ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ HUYỀN THANH
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ HUYỀN THANH
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hữu Nghị
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT....................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của đấu giá quyền sử dụng đất và hợp đồng đấu
giá quyền sử dụng đất .............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu giá quyền sử dụng đất................................. 6
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất.... 15 1.2.
Điều chỉnh pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ......................... 20 1.2.1. Yêu
cầu điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất .. 20 1.2.2. Nội dung
điều chỉnh của pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất 25 Kết luận chƣơng
1 .................................................................................................... 29 CHƢƠNG 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT Ở VIỆT NAM .............................................................................. 31
2.1. Chủ thể của hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ............................................ 31 2.1.1.
Cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền giao đất hoặc cho thuê đất để đấu giá quyền
sử dụng đất ............................................................................................................... 31
2.1.2. Bên tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất ......................................................... 37 2.2.
Đối tƣợng của hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ........................................ 52 2.3.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng đấu giá quyền sử dụng
đất ............................................................................................................................. 60
2.4. Hình thức hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ............................................... 63 Kết
luận chƣơng 2 .................................................................................................... 66
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
ĐẤU GIÁ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT...................................................................... 68
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ......... 69
3.2. Giải pháp thực hiện pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ........... 81 Kết
luận chƣơng 3 .................................................................................................... 83 KẾT
LUẬN .............................................................................................................. 85 TÀI
LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 88
LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Để phát huy nguồn lực từ đất đai phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện
đại hóa đất nƣớc, từ năm 1993 Thủ tƣớng Chính phủ đã cho phép thực hiện chủ
trƣơng sử dụng quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng. Luật Đất đai 1993 quy định:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nƣớc thống nhất quản lý [41, tr.1]. Nhà nƣớc giao
đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nƣớc, tổ chức chính
trị xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài dƣới
hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất. Nhà
nƣớc cũng tiến hành cho thuê đất có thu tiền sử dụng. Thực tế sử dụng đất tại các địa
phƣơng sau khi Luật Đất đai 1993 có hiệu lực đã chứng minh tính đúng đắn, hợp lý
của chính sách có thu tiền sử dụng. Đây chính là nền tảng, tiền đề quan trọng cho các
chính sách về đấu giá quyền sử dụng đất nói chung và pháp luật về hợp đồng đấu giá
quyền sử dụng đất nói riêng sau này.
Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc thực hiện hợp đồng đấu giá quyền sử dụng
đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất vẫn còn một số bất cập tr ƣớc
áp lƣc của xu thế hội nhập của các tổ chức kinh tế khu vực và quốc tế cũng nhƣ còn
chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật trong nƣớc. Hiệu lực quản lý nhà nƣớc
đối với các tổ chức hoạt động bán đấu giá đất đai tại địa phƣơng ch ƣa cao ảnh hƣởng
đến việc bảo vệ lợi ích của Nhà nƣơc, quyền lợi của cá nhân, tổ chức tham gia bán đấu
giá thể hiện ở công tác tổ chức còn kém, ngƣời tham gia đấu giá chƣa nắm rõ đƣợc vai
trò của mình hay công tác quản lý đất đai và xây dựng đô thị chƣa thống nhất.
Do đó, để khắc phục những hạn chế còn thiếu sót của hệ thống pháp luật về
hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất cần phải tiến hành nghiên cứu, rà soát hiện trạng
cũng nhƣ các quy định hiện nay nhằm hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ, thống
nhất toàn diện. Chính vì vậy, đề tài "Pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng
đất ở Việt Nam" đƣợc nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận, cơ
1
sở thực tiễn, nhằm chỉ ra những điểm hạn chế
của pháp luật thực định. Từ đó tìm ra
những phƣơng hƣớng, giải pháp sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật hiện hành về hợp đồng mua bán nhà ở, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trƣờng
bất động sản ở nƣớc ta phát triển lành mạnh.
2. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn một số nội dung các quy quy định của pháp
luật thực định về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất.
Đánh giá đúng đắn, khách quan, toàn diện các quy định của pháp luật thực
định về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất.
Đánh giá thực trạng việc thực hiện các quy định của pháp luật về hợp đồng
đấu giá quyền sử dụng đất, từ đó đƣa ra phƣơng hƣớng, giải pháp, kiến nghị để hoàn
thiện các quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất.
3. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Với mục đích nghiên cứu, làm rõ những quy định về hợp đồng đấu giá quyền
sử dụng đất; tìm hiểu và đóng góp một phần hiểu biết của mình vào quá trình xây dựng
và hoàn thiện cơ chế pháp lý về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất, Tôi đã chọn đề tài:
"Pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam" làm đề tài cho luận
văn thạc sỹ của mình.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Hợp đồng về đấu giá quyền sử dụng đất là một đề tài rộng, tuy nhiên Luận
văn chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hợp đồng đấu giá
quyền sử dụng đất trong việc đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nƣớc giao đất
có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất;
- Pháp luật đất đai điều chỉnh: trong phạm vi nghiên cứu đề tài của Luận văn,
tác giả chỉ giới hạn trong việc nghiên cứu đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của
2
Đảng, Nhà nƣớc về chính sách đấu giá quyền sử dụng đất của nƣớc ta trong giai
đoạn hiện nay, Bộ luật dân sự và các văn bản luật đất đai. Tuy nhiên, để đảm bảo tính
khoa học, chặt chẽ, tác giả sẽ cố gắng nghiên cứu pháp luật đất đai trong mối quan hệ
biện chứng với các quy phạm pháp luật có liên quan của các ngành luật
khác;
5. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đề cập đến một số khía cạnh về
những vấn đề liên quan đến đề tài nhƣ: Tác giả TS. Đặng Thị Bích Liễu, Trần Quang
Huy, Phạm Xuân Hoàng, ThS. Bùi Thị Tuyết Mai, Trần Đăng Vinh...những vấn đề lý
luận của các bài viết cũng nhƣ các luận văn của các tác giả kể trên vẫn mang ý nghĩa
sâu sắc và có tính kế thừa cao cho những công trình nghiên cứu về sau. Tuy nhiên các
công trình nghiên cứu trên đề cập về đấu giá quyền sử dụng đất nói chung chứ chƣa đi
sâu vào nghiên cứu vấn đề hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin;
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật.
Các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử dụng bao gồm phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp xã hội học để thể hiện
nội dung đề tài.
7. TÍNH MỚI VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1. Tính mới của đề tài
Ở Việt Nam đã có công trình nghiên cứu khoa học, luận văn về bán đấu giá
quyền sử dụng đất, tuy nhiên đều là những nghiên cứu tổng thể về những vấn đề liên
quan đến bán đấu giá hoặc những nghiên cứu về đấu giá quyền sử dụng đất ở
3
các địa phƣơng cụ thể chứ chƣa đi sâu nghiên cứu về hợp đồng đấu giá quyền sử
dụng đất; cũng đã có những công trình nghiên cứu khoa học về hợp đồng song ch ƣa có
ai chọn lựa đề tài cụ thể là hợp đồng trong bán đấu giá quyền sử dụng đất. Nhƣ vậy,
đây là luận văn đầu tiên ở bậc cao học có tính hệ thống, toàn diện về hợp đồng
đấu giá quyền sử dụng đất ở nƣớc ta.
7.2. Những đóng góp của đề tài
Đề tài "Pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất ở Việt Nam"
đƣợc nghiên cứu để đạt đƣợc những kết quả sau:
- Đề tài có tính hệ thống hóa một cách toàn diện những quy định của pháp
luật nƣớc ta về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất từ trƣớc đến nay;
- Xác định đƣợc hiệu quả sự điều chỉnh của các quy định của pháp luật về
hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất, qua đó chỉ ra những điểm hạn chế của pháp luật
thực định về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất, giúp các nhà lập pháp tham khảo để
hoàn thiện hơn những quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời giúp cho các cơ quan
xét xử hoàn thiện hơn cơ chế giải quyết các tranh chấp về hợp đồng đấu
giá quyền sử dụng đất;
- Tác giả đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đấu giá
quyền sử dụng đất đƣợc quy định trong Bộ luật dân sự và pháp luật về đất đai. Cụ thể, là
các quy định liên quan đến đối tƣợng của hợp đồng là đất đ ƣợc nhà nƣớc giao đất có
thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất và giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp
luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất.
8. CƠ CẤU LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất
4
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất tại
Việt Nam
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đấu giá quyền sử dụng
đất
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu không tránh khỏi những thiếu sót, vì
vậy tác giả rất mong nhận đƣợc những lời nhận xét, đánh giá góp ý để có thêm kinh
nghiệm nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực đấu giá quyền sử dụng đất.
5
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ĐẤU GIÁ
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của đấu giá quyền sử dụng đất và hợp
đồng đấu giá quyền sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đấu giá quyền sử dụng đất
Đất đai là một loại tài sản đặc biệt. Về mặt thuật ngữ khoa học, đất đai đƣợc
hiểu theo nghĩa rộng là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng (gồm khí
hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích nƣớc, tài
nguyên nƣớc ngầm và khoáng sản trong lòng đất), theo chiều ngang trên mặt đất (là sự
kết hợp giữa thổ nhƣỡng, đại hình, thủy văn, thảm thực vật cùng các thành phần khác)
giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đôi với hoạt động sản xuất cũng nhƣ cuộc
sống của xã hội loài ngƣời. Luật đất đai năm 1993 của nƣớc ta cũng đã khẳng định: "Đất
đai là tài nguyên vô cùng quý gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ các khu dân cư, xây dựng các cơ sở
kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phong. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn
bao nhiêu công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày
nay"[41, tr.1]. Vai trò của đất đai đối với mỗi ngành cũng rất khác nhau. Đối với các
ngành nông - lâm nghiệp, đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất, là điều kiện
vật chất - cơ sở không gian, đồng thời là đối tƣợng lao động (luôn chịu sự tác động của
quá trình sản xuất nhƣ cày, bừa, xới xáo) và công cụ hay phƣơng tiện lao động (sử dụng
để trồng trọt, chăn nuôi). Quá trình sản xuất nông - lâm nghiệp luôn liên quan chặt chẽ với độ phì
nhiêu sinh học tự nhiên của đất. Đối với các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò
thụ động với chức năng là cơ sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là
kho tàng dự trữ trong lòng đất (các ngành khai thác khoáng sản). Quá trình sản xuất và
sản phẩm đƣợc tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất lƣợng
thảm thực vật và các tính chất tự nhiên có sẵn trong đất. Thực tế cho thấy trong quá trình
phát triển xã hội loài ngƣời, sự hình thành và phát triển của mọi nền văn minh vật chất văn minh tinh thần, các thành tựu khoa học kỹ thuật - văn
6
hóa khoa học đều đƣợc xây dựng trên nền
tảng cơ bản là sử dụng đất. Trong giai
đoạn đầu phát triển kinh tế xã hội, khi mức sống của con ngƣời còn thấp, công năng chủ
yếu của đất đai là tập trung vào sản xuất vật chất, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp.
Thời kỳ cuộc sống xã hội phát triển ở mức cao, công năng của đất đai từng bƣớc đƣợc mở
rông, sử dụng đất đai cũng phức tạp hơn. Đất đai đã cung cấp cho con ngƣời t ƣ liệu
vật chất để sinh tồn và phát triển, cũng nhƣ cung cấp điều kiện cần thiết về hƣởng thụ
và đáp ứng nhu cầu cho cuộc sống của nhân loại. Do vậy, có thể nói đất đai là một trong
những thƣớc đo sự giàu có của một quốc gia. Với tầm quan trọng đặc biệt về chính trị,
kinh tế, xã hội nên ở Việt Nam đất đai đã đƣợc khẳng định là thuộc sở hữu toàn dân
theo Hiến pháp năm 1992[38, tr.4], sửa đổi, bổ sung năm 2001. Nhà nƣớc thực hiện
trao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất ổn định, lâu dài bằng nhiều
hình thức nhƣ: Giao đất, cho thuê đất
hoặc công nhận quyền sử dụng đất.
Giao đất là việc Nhà nƣớc trao quyền sử dụng đất bằng quyết định hành
chính cho ngƣời có nhu cầu về sử dụng đất, bao gồm hình thức giao đất không thu tiền
sử dụng đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất; cho thuê đất là việc Nhà nƣớc trao quyền
sử dụng bằng hợp đồng cho chủ thể có nhu cầu sử dụng đất. Khi Nhà nƣớc thực hiện
việc giao đất, cho thuê đât đối với ngƣời sử dụng đất chính là Nhà nƣớc đã thực hiện
quyền định đoạt của mình đối với đất đai, thực hiện quyền chuyển quyền sử dụng đất
cho ngƣời sử dụng đất với tƣ cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Tùy đối
tƣợng ngƣời sử dụng đất, mục đích sử dụng đất mà Nhà nƣớc thực hiện việc giao đất
hoặc cho thuê đất. Giao đất, cho thuê đất là những nội dung quan trọng của quản lý nhà
nƣơc đối với đất đai, là hoạt động giao trên thực tế đất và quyền sử dụng đất cho các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy
định. Một trong những trình tự quan trọng để đƣợc giao đất (áp dụng đối với giao đất
có thu tiền sử dụng đất) và thuê đất là đấu giá quyền sử dụng đất. Chủ thể của quan hệ đấu
giá quyền sử dụng đất có hai bên: một bên là cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền giao đất,
cho thuê đất với tƣ cách là ngƣời thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với
đất đai, tức bên
7
bán (chủ thể bắt buộc); một bên là các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất
mong muốn đƣợc Nhà nƣớc giao eđất hoặc cho thuê đất, tức bên mua (chủ thể tự
nguyện). Đối tƣợng đấu giá là quyền sử dụng đất.
Nhƣ vậy, có thể khái quát đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nước giao đất
có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất là một phương thức định đoạt tài sản của chủ
sở hữu, là hình thức mua bán tài sản đặc biệt, được tổ chức công khai giữa một bên là
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất với một bên là các tổ chức,
hộ gia đình và cá nhân có nhu cầu sử dụng đất. Theo đó, những người muốn được nhận
quyền sử dụng đất tham gia trả giá từ thấp đến cao theo trình tự, thủ tục nhất định.
Người trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là người được nhận quyền sử dụng
đất đấu giá.
Giao đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất là một trong
những giải pháp quan trọng đƣợc quy định trong Luật đất đai 2003 nhằm đảm bảo tính
công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất đai. Không thể phủ nhận
những vai trò to lớn của đấu giá quyền sử dụng đất. Cụ thể:
Thứ nhất, đấu giá quyền sử dụng đất công khai góp phần giải quyết vấn đề
khiếu kiện trong bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng. Bên cạnh các yếu tố khác nh ƣ giá
đất bồi thƣờng chƣa hợp lý, các biện pháp hỗ trợ chƣa đồng bộ dẫn đến nhiều vụ việc
khiếu nại bồi thƣờng xuất phát từ việc ngƣời bị thu hồi đất cho rằng Nhà nƣớc thu hồi đất
giao cho chủ đầu tƣ thực hiện dự án, giá bồi thƣờng thấp (do chủ yếu đất thu hồi là đất
nông nghiệp) nhƣng chủ đầu tƣ lại bán với giá cao (đặc biệt là đất xây dựng các khu đô
thị, khu thƣơng mại, dịch vụ, đất ở và ở các thời điểm thị trƣờng bất động sản phát triển
nóng dù nhà đầu tƣ khi đƣợc giao đất, cho thuê đất phải thực hiện nộp tiền sử dụng đất,
tiền thuê đất cho Nhà nƣớc theo quy định).
Hơn nữa, có trƣờng hợp khi làm thủ tục thu hồi đất, nhà đầu tƣ lại trực tiếp
đi thƣơng lƣợng với ngƣời bị thu hồi đất hoặc nhà đầu tƣ trong một số trƣờng hợp
đã thực hiện bán, rao bán đất thuộc dự án ngay từ khi dự án vẫn còn trên giấy vô
8
hình chung đã tạo mối quan hệ "trực tiếp" giữa ngƣời bị thu hồi đất và nhà đầy t ƣ.
Nhiều vấn đề phát sinh từ mối quan hệ "trực tiếp" này rất khó dung hòa, đặc biệt là vấn
đề lợi ích giữa các bên, cũng nhƣ xử lý vấn đề tổng thể. Có dự án, chủ đầu tƣ chấp
nhận bỏ thêm tiền ngoài phƣơng án đƣợc duyệt để trả cho ngƣời bị thu hồi đất, thƣờng
là đối với các trƣờng hợp chây ỳ để sớm hoàn thành việc giải phóng mặt bằng.
Phƣơng pháp này có thể giải quyết đƣợc vấn đề cho một dự án nhƣng sẽ làm
phá vỡ mặt bằng chung, ngƣời bị thu hồi đất sẽ có sự so bì dẫn tới khiếu kiện.
Việc đấu giá quyền sử dụng đất sẽ tách đƣợc chủ thể bị thu hồi đất và chủ thể
đƣợc sử dụng đất sau khi thu hồi, chủ thể có nhu cầu sử dụng đất lại phải tham gia đấu
giá công khai tại các cơ quan chức năng, không liên quan đến ngƣời có đất bị thu hồi,
chênh lệch giá đất đƣợc thu vào ngân sách nhà nƣớc. Điều này sẽ làm hạn
chế đáng kể tình trạng khiếu kiện về bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ;
Thứ hai, đấu giá quyền sử dụng đất sẽ tạo ra mặt bằng giá thị trƣờng công
khai, minh bạch. Có nhiều phƣơng thức để xác lập giá thị trƣờng của một mảnh đất,
thửa đất nhƣng cách tốt nhất vẫn là thông qua đấu giá. Các doanh nghiệp thẩm định giá,
các cơ quan nhà nƣớc khi thực hiện việc xác định giá, thẩm định giá, quyết định giá đất,
căn cứ đƣợc coi là đáng tin cậy nhất vẫn là giá đất thông qua đấu giá. Còn ngƣời có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan sẽ "tâm phục, khẩu phục" hơn. Khi hình thức đấu giá
đƣợc áp dụng một cách rộng rãi sẽ tạo ra một mặt bằng giá cho thị trƣờng, góp phần
giải quyết đƣợc bài toán về việc xác định giá đất sát với giá thị trƣờng vốn đang rất bức
xúc hiện nay.
Thứ ba, đấu giá quyền sử dụng đất sẽ hạn chế đƣợc tình trạng "xin - cho"
trong giao đất, cho thuê đất. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì việc giao đất, cho
thuê đất vẫn có tình trạng "tù mù", "xin - cho". Đây là cơ hội để cho tham nhũng nảy
sinh. Với việc phải niêm yết, thông báo công khai thông tin về thời gian, địa điểm,
quyền sử dụng đất đấu giá, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất, đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật đều có cơ hội đƣợc tham gia sẽ khó có cơ
9
hội cho việc dàn xếp. Có thể vẫn có những vấn đề trong đấu giá nh ƣ hiện t ƣợng
thông đồng, "quân xanh, quân đỏ" song không thể phủ nhận những ƣu thế của phƣơng
thức này. Việc có nhiều ngƣời tham gia, cuộc bán đấu giá đƣợc tổ chức công khai, cơ
chế "xin - cho" sẽ dần đƣợc khắc phục, loại bỏ.
Thứ tư, thông qua đấu giá với các điều kiện ràng buộc chặt chẽ về quyền và
nghĩa vụ, nhiều đối tƣợng có cơ hội tiếp cận, đăng ký tham gia cũng sẽ cho phép lựa
chọn đƣợc nhà đầu tƣ có khả năng tốt nhất về kỹ thuật, về tài chính để thực hiện dự án,
cộng với yếu tố mặt bằng sẵn có, dự án sẽ đ ƣợc triển khai một cách nhanh chóng,
thuận lợi, đem lại lợi ích cho cả Nhà nƣớc, nhà đầu tƣ và xã hội. Điều này sẽ hạn chế
đƣợc tình trạng dự án treo hoặc đất bỏ hoang không đƣợc đƣa vào sử dụng nhƣ đang
diễn ra ở nhiều nơi nhƣ hiện nay. Thực tế, các dự án thực hiện đấu giá quyền sử dụng
đất có rất ít dự án bị bỏ hoang.
Trong quan hệ với đất đai, Nhà nƣớc là đại diện chủ sở hữu, đồng thời là một
tổ chức chính trị - quyền lực, đại diện cho toàn xã hội thực hiện thống nhất quản lý đất đai
trong phạm vi lãnh thổ. Giao đất, cho thuê đất là những nội dung quan trọng của quản
lý nhà nƣớc về đất đai. Nhà nƣớc giao đất có thu tiền sử dụng đât, cho thuê đất bằng
hình thức đấu giá quyền sử dụng đất là đã tạo một "kênh" quan trọng để phân phối quỹ
đất đai cho các tổ chức, cá nhân sử dụng theo quy hoạch và pháp luật. Để có thể phản ánh
đúng giá trị thực của đất đai trên thị trƣờng, tạo khả năng điều tiết nguồn lợi đất đai cho
việc phát triển kinh tế và đời sống dân sinh, pháp luật đất đai quy định: Nhà nƣớc giao
đất có thu tền sử dụng đất, cho thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất hoặc
đấu thầu dự án có sử dụng đất. Việc Nhà nƣơc giao đất hoặc cho ngƣời sử dụng đất
thuê đất theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất có nghĩa là, Nhà nƣớc với tƣ cách
đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, trực tiếp đƣa quyền sử dụng đất vào tham
gia thị trƣờng quyền sử dụng đất trong thị trƣờng bất động sản. Do vậy, đấu giá quyền
sử dụng đất có chủ
thể và đối tƣợng đặc biệt. Cụ thể:
10
Thứ nhất, đối tƣợng của đấu giá thƣơng mại là hàng hóa - là tài sản (bao
gồm cả quyền tài sản), còn trong quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất, đối tƣợng đấu giá chỉ
là quyền tài sản mà không bao hàm tài sản (đấu giá mà không dẫn đến thay đối chủ sở
hữu đối với tài sản). Do tính chất sở hữu đối với đất đai (đất đai thuộc sở hữu toàn dân)
và vai trò quan trọng của đất đai đối với đời sống của con ngƣời, trong phát triển kinh
tế - xã hội, nên khi tham gia thị trƣờng, đất đai không hoàn toàn giống nhƣ các tài sản
khác, đất đai không thể đƣợc đem ra mua bán, trao đổi trên thị trƣờng. Đất đai (với nghĩa
là một khoảnh đất, một diện tích xác định ở một vị trí nào đó) không phải là đối tƣợng
trực tiếp tham gia thị trƣờng bất động sản, tham gia giao lƣu dân sự. Cái mà đƣợc
gọi là "hàng hóa" trao đổi trên thị trƣờng, đem ra đấu giá chính là quyền sử dụng đất một quyền tài sản do Nhà nƣớc quản lý. Nhƣ vậy, trong quan hệ đấu giá quyền sử
dụng đất để Nhà nƣớc giao đất hoặc cho thuê đất, đối tƣợng đem ra đấu giá là quyền sử
dụng đất (một quyền tài sản) và quyền sử dụng đất là quyền phái sinh từ tài sản là đất.
Thứ hai, về chủ thể của đấu giá quyền sử dụng đất
Với tính chất là một phƣơng thức để Nhà nƣớc thực hiện giao đất có thu tiền
hoặc cho các tổ chức, cá nhân thuê đất, trong quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất,
ngƣời có tài sản bán đấu giá bắt buộc phải là cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền giao đất
hoặc cho thuê đất. Ngƣời tham gia đấu giá phải là các tổ chức, cá nhân đáp ứng đủ các
điều kiện do pháp luật đất đai quy định nhƣ: Có năng lực hành vi dân sự, có khả năng sử
dụng đất đƣợc giao đúng mục đích đã đƣợc cơ quan có thẩm quyền phê duyệt (có điều
kiện về vốn, đáp ứng khả năng tài chính). Ngoài ra, còn phải đáp ứng các điều kiện khác
về sử dụng đất do pháp luật quy định.
Trong quan hệ đấu giá thƣơng mại, ngƣời có hàng hóa bán đấu giá là chủ sở
hữu tài sản hoặc ngƣời đƣợc chủ sở hữu ủy quyền bán tài sản. Còn ngƣời có tài sản
bán đấu giá quyền sử dụng đất không phải là chủ sở hữu hay ngƣời đƣợc chủ sở hữu ủy
quyền về đất đai, mà là các cơ quan quản lý nhà nƣớc về đất đai có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật - đại diện cho chủ sở hữu đƣợc quyền quy định, xét
11
mức giá khởi điểm, bƣớc giá, xác nhận kết
quả đấu giá, thu tiền theo kết quả trúng
đấu giá và sử dụng số tiền thu đƣợc theo quy định. Khi tổ chức đấu giá, bên tổ chức đấu
giá (có thể là cơ quan quản lý nhà nƣớc hoặc tổ chức đấu giá tƣ nhân) có nghĩa vụ
thông báo công khai hồ sơ mời đấu giá, những nội dung có liên quan đến thửa đất, hình
thức trả giá, kết quả đấu giá; ban hành quy chế đấu giá; xác định tƣ cách ngƣời tham
gia đấu giá; giá khởi điểm, bƣớc giá, kết quả đấu giá; hoàn thiện các giấy tờ pháp lý về
quyền sử dụng đất và bàn giao cho các tổ chức, cá nhân trúng giá.
Ngƣời tham gia đấu giá trong quan hệ đấu giá thƣơng mại nói chung là các
cá nhân có năng lực hành vi, đại diện các tổ chức có năng lực chủ thể pháp lý theo quy
định của pháp luật. Còn ngƣời tham gia đấu giá quyền sử dụng đất là các tổ chức, cá
nhân bị hạn chế bởi các điều kiện của quy trình đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất.
Các điều kiện này bao gồm điều kiện để đƣợc tham gia đấu giá, điều kiện (nghĩa vụ) khi
tham gia đấu giá và điều kiện khi trúng đấu giá.
Để đƣợc tham gia đấu giá quyền sử dụng đất, tổ chức, cá nhân tham gia phải
đáp ứng các điều kiện nhất định. Đầu tiên, tổ chức, cá nhân đó phải thuộc đối t ƣợng
đƣợc Nhà nƣớc giao đất theo hình thức có thu tiền sử dụng đất hoặc Nhà nƣớc cho
thuê đất. Hai là, các tổ chức, cá nhân phải có nhu cầu sử dụng đất, có đủ điều kiện về
vốn và kỹ thuật hoặc khả năng tài chính đáp ứng yêu cầu sử dụng đất theo quy hoạch và
nguồn tài chính này phải không có nguồn gốc ngân sách. Ba là, ngƣời tham gia đấu giá
không thuộc trƣờng hợp bị pháp luật cấm tham gia đấu giá. Ngoài ra, họ còn phải thực
hiện đầy đủ các thủ tục về đăng ký tham gia đấu giá theo Quy chế đấu giá do bên tổ
chức đấu giá ban hành phù hợp với quy định của pháp luật về đấu giá quyền sử dụng
đất. Mục đích của việc quy định trên là để đảm bảo quyền sử dụng đất đƣợc giao phù
hợp với mục đích sử dụng các loại đất, phù hợp với cơ chế tài chính trong hoạt động
của cơ quan nhà nƣớc cũng nhƣ đảm bảo an ninh quốc gia, dân tộc.
12
Bên cạnh các quyền cơ bản khi tham gia đấu giá nhƣ quyền thực hiện đăng
ký tham gia đấu giá trong thời hạn, ủy quyền bằng văn bản cho ngƣời khác thay mặt mình
tham gia đấu giá, quyền đƣợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền đƣợc nhận
lại tiền đặt cọc theo luật định; tổ chức tham gia đấu giá quyền sử dụng đất phải thực hiện
nhiều trách nhiệm tƣơng đƣơng. Các trách nhiệm này bao gồm nộp phí tham gia đấu giá
và khoản tiền đặt trƣớc (tiền đặt cọc) cho bên tổ chức đấu giá, bỏ giá theo đúng hình thức
đấu giá mà quy chế đấu giá quy định. Việc nộp một khoản tiền đặt trƣớc theo quy định
cho bên tổ chức đấu giá là một hình thức ràng buộc bên tham gia đấu giá phải thực hiện
các nghĩa vụ của mình khi tham gia đấu giá do pháp luật quy định và khoản tiền đặt
trƣớc này nhƣ là một bảo đảm cho bên tổ chức đấu giá trong trƣờng hợp bên tham gia
đấu giá không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ của mình. Còn phí
tham gia đấu giá quyền sử dụng đất, là khoản tiền mà ngƣời đăng ký tham gia đấu giá
quyền sử dụng đất phải nộp cho bên tổ chức đấu giá, khoản phí này dùng để trang trải
các chi phí cho quá trình tổ chức bán đấu giá có quyền sử dụng đất. Căn cứ hình thức đấu
giá đƣợc quy định trong quy chế đấu gia, việc bỏ giá theo đúng hình thức đấu giá là để
đảm bảo giá trị pháp lý của việc bỏ giá. Hậu quả của việc không tuân thủ, vi phạm quy
chế đấu giá dù cố ý hay vô ý đều dẫn đến việc bỏ giá trở nên không có giá trị pháp lý và
đƣơng nhiên ngƣời tham gia đấu giá phải chấm dứt việc tham gia đấu giá và chịu
trách
nhiệm về việc không tuân thủ này.
Trƣờng hợp trúng giá (ngƣời bỏ giá cao nhất), ngƣời trúng giá xác nhận kết
quả đấu giá, phải nộp tiền sử dụng đất (hoặc tiền thuê đất) theo kết quả đấu giá dã đƣợc
phê duyệt, theo tiến độ quy định trong hồ sơ dự đấu giá; phải làm các thủ tục để nhận đất;
phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của Nhà nƣớc về quản lý đất đai, môi trƣờng,
quản lý quy hoạch, đầu tƣ và xây dựng. Ngƣời trúng đấu giá đƣợc giao sử dụng ổn định
lâu dài hoặc đƣợc thuê đất với thời hạn tùy theo loại đất, mục đích sử dụng của đất
trúng đấu giá mà cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đã quyết định. Ngƣời trúng đấu giá
quyền sử dụng đất đƣợc Nhà nƣớc giao đất hoặc cho thuê đất. Đƣợc chuyển giao một
cách có điều kiện quyền chiếm hữu, quyền quản lý và
13
quyền sử dụng đất chứ không đƣợc chuyển
giao quyền sở hữu đất đai. Không có
quyền sở hữu đối với diện tích đất trúng đấu giá mà chỉ có quyền sử dụng (không thể trở
thành trở thành chủ sở hữu tài sản trúng đấu giá) là một đặc trƣng của đấu giá quyền
sử dụng đất so với các loại hình đấu giá khác. Ngƣời trúng đấu giá đƣợc hƣởng các
quyền và phải thực hiện các nghĩa vụ của ngƣời sử dụng đất theo quy định của pháp
luật (ví dụ: Quyền đƣợc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ờ
và tài sản khác gắn liền với đất; quyền đƣợc nhà nƣớc bảo hộ khi bị ngƣời khác xâm
phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình; co nghĩa vụ sử dụng đất đúng diện
tịch, đúng mục đích, đúng thời hạn, tuân thủ quy hoạch sử dụng đất theo dự án đầu tƣ đã
đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền phê duyệt). Đồng thời họ cũng phải thực hiện
các quy định của Nhà nƣớc về quản lý, sử dụng đất đai, môi trƣờng; quản lý quy
hoạch, đầu tƣ, kiến trúc và xây dựng; nộp tiền sử dụng đất theo giá trúng đấu giá; không
đƣợc thay đổi mục đích sử dụng đất; không đƣợc bỏ hoang hóa gây lãng phí đất đai;
phải thực hiện việc xây dựng theo đúng giấy phép xây dựng, trong thời hạn mà quy chế
đấu giá quy định.
Tóm lại, từ góc độ tính chất sở hữu, tính chất hoạt động quản lý nhà nƣớc về
đất đai, Nhà nƣớc với tƣ cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất đai, thực hiện
hành vi giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất
là thực hiện quyền định đoạt đối với đất đai, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về đất
đai. Nhƣ vậy, quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất là quan hệ pháp luật phát sinh trong
quá trình Nhà nƣớc thực hiện quản lý nhà nƣớc về đất đai. Từ những đặc trƣng trên cho
thấy, quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nƣớc giao đất hoặc cho thuê đất có tính
chất hành chính, là một quan hệ hành chính. Theo tính chất này, sự điều chỉnh của pháp
luật đối với quan hệ đấu giá quyền sử dụng đất phải đảm bảo tƣ cách đại diện chủ sở
hữu của Nhà nƣớc đối với đất đai, đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc của quản lý nhà
nƣớc về đất đai, bảo đảm Nhà nƣớc thống nhất quản lý đất đai trong phạm vi toàn bộ
lãnh thổ quốc gia. Một ví dụ cho thấy tính chất hành chính của quan hệ đấu giá quyền sử
dụng đất là tiền thu. Nếu nhƣ tiền thu đƣợc từ đấu giá thƣơng mại sau khi trừ các
khoản phí và chi phí bán
14
đấu giá hoàn toàn thuộc chủ sở hữu. Chủ sở
hữu có toàn quyền định đoạt đối với
tiền thu đƣợc từ đấu giá hàng hóa. Còn tiền thu đƣợc từ đấu giá quyền sử dụng đất đƣợc
sử dụng để đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng chung phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế, xã
hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiền thu từ đấu giá quyền sử dụng đât phải đƣợc nộp vào
một tài khoản riêng tại Kho bạc Nhà nƣớc hoặc thu nộp ngân sách nhà nƣớc hàng năm.
Việc cấp phát vốn để thực hiện các dự án đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng chung bằng vốn
thu đƣợc từ đấu giá quyền sử dụng đất phải tuân theo các quy định hiện hành về quản
lý đầu tƣ, xây dựng và quản lý ngân sách nhà nƣớc.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hợp đồng đấu giá quyền sử dụng đất
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo ph ƣơng thức trả
giá lên, có từ hai ngƣời trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục
đƣợc pháp luật quy định, trong đó phƣơng thức trả giá lên là phƣơng thức trả giá từ
thấp lên cao cho đến khi có ngƣời trả giá cao nhất. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất,
khái niệm bán đấu giá quyền sử dụng đất lại có nhiều nội dung khác biệt hơn, cụ thể nhƣ
trên đã nêu đấu giá quyền sử dụng đất để Nhà nƣớc giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc
cho thuê đất là một phƣơng thức định đoạt của chủ sở hữu, là hình thức mua bán tài sản
đặc biệt, đƣợc tổ chức công khai, giữa một bên là cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
giao đất, cho thuê đất với một bên là các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng đất. Theo
đó, những ngƣời muốn nhận đƣợc quyền sử dụng đất tham gia trả giá từ thấp đến cao
theo trình tự, thủ tục nhất định. Ngƣời trả giá cao nhất và ít nhất bằng giá khởi điểm là
ngƣời nhận đƣợc quyền sử dụng đất đấu giá.
Trong khi hợp đồng bán đấu giá tài sản là thỏa thuận giữa tổ chức bán đấu
giá tài sản và ngƣời có tài sản bán đấu giá hoặc ngƣời đại diện của ngƣời đó về việc đấu
giá tài sản theo nguyên tắc, thủ tục đƣợc pháp luật quy định; hợp đồng bán đấu giá
quyền sử dụng đất có những điểm khác biệt cơ bản so với hợp đồng bán đấu giá tài sản nói
chung. Sự khác biệt thể hiện ở chủ thể, đối tƣợng và thủ tục, hình thức thể hiện trong
hợp đồng. Về tổng quát, hợp đồng bán đấu giá quyền sử dụng đất là
15
- Xem thêm -