụ thể như: Tác phẩm điện
ảnh, kiến trúc, văn học,... Tuy nhiên, khóa luận chỉ tập trung đối tượng nghiên cứu
là quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc đặc biệt là diễn ra trong môi trường kỹ
thuật số.
Phạm vi nghiên cứu trong đề tài Khóa luận được giới hạn, như sau:
(i) Phạm vi về nội dung: Trong phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung về vấn đề
bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số tại
Việt Nam.
(ii) Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung chủ yếu dựa trên những lý luận và
thực tiễn về quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Ngoài ra, công
trình còn nghiên cứu một số quy định của pháp luật nước ngoài, nhằm tăng tính
phong phú của đề tài và rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu phù hợp với nội dung, nhiệm vụ của từng chương, mục:
Phương pháp lịch sử được chủ yếu sử dụng tại Chương 1 để làm rõ được quá
trình hình thành lịch sử quyền tác giả trên thế giới, và đặc biệt là làm rõ quá trình
hình thành và phát triển lịch sử quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số nói riêng tại Việt Nam.
Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng xuyên suốt tại Chương 1 và
Chương 2 để làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số, bên cạnh đó là một số quy định
pháp luật của các nước như Đức, Nhật Bản, Trung Quốc.... Từ đó, góp phần nhận
diện được các vấn đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và
hơn hết là phân tích, tổng hợp những vấn đề thực tiễn đối với việc bảo hộ tác phẩm
âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số.
Phương pháp so sánh được vận dụng chủ yếu đồng thời tại cả Chương 1 và
Chương 2 để làm nổi bật những điểm khác biệt giữa pháp luật Việt Nam, các Điều
ước quốc tế và pháp luật một số quốc gia trên thế giới như Đức, Nhật Bản, Trung
3
Quốc,... nhằm tham khảo và xác định rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo hộ
tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số
5. Tình hình nghiên cứu
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Huy Hoàng về “Bảo vệ quyền tác
giả qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”. Công trình
nghiên cứu chủ yếu thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền tác giả thông qua
xét xử tại Tòa án Việt Nam, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số
quốc gia. Từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền tác giả tại Việt
Nam.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Thuỳ Dương về “Pháp luật quốc
tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc”.
Công trình nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc, phân tích các
Điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc và kinh nghiệm
một số quốc gia để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm từ các hệ thống pháp luật và
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Phạm Hồng Hải về “Bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam”. Trong công trình tác giả tập
trung phân tích về các vấn đề lý luận chung về bảo hộ quyền tác giả trong môi
trường kỹ thuật số và phân tích những quy định hiện hành về bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số và
nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp bảo vệ.
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của tác giả Trương Trần Thanh Thư “Bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số tại Việt Nam”.
Công trình tập trung phân tích khái quát chung về bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số và phân tích quy định của pháp luật về
bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nêu ra những thực trạng bảo hộ
quyền tác giả và từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo
hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc.
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của tác giả Nguyễn Diệu Ly về “Bảo hộ tác
4
phẩm âm nhạc trong điều kiện thực thi các Điều ước quốc tế đa phương tại Việt
Nam”. Khoá luận tập trung ba nội dung chính: thứ nhất, tổng quan về bảo hộ tác
phẩm âm nhạc, thứ hai, các Điều ước quốc tế đa phương và pháp luật Việt Nam về
quyền tác giả, quyền liên quan trong vấn đề bảo hộ tác phẩm âm nhạc, cuối cùng là
tập trung chỉ ra thực trạng bảo hộ tác phẩm âm nhạc và kiến nghị các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả bảo hộ tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam.
Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật của tác giả Nguyễn Thị Đoan Hà về “Bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện”.
Khóa luận tập trung chủ yếu vào hai nội dung chính là lý luận về bảo hộ quyền tác
giả đối với tác phẩm âm nhạc theo pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế và chỉ
ra những thực trạng bảo hộ từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo
hộ quyền tác giả trong lĩnh vực âm nhạc.
Công trình nghiên cứu của tác giả Asherry Magalla “What are the problems of
protection of copyright on the internet? What are the legal remedies for solving the
problem?”. Công trình nghiên cứu một cách tổng quát về quyền tác giả trên nền
tảng không gian mạng, đưa ra một số khái niệm về quyền tác giả trên không gian
mạng, và phân tích các biện pháp để bảo vệ quyền khi có hành vi xâm phạm.
Tài liệu nghiên cứu của Viện thư ký công ty của Ấn Độ (Institute Of Company
Secretaries Of India) về “Professional programme intellectual property rights law
and practice”, tài liệu cung cấp một nền tảng cơ bản về quyền sở hữu trí tuệ và
những vấn đề mang tính thực hành quyền sở hữu trí tuệ, nội dung của bài viết tập
trung rộng về các đối tượng trong quyền sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả.
Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu như: Sách “Giáo trình Luật Sở hữu
trí tuệ” của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2021), NXB Hồng Đức.
Sách “Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ” (2013) của trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân. Sách “Quyền sở hữu trí tuệ” (2006) của tác giả Lê Nết, NXB
Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Các công trình này tập trung phân tích
những nội dung cơ bản về quyền sở hữu trí tuệ; quyền tác giả và quyền liên quan
đến quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp; quyền đối với giống cây trồng. Cuốn
sách cung cấp một nền tảng cơ bản lý luận về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và
quyền tác giả nói riêng.
5
Sách tình huống Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam (2019), của Trường đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh, NXB Hồng Đức. Cuốn sách “Quyền tác giả - Đường hội
nhập không trải hoa hồng” của tác giả Nguyễn Văn Nam, NXB trẻ năm 2017. Các
cuốn sách trên có những bình luận chuyên sâu hơn về quyền tác giả, đặc biệt là
phân tích, bình luận từ các vụ việc thực tiễn nên nội dung đem lại khá sinh động và
có tính thuyết phục cao.
Hội thảo khoa học cấp trường của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
được tổ chức ngày 09/10/2021 với chủ đề “Sửa đổi bổ sung Luật sở hữu trí tuệ:
những vấn đề lý luận và thực tiễn” trong đó có các bài viết chuyên sâu về sự bất cập,
hạn chế trong quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ và trong đó có quyền tác giả, có
thể kể đến như: bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Quang và Trần Ngọc Tuấn “Góp
ý sửa đổi dự thảo Luật Sở hữu trí tuệ phần liên quan đến quyền tác giả”, hay bài
viết của tác giả Đặng Lê Phương Uyên và Trần Yến Nhi “Quyền nhân thân của tác
giả và vấn đề từ bỏ quyền nhân thân trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ”,... Các bài viết
đã lý giải những bất cập trong các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ hiện hành
về quyền tác giả từ đó đã đề xuất những kiến nghị hoàn thiện Dự thảo Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu, sách tham khảo, hội thảo,... chuyên về
quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng còn có rất nhiều các bài
viết phân tích, bình luận xung quanh về vấn đề này. Các công trình này cung cấp
cho tác giả một lượng kiến thức nhất định làm cơ sở cho việc phân tích, bình luận,
đánh giá về đề tài “Bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số theo
pháp luật Việt Nam”. Một số quan điểm của các công trình cũng được tác giả học
hỏi, tiếp thu để đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số.
Mặc dù, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quyền tác giả. Tuy nhiên, những
công trình chỉ đề cập một cách khái quát nhất về bảo hộ quyền tác giả, không trực
tiếp đi sâu phân tích về đối tượng cụ thể trong quyền tác giả là tác phẩm âm nhạc.
Hoặc có phân tích chuyên sâu về bảo hộ tác phẩm âm nhạc nhưng không phản ánh
được môi trường kỹ thuật số hiện nay tác động như thế nào đối với việc bảo hộ tác
phẩm âm nhạc.Ngoại lệ cho vấn đề này là đề tài khóa luận tốt nghiệp vào năm 2013
của tác giả Trương Trần Thanh Thư “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
6
nhạc trong môi trường Kỹ thuật số tại Việt Nam”, công trình đã tiếp cận tổng quan
về việc bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số, công trình cũng tiếp
cận dưới hai góc độ là lý luận và thực tiễn và từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Mặc dù công trình đã cung cấp một cách cơ bản về
bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số nhưng
vẫn còn nhiều điểm công trình chưa nghiên cứu hoặc đã nghiên cứu nhưng tính mới
không còn, một số quy phạm pháp luật đã thay đổi từ khi tác giả nghiên cứu, nhận
thấy được điều đó tác giả đã lựa chọn đề tài “Bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi
trường kỹ thuật số theo pháp luật Việt Nam” để tiếp tục nghiên cứu.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Về mặt khoa học, đề tài nghiên cứu một cách cơ bản từ các vấn đề lý luận cho
đến thực tiễn về bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số. Từ đó cung
cấp cái nhìn tổng thể về những bất cập đang tồn tại và đưa ra một số kiến nghị để
hoàn hiện quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ đặc biệt là quyền tác giả. Qua đó,
nhằm tạo ra một hành lang pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp có liên quan góp
phần nâng cao hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong giai đoạn hội
nhập kinh tế như hiện nay.
Về mặt thực tiễn, những nội dung của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và học tập về quyền tác giả đối với
tác phẩm âm nhạc cũng như hiện nay Quốc hội đang trong giai đoạn sửa đổi, bổ
sung và hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam. Hơn nữa, công trình còn có
thể làm tài liệu tham khảo, giúp ích cho chủ thể quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc trong việc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài “Bảo hộ tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật
Việt Nam”, được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và quy định pháp luật Việt Nam về
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số.
Chương 2: Thực trạng bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong
môi trường kỹ thuật số tại Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện.
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM ÂM NHẠC
TRONG MÔI TRƯỜNG KỸ THUẬT SỐ
1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hộ
quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số
Lịch sử về quyền tác giả đã chỉ ra rằng ý niệm về quyền tác giả đã xuất hiện lần
đầu tiên trong xã hội Hy Lạp. Vào thế kỷ thứ VI trước công nguyên đã xuất hiện
khái niệm về “bản thân cá nhân” (individual self), nó bao gồm lý tưởng cá nhân,
hoài bão và sức sáng tạo. “Bản thân cá nhân” rất quan trọng trong bản quyền vì nó
phân biệt sự sáng tạo do một cá nhân tạo ra với những người khác trong xã hội.
Trong luật Talmudic của người Do Thái cổ đại có thể được tìm thấy sự công nhận
quyền nhân thân của tác giả và quyền kinh tế hoặc tài sản của một tác giả2.
Tuy nhiên đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, quyền tác giả ra đời
mới thật sự được định hình một cách rõ rệt. Thông qua độc quyền về in ấn đã giúp
cho các tác phẩm được sao chép một cách nhanh chóng mà không cần phải chép tay
như trước. Từ đây những cuốn sách được in ra với số lượng lớn mà giá cả thấp đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tác giả tạo ra tác phẩm. Đứng trước những thách thức
lớn này các quốc gia bắt buộc phải ban hành một Đạo luật nhằm bảo hộ quyền của
tác giả.
Đạo luật đầu tiên về quyền tác giả trên thế giới được các học giả đồng tình là
Đạo luật của nữ hoàng Anne năm 1710 (Statute of Anne). Đạo luật có nội dung cơ
bản là bảo hộ quyền lợi của tác giả trong thời hạn 14 năm và được phép gia hạn
thêm 14 năm tiếp theo nếu tác giả của cuốn sách vẫn còn sống khi thời hạn bảo hộ
đầu tiên đã hết. Đạo luật cũng yêu cầu nhà in phải ký quỹ bản sao của mọi cuốn
sách được in trong chính thư viện. Đến năm 1911 thì đã được gọi là Đạo luật bản
quyền hoàng gia và được áp dụng trên toàn lãnh thổ Anh3.
Đạo luật Anne đã ảnh hưởng đến sự phát triển ban đầu của quyền tác giả ở Hoa
Kỳ. Và cuối cùng, cùng với phán quyết của Donaldson V Beckett, đã thúc đẩy việc
2
Asherry Magalla (2015), What are the problems of protection of copyright on the internet? what are the
legal remedies for solving the problem, The University of Iringa, tr.12-13.
3
Asherry Magalla (2015), tlđd (2), tr.26.
8
thông qua điều khoản Hiến pháp Hoa Kỳ đề cập đến quyền SHTT vào năm 17874,
và đến thế kỷ XVIII đánh dấu sự ra đời của Luật Bản quyền Hoa Kỳ 1790. Sau đó,
hai Bộ luật vào năm 1791 và 1793 đầu tiên của Pháp liên quan đến quyền sở hữu
của tác giả đã đặt nền móng pháp lý cho quyền tác giả sau này ở Pháp5. Lịch sử
quyền tác giả đánh dấu một cột mốc quan trọng vào năm 1886 khi Công ước Berne
về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật ra đời tại Thuỵ Sỹ, Công ước đã ghi
nhận cho phép tác giả được hưởng quyền tác giả suốt đời và thêm 50 năm sau khi
tác giả qua đời, hiện nay Công ước đã có trên 160 quốc gia là thành viên.
Tại Việt Nam, hầu hết các công trình nghiên cứu về lịch sử quyền tác giả đều
dựa vào pháp luật thực định để tìm ra thời điểm bảo hộ quyền tác giả bắt đầu từ khi
nào. Và quan điểm chung của các tác giả đều cho rằng quyền tác giả thật sự bắt đầu
từ những năm 80 của thế kỷ XX thông qua bản Hiến pháp năm 1980. Theo đó, Hiến
pháp cho phép công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn học,
nghệ thuật và quyền lợi của tác giả được pháp luật bảo hộ. Hiện nay, khó có thể
hình dung trước khi tiếp cận các quy định về quyền tác giả của phương Tây, Việt
Nam có thể có bất kỳ một thực tiễn hoặc quy định nào về quyền tác giả. Tuy nhiên,
các nghiên cứu gần đây cho thấy một “bức tranh” khác. Từ trước khi Pháp thiết lập
chế độ thực dân ở Việt Nam thì đã tồn tại việc thừa nhận, chuyển nhượng các quyền
đối với sáng tạo văn học, nghệ thuật tại nhiều vùng trên lãnh thổ Việt Nam. Quan
trọng hơn người dân biết vận dụng các quy định pháp luật thành văn, nhất là về tài
sản và hợp đồng để điều chỉnh và các quyền đối tác phẩm văn học, nghệ thuật đó6.
Tuy còn có nhiều quan điểm khác nhau về lịch sử quyền tác giả, nhưng nhìn
chung vì điều kiện lịch sử nên sự phát triển của hệ thống pháp luật về quyền tác giả
tại Việt Nam hình thành muộn hơn so với các nước trên thế giới. Sự kiện Việt Nam
gia nhập vào Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) năm 1976 là bước ngoặt quan
trọng trong quá trình xây dựng pháp luật SHTT nói chung và quyền tác giả nói
4
Orit Fischman Afori (2012), The evolution of copyright law and inductive speculations as to its future,
Research Gate, Vol.19 (2), tr.246.
5
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2021), Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ, Nxb. Hồng Đức,
tr.61.
6
Trần Kiên (Chủ biên) (2020), Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam dưới thời Pháp thuộc di sản lập pháp và án lệ,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.32.
9
riêng7. Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên ghi nhận bảo hộ quyền tác giả tại Việt
Nam8, trên cơ sở đó thì Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị
định số 142/HĐBT với nhiều nội dung quan trọng về bảo hộ quyền tác giả đối với
tác phẩm nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc nói riêng.
Mặc dù lịch sử ra đời pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm
nhạc ở Việt Nam muộn hơn so với các nước trên thế giới, tuy nhiên về cơ bản hiện
nay khung pháp lý về bảo hộ đối với tác phẩm âm nhạc cũng đã hoàn thành và dần
hoàn thiện, hơn hết là có những nội dung phù hợp với các công ước, hiệp định mà
Việt Nam là thành viên.
Với xu hướng chung về hoàn thiện chế độ pháp lý cao nhất trong việc bảo hộ và
thực thi quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc thì Bộ luật Dân sự năm 1995 đã ghi
nhận bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc. Bên cạnh đó để đáp ứng tiêu
chuẩn khi tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới WTO, Việt Nam đã ban hành
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006. Trong bối cảnh
Việt Nam hội nhập sâu rộng và đặc biệt là tham gia các công ước, hiệp định về bảo
hộ quyền tác giả, nổi bật là các Hiệp định tự do thế hệ mới thì Luật SHTT cũng đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và tiếp theo vào năm 2019 nhằm phù hợp với xu
thế chung về quyền tác giả.
1.2. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến bảo hộ quyền tác giả đối với tác
phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ thuật số
1.2.1. Khái niệm tác phẩm âm nhạc
Khoản 1 Điều 2 Công ước Berne đã đưa ra “Thuật ngữ “Các tác phẩm văn học
và nghệ thuật” bao gồm tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và
nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng
hạn như sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài
7
Đỗ Huỳnh Yến Vy (2020), Hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo pháp luật
Hoa Kỳ, Pháp và kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, tr.12.
8
Điều 72 Hiến Pháp 1980 “Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, sáng tác văn học, nghệ thuật
và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ công dân theo đuổi sự nghiệp
khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật nhằm phục vụ đời sống, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; bồi dưỡng, phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân. Quyền lợi của tác giả và của
người sáng chế, phát minh được bảo đảm”.
10
thuyết giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch, hay nhạc kịch, các tác
phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời,...”. Mặc dù Công
ước đã đưa ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật trong đó chỉ ra các tác phẩm âm
nhạc có lời hoặc không lời là đối tượng được bảo hộ, tuy nhiên, Công ước lại không
nêu ra cụ thể thế nào là tác phẩm âm nhạc, mà để cho các quốc gia là thành viên quy
định chi tiết bằng việc nội luật hoá các quy định của Công ước.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về tác phẩm âm nhạc. Tổ chức Sở hữu trí tuệ
Thế giới (WIPO) đã định nghĩa về “tác phẩm âm nhạc” như sau: “Bất kỳ tác phẩm
nào bao gồm âm thanh hoặc chỉ chứa các ký tự âm nhạc ngay cả khi không bao
gồm lời hay bất kỳ hành động nào nhằm mục đích được hát, nói hay biểu diễn với
âm nhạc thì được coi là tác phẩm âm nhạc”. “Tác phẩm âm nhạc” đã được mô tả
như là “một tác phẩm âm thanh được sáng tạo một cách trừu tượng để có thể biểu
diễn qua âm thanh ngay cả khi không có lời”.
Còn theo định nghĩa về tác phẩm âm nhạc – “musical work” trong từ điển tiếng
Anh thì có thể hiểu tác phẩm được coi là tác phẩm âm nhạc nếu chứa đựng nốt nhạc
và lời hát (nếu có). Tác phẩm âm nhạc có thể thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau,
có thể là một phần hoặc toàn bộ bản nhạc hay đĩa nhạc ghi lại trong đĩa nhạc9.
Còn theo pháp luật Việt Nam, tại điểm d khoản 1 Điều 14 Luật sở hữu trí tuệ
2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019 (sau đây gọi tắt là Luật SHTT 2005)
ghi nhận tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ trong đó có tác
phẩm âm nhạc. Mặc dù Luật SHTT 2005 không đưa ra định nghĩa cụ thể thế nào là
một tác phẩm âm nhạc tuy nhiên tại Điều 10 Nghị định 22/2018/NĐ-CP đã đưa ra
khái niệm về tác phẩm âm nhạc để giải thích chi tiết Luật SHTT 2005, trong đó:
“Tác phẩm âm nhạc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 14 của Luật sở hữu trí tuệ là
tác phẩm được thể hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác
hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời, không phù
thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn”. Khái niệm trên đã bổ sung cụm từ
“hoặc được định hình trên bản ghi âm, ghi hình” so với khái niệm được ghi nhận
trong Điều 12 Nghị định 100/2006/NĐ-CP trước đây. Việc bổ sung này phù hợp
hơn về thực tiễn khi các tác giả không thể hiện dưới dạng nốt hoặc các ký tự âm
9
Trần Thị Thuỳ Dương (2016), Pháp luật quốc tế và kinh nghiệm một số nước về bảo hộ quyền tác giả đối
với tác phẩm âm nhạc, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, tr.6.
11
nhạc khác trong tác phẩm mà được thể hiện trên bản ghi âm, ghi hình thì vẫn được
xem là một tác phẩm âm nhạc và hưởng được cơ chế bảo hộ tự động. Các yếu tố
chính của một tác phẩm âm nhạc là cao độ, trường độ, nhịp điệu, âm điệu, âm sắc
và kết cấu bản nhạc. Tác phẩm âm nhạc rất đa dạng về thể loại, như: nhạc giao
hưởng, nhạc opera, nhạc pop, nhạc rock, nhạc dân ca, nhạc folk, nhạc dance, nhạc
jazz, nhạc blues, nhạc hip hop,...10 Từ định nghĩa khái niệm tác phẩm âm nhạc cho
chúng ta thấy rằng việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc không cần
phụ thuộc vào việc trình diễn hay không trình diễn mà tác phẩm âm nhạc chỉ cần
thỏa mãn các điều kiện để bảo hộ theo quy định của pháp luật.
Tóm lại, tác phẩm âm nhạc là một tài sản trí tuệ của con người được pháp luật
thừa nhận và bảo hộ. Tác phẩm âm nhạc được hiểu là sản phẩm sáng tạo, được thể
hiện dưới dạng nốt trong bản nhạc hoặc các ký tự âm nhạc khác hoặc được định
hình trên bản ghi âm, ghi hình có hoặc không có lời11.
1.2.2. Khái niệm môi trường kỹ thuật số
Từ giữa thế kỷ XX đến thế kỷ XXI, cuộc cách mạng kỹ thuật số diễn ra mạnh
mẽ, đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên kỹ thuật số và lưu giữ hồ sơ kỹ thuật số12.
Thuật ngữ “kỹ thuật số” bắt nguồn từ “chữ số”, như trong thiết bị đếm. Các dịch vụ
kỹ thuật số đại diện cho dữ liệu theo kiểu nhị phân (sử dụng hai cơ số “0” và “1”).
Thay vì một đại lượng vật lý, tín hiệu kỹ thuật số là một dòng mã thông tin cho
phép máy tính biên dịch một bản sao hoàn hảo của dòng mã gốc. Điều này có nghĩa
là mã kỹ thuật số có thể được sao chép gần như vô hạn và không có bất kỳ sự suy
giảm chất lượng nào. Trong bối cảnh âm nhạc, đĩa compact và các tệp bài hát định
dạng MP3 là những ví dụ về âm nhạc kỹ thuật số”13.
Môi trường kỹ thuật số xuất hiện tạo điều kiện cho nhiều tác phẩm bị xâm phạm
quyền tác giả. Quyền tác giả nhằm khuyến khích các hoạt động sáng tạo trong lĩnh
vực văn học, nghệ thuật và khoa học. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc
10
11
Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2021), tlđd (5), tr.59-60.
Nguyễn Thị Đoan Hà (2016), Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc - Thực trạng và kiến nghị
hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.8.
12
Nguyễn Đình Phú, Nguyễn Trường Duy (2013), Giáo trình Kỹ thuật số, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ
Chí Minh, tr.28.
13
Brian T.Yeh (2015), Copyright licensing in music distribution, reproduction, and public performance,
Congressional Research Service, tr.9.
12
làm giàu và phong phú nền di sản văn hoá đất nước. Trên thực tế, để xác định được
hành vi xâm phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số là rất khó14. Hiện nay
kỹ thuật số được ứng dụng rộng rãi trong đời sống của chúng ta như máy ảnh, máy
chiếu, đầu máy kỹ thuật số DVD, VCD, USB, máy ảnh kỹ thuật số.... và ứng dụng
quan trọng nhất, rộng lớn nhất đó là mạng internet. Việc chia sẻ các bản nhạc trong
môi trường kỹ thuật số chủ yếu được thực hiện thông qua môi trường internet mà
phổ biến nhất là chia sẻ thông qua mạng đồng đẳng15.
Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy cập công cộng gồm
các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu
nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được
chuẩn hoá (giao thức IP). Chúng cung cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ
khổng lồ. Internet cung cấp địa chỉ cơ sở hạ tầng để có thể hiện diện trực tuyến và
cho phép tất cả mọi người trên thế giới có thể truy cập đến World Wide Web
(WWW). Khi nhu cầu sử dụng Internet tăng lên, các web-site phải thay đổi để đáp
ứng các yêu cầu mới, từ đó hình thành thế hệ của các Website 1,2,3,4... trong đó
phương thức hỗ trợ việc chia sẻ dữ liệu trên internet phổ biến nhất đó là mạng đồng
đẳng.
Mạng đồng đẳng (tiếng anh “peer to peer network”- P2P), còn gọi là mạng
ngang hàng, là mạng máy tính trong đó hai hay nhiều máy tính được kết nối với
nhau, chia sẻ tập tin, tất cả các dạng âm thanh, hình ảnh và truy cập các thiết bị như
máy in mà không cần phải qua máy chủ dành riêng. Sau khi cài phần mềm P2P
người dùng có thể truy cập vào tất cả các tập tin dữ liệu ghi trong các máy tính nối
mạng trên thế giới mà không cần thông qua máy chủ với điều kiện các máy này
cũng cài phần mềm P2P. Cơ chế trao đổi này cho phép người truy cập internet có
thể sao chép, trao đổi các nội dung có bản quyền như âm nhạc hay phim ảnh một
cách miễn phí mà không cần sự cho phép của người có bản quyền đối với tác
phẩm16. Do đó, họ có cơ hội để chia sẻ và tải các tập tin từ máy cá nhân của những
người khác. Việc phân tán các “đối tượng” này làm cho việc kiểm duyệt trở nên khó
14
Đỗ Huỳnh Yến Vy (2020), tlđd (7), tr.16.
15
Trương Trần Thanh Thư (2013), Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm âm nhạc trong môi trường kỹ
thuật số tại Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.15.
16
Nguyễn Thị Tuyết, “Chia sẻ dữ liệu trong môi trường internet và vấn đề liên quan đến quyền tác giả”, Tạp
chí Luật học, Số 1/2010, tr52.
13
- Xem thêm -