ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGÔ THỊ NHƢ HUẾ
BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ
TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Minh Tuấn
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Ngô Thị Nhƣ Huế
MỤC
LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO
ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN
DỤNG..................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ, phân biệt quyền đòi nợ với một số
quyền tài sản khác ............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm quyền đòi nợ.......................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm quyền đòi nợ ......................................................................... 10
1.1.3. Phân biệt quyền đòi nợ với một số quyền tài sản khác......................... 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín
dụng ................................................................................................................. 19
1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ...... 19
1.2.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín
dụng................................................................................................................. 20
1.3. Vai trò của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng .... 26
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT
NAM ..................................................................................................... 28
2.1. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ
chức tín dụng................................................................................................... 28
2.1.1. Khái quát pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức
tín dụng............................................................................................................ 28
2.1.2. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ
chức tín dụng................................................................................................... 29
2.2. Điều kiện, trình tự thủ tục nhận tài sản bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ
tại tổ chức tín dụng..................................................................................... 37
2.2.1. Các điều kiện khi tổ chức tín dụng nhận quyền đòi nợ làm tài sản bảo
đảm tiền vay .................................................................................................... 37
2.2.2. Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ tại tổ chức tín
dụng ................................................................................................................. 47
2.3. Phạm vi bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ ......................................... 50
2.4. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ...... 55
2.4.1. Loại hợp đồng bảo đảm được ký kết..................................................... 55
2.4.2. Đối tượng của hợp đồng bảo đảm......................................................... 56
2.4.3. Nội dung của hợp đồng bảo đảm .......................................................... 58
2.4.4. Các bên chủ thể của hợp đồng bảo đảm................................................ 58
2.4.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo đảm .................... 59
2.4.6. Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm ........................................................... 60
2.4.7. Công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm.......................................... 62
2.5. Quản lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ................................................. 64
2.6. Xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ..................................................... 65
2.6.1. Phương thức xử lý................................................................................. 65
2.6.4. Kê biên tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ .............................................. 67
2.7. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng..................................................................................... 68
Chƣơng 3: MỘT SỐ PH ƢƠNG H ƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG QUYỀN
ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM ..................... 70
3.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam................................................ 71
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam................................................................. 73
3.3. Một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam................................................ 74
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về bảo đảm tiền
vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam ................................ 75
3.3.2. Có cơ chế đồng bộ nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý và bảo đảm thực
hiện trên thực tế bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở
Việt Nam ......................................................................................................... 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 86
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
NHNN
: Ngân hàng Nhà nước
TCTD
: Tổ chức tín dụng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động cho vay của TCTD đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với
đời sống kinh tế xã hội. Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của
TCTD ở Việt Nam là rất cần thiết, vì hoạt động này tiềm ẩn rủi ro cao và
mang tính hệ thống.
Làm dịch vụ trung gian tiền tệ, TCTD nhận tiền gửi của khách hàng
sau đó cho khách hàng khác vay lại bằng chính nguồn tiền đó, hoạt động của
TCTD chính vì vậy luôn tiềm ẩn rủi ro. Để hạn chế những rủi ro cho hoạt
động của mình, trong quan hệ cho vay, bên cạnh việc kiểm tra, thẩm định,
đánh giá bên vay, TCTD thường yêu cầu bên vay phải có biện pháp bảo đảm
tiền vay. Trong đó, bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ là một trong những
biện pháp bảo đảm được pháp luật công nhận, bảo hộ, được TCTD và bên vay
lựa chọn áp dụng. Tuy nhiên, biện pháp bảo đảm này hiện nay chưa được áp
dụng rộng rãi hay nói đúng hơn các TCTD không "hào hứng" lắm với việc
nhận tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ. Các văn bản pháp luật hiện hành quy
định khá ít và có phần chung chung về quyền tài sản nói chung cũng như
quyền đòi nợ nói riêng. Có thể điểm đến một số văn bản quy định quyền đòi nợ
như sau: BLDS năm 2005, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 163), Nghị
định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 163 (sau đây gọi tắt là Nghị định số 11); Nghị
định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch
bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 83). Thông tư liên tịch số
16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/6/2014 hướng dẫn một số vấn
đề về xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 16). Pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD còn thiếu những
1
quy định, hướng dẫn cụ thể dẫn đến
gặp rất nhiều khó khăn trong việc áp
dụng pháp luật vào thực tiễn và do đó, biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ chưa được sử dụng phổ biến.
Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề pháp lý và thực tiễn
của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ nhằm góp phần hoàn thiện các quy
định pháp luật về vấn đề này để tạo thuận lợi cũng như thúc đẩy các giao
dịch dân sự liên quan tới quyền đòi nợ, tác giả quyết định lựa chọn nghiên
cứu về đề tài "Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại các tổ chức
tín dụng theo pháp luật Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ luật học, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đề
cập đến pháp luật về quyền đòi nợ và bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ.
Có một số bài trao đổi, nghiên cứu liên quan đến giao dịch bảo đảm
bằng quyền đòi nợ được đăng tải trên một số trang web và tạp chí chuyên
ngành tài chính ngân hàng như:
- Bài viết:"Giao dịch có đối tượng là quyền đòi nợ" của ThS. Bùi Đức
Giang đăng tải trên Web Thông tin pháp luật dân sự ngày 12/11/2013;
- Bài viết: "Quyền ưu tiên thanh toán của Bên nhận thế chấp quyền
đòi nợ" của ThS. Bùi Đức Giang đăng tải trên Tạp chí Ngân hàng, số 17,
tháng 09/2012;
- Bài viết: "Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ" của
ThS. Bùi Đức Giang đăng tải trên Tạp chí Ngân hàng, số 5 (301), năm 2013;
- Bài viết: "Một số hạn chế của chế định thế chấp quyền đòi nợ theo
quy định hiện hành" của ThS. Bùi Đức Giang đăng tải trên Tạp chí Ngân
hàng, số 21, tháng 11/2011.
Ngoài ra, một số khía cạnh pháp lý liên quan đến nghiệp vụ cho vay
trên cơ sở có bảo đảm bằng thế chấp quyền đòi nợ cũng được nhiều bài báo
viết, báo điện tử đăng tải.
2
Nhưng, các bài trao đổi, bài viết trên đây chỉ mới dừng lại ở việc phân
tích quyền đòi nợ là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự. Qua quá
trình tra cứu tài liệu cho thấy, hiện chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách toàn diện, đầy đủ về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu
để tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn áp dụng bảo đảm
tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
M ụ c đ í c h c ủ a l u ậ n v ă n l à n g h i ê n c ứu n h ữ n g v ấ n đ ề l ý l u ậ n v à t h ực
tiễn của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD, từ đó
thấy được những kết quả cũng như những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân của
những hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật v ề v ấ n
đ ề n à y.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ tại TCTD như: khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ với tư cách là
một tài sản bảo đảm; khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng
quyền đòi nợ; nội dung pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận
định khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của
pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ
tại TCTD ở Việt Nam.
- Đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản
nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở
Việt Nam.
3
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo
đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ
với pháp luật về quyền tài sản và các văn bản pháp lý chuyên ngành tài chính
ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, làm nổi bật các
đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD so với các biện
pháp bảo đảm dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác.
Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện
các tồn tại, bất cập và kiến nghị phương hướng khắc phục, hoàn thiện.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả
đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và
các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh để lý
giải những vấn đề đặt ra.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền
đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể,
luận văn có những đóng góp mới là:
- Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý
luận cơ bản của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD.
- N ê u v à p h â n t í c h n g u yê n n h â n , đ á n h g i á t h ự c t r ạ n g p h á p l u ậ t v à
thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi tại
TCTD ở Việt Nam;
- Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện
pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại TCTD ở Việt Nam nhằm
góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi.
4
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục các chữ viết tắt và Tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay
bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi
nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN
VAY BẰNG QUYỀN ĐÒI NỢ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền đòi nợ, phân biệt quyền đòi nợ với
một số quyền tài sản khác
1.1.1 Khái niệm quyền đòi nợ
Quyền dân sự là khả năng pháp luật cho phép chủ thể hưởng một lợi
ích vật chất, tinh thần hoặc yêu cầu người khác thực hiện một nghĩa vụ cho
mình. Nghĩa vụ của bên kia có thể phải làm một công việc hoặc không được
thực hiện một công việc hoặc phải chuyển tài sản
Quyền đòi nợ là một loại tài sản theo quy định của BLDS năm 2005.
Đây là một tài sản vô hình mà chúng ta không thể nắm giữ trực tiếp. Quyền
đòi nợ có tính chất khá đặc biệt vì nó phản ánh việc một nghĩa vụ vừa là một
mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là một loại tài sản.
Dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền đòi nợ là một loại quyền
tài sản [24, khoản 1 Ðiều 322] và quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài sản
theo quy định hiện hành [24, Ðiều 163]. Như vậy, có thể hiểu quyền đòi nợ tự
thân nó là một tài sản. Ðối tượng của quyền đòi nợ chính là khoản tiền sẽ được
thanh toán vào một thời điểm nhất định. Quyền đòi nợ là một tài sản đặc biệt.
Tài sản đó ở dạng vô hình hay nó là một dạng của quyền tài sản. Quyền tài
sản có rất nhiều nhưng chỉ những quyền tài sản đáp ứng một số điều kiện nhất
định quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 mới trở thành đối tượng trong các
giao dịch dân sự.
Dưới góc độ kế toán, quyền đòi nợ là một "khoản phải thu". Khoản
phải thu là bộ phận tài sản của doanh nghiệp đang bị các đơn vị hoặc cá nhân
khác chiếm dụng mà doanh nghiệp có trách nhiệm thu hồi. Khoản phải thu có
liên quan đến các đối tác có quan hệ kinh tế đối với doanh nghiệp bao gồm
6
các khoản: khoản phải thu từ khách
hàng, khoản ứng trước cho người bán,
khoản phải thu nội bộ, khoản tạm ứng cho công nhân viên, các khoản thế
chấp, ký cược, ký quỹ, các khoản phải thu khác. Có thể nói nôm na "khoản
phải thu" là số tiền khách hàng nợ doanh nghiệp do mua chịu hàng hóa hoặc
dịch vụ. Trong lĩnh vực kế toán, có thể nói hầu hết các công ty đều phát sinh các
khoản phải thu nhưng với mức độ khác nhau, từ mức không đáng kể cho đến
mức không thể kiểm soát nổi. Kiểm soát khoản phải thu liên quan đến việc
đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro. Khoản phải thu của doanh nghiệp phát sinh
nhiều hay ít phụ thuộc vào các yếu tố như tình hình nền kinh tế, giá cả sản
phẩm, chất lượng sản phẩm, và chính sách bán chịu của doanh nghiệp.
Đứng ở góc độ của pháp luật nghĩa vụ thì quyền đòi nợ là một dạng
của quyền yêu cầu quy định tại các điều từ Điều 309 đến Điều 314 của BLDS
năm 2005. Đó là quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc,
cụ thể là phải thanh toán một khoản tiền cho bên có quyền tại một thời điểm do
các bên thỏa thuận trong hợp đồng. Thời điểm thỏa thuận này có thể là một thời
điểm nhất định trong tương lai, nhưng quyền đòi nợ có thể được thanh toán khi
bên có quyền yêu cầu hay khi phát sinh một sự kiện tương lai nhất định mà các
bên đã thỏa thuận. Bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc thanh toán này từ phía
bên có nghĩa vụ chứ không thể yêu cầu một bên thứ ba làm việc này bởi quyền
đòi nợ chỉ thiết lập các mối quan hệ giữa bên có quyền và bên có nghĩa vụ mà
thôi. Ðiều này minh họa cho tính chất tương đối của quyền đòi nợ.
Trong khoa học pháp lý người ta chia quyền tài sản ra ba loại: quyền
đối vật hay còn gọi là vật quyền; quyền đối nhân hay còn gọi là trái quyền;
quyền sở hữu trí tuệ. Quyền đối vật là quyền cho phép một người được hưởng các
quyền năng trực tiếp và ngay lập tức đối với một vật mà không cần vai trò của
một người khác. Quyền đối vật chỉ bao gồm hai yếu tố: chủ thể của quyền và vật,
đối tượng của quyền. Hay quyền đối vật là quyền trực tiếp trên vật. Còn quyền
đối nhân là quyền yêu cầu người có nghĩa vụ phải làm hoặc không
7
làm một việc nào đó. Thông thường,
quyền đối nhân phát sinh từ quan hệ hợp
đồng nhưng cũng có thể phát sinh do các căn cứ khác do pháp luật quy định.
Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: "quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự". Như vậy, theo luật
Việt Nam, nếu quan hệ trái quyền có thể tính được thành tiền và chuyển giao được
thì trái quyền đó mới là quyền tài sản. Vật quyền và trái quyền có những sự khác
biệt cơ bản sau: thứ nhất, vật quyền mang tính chất tuyệt đối theo nghĩa tất cả
những người khác trong xã hội có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền năng của
người được hưởng vật quyền, và người này được thực hiện các quyền trực tiếp
đối với tài sản. Trái lại, trong quan hệ trái quyền mang tính chất tương đối, nó
chỉ mối quan hệ giữa người có quyền và người có nghĩa vụ và về mặt nguyên
tắc, nó chỉ có hiệu lực tương đối giữa hai người này mà thôi. Thứ hai, trong
quan hệ vật quyền, người có quyền có thể trực tiếp khai thác tài sản và có
quyền đòi lại tài sản dù tài sản đang nằm trong tay ai. Trái lại, trong quan hệ trái
quyền, người có quyền chỉ có thể yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ
chứ không có quyền cụ thể đối với tài sản này hay tài sản kia của người có nghĩa
vụ. Theo quan niệm này thì quyền tài sản tương ứng với trái quyền và quyền đòi
nợ là một trái quyền.
Xét về mặt ngôn ngữ, bản thân thuật ngữ quyền đòi nợ tự nó "toát lên"
những đặc điểm riêng biệt để nhận biết, trước tiên nó là một quyền, và quyền này
là quyền được yêu cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với
mình. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể được
pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Nói một các nôm na thì quyền đòi nợ là một
quyền có giá trị tiền tệ nhưng không có đối tượng là một vật hữu hình nào:
người có quyền đòi nợ thực hiện quyền của mình bằng cách yêu cầu người
mắc nợ thực hiện nghĩa vụ trả nợ và tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ đó dưới
hình thức nhận một số tiền.
8
Pháp luật thực định không đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền đòi
nợ. Trước đây, Thông tư số 04/2007/TT-BTP ngày 17/5/2007 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về
hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng cho thuê tài
chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ đã định nghĩa quyền đòi nợ theo
hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua bán,
hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn cứ hợp pháp
khác. Song, danh sách này đã bị hủy bỏ bởi Thông tư số 05/2011/TT-BTP của
Bộ Tư pháp ngày 16/02/2011 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp
thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài sản thi
hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm
Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc
Bộ Tư pháp, nên hiện nay chưa có văn bản nào quy định rõ quyền đòi nợ là gì.
Vì pháp luật thực định chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể về quyền đòi nợ,
chưa quy định cụ thể các tiêu chí, đặc điểm để nhận biết về quyền đòi nợ, nên
các TCTD gặp nhiều khó khăn trong việc xác định quyền đòi nợ để nhận thế
chấp. Liệu có phải bất kỳ quyền đòi một khoản tiền phát sinh từ bất kỳ loại
hợp đồng nào cũng được coi là quyền đòi nợ và đều được nhận làm tài sản thế
chấp, trong khi pháp luật thực định đặt ra cho Bên nhận thế chấp nghĩa vụ
chứng minh quyền được đòi nợ đối với bên có nghĩa vụ trả nợ.
Nghị định số 163 là văn bản có các quy định riêng cho việc thế chấp
quyền đòi nợ (chủ yếu là Điều 22, Điều 59 và Điều 66). Nghị định số 163 đã
được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 11. Nghị định số 11 có hiệu lực kể từ
ngày 10/4/2012. Tuy vậy, các quy định tại Nghị định số 163 chưa đề cập hết
các khía cạnh của loại hình giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền đòi nợ
này và phải áp dụng các quy định chung của BLDS và Nghị định số 163 về
giao dịch bảo đảm nói chung và về thế chấp tài sản đối với các vấn đề không
được xử lý một cách riêng biệt bởi các quy định này.
9
Các văn bản luật hiện không đưa ra khái niệm thế nào là "quyền đòi
nợ". Tuy nhiên, theo những phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm sau về
Quyền đòi nợ: Quyền đòi nợ là một quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ
theo đó nó mang tới cho người sở hữu quyền này có quyền yêu cầu bên có nghĩa
vụ phải thực hiện một nghĩa vụ tài chính đối với bên có quyền. Quyền đòi nợ là
một loại quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ, tức là một khoản tiền.
Quyền đòi nợ được liệt kê tại Điều 322 của BLDS năm 2005 như một trong số
các quyền tài sản có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Không chỉ là
đối tượng của giao dịch bảo đảm, quyền đòi nợ còn được mua, bán theo quy định
tại Điều 449 BLDS năm 2005 về mua bán quyền tài sản.
Nói chung, cho dù dưới góc độ nào, việc nhận thức chính xác khái
niệm về quyền đòi nợ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập và
thực hiện các giao dịch liên quan đến quyền đòi nợ, cũng như trong việc xây
dựng quy định pháp luật liên quan đến quyền đòi nợ. Theo tác giả, quyền đòi
nợ là một quyền tài sản có đối tượng là một khoản nợ theo đó nó mang tới
cho người sở hữu quyền này có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện
một nghĩa vụ tài chính đối với bên có quyền.
1.1.2 Đặc điểm quyền đòi nợ
Là một quyền tài sản, quyền đòi nợ cũng có đầy đủ những đặc điểm
của một quyền tài sản. Hai điều kiện để được coi là quyền tài sản cũng chính là
hai đặc điểm của quyền đòi nợ. Điều 181 BLDS năm 2005 quy định: "quyền
tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao được trong giao
dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ". Theo đó, quyền đòi nợ có hai đặc điểm:
Thứ nhất, quyền đòi nợ phải trị giá được bằng tiền hay là phải tương đương
với một đại lượng vật chất nhất định; Thứ hai, quyền đòi nợ đó có thể chuyển
giao được trong giao dịch dân sự.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về quyền đòi nợ nhưng cho dù được
hiểu theo cách nào thì quyền đòi nợ vẫn phải mang những đặc điểm đặc trưng,
những thuộc tính cơ bản để nhận biết đó là một quyền tài sản và để phân biệt
10
quyền đòi nợ với các loại quyền tài sản
khác. Mặc dù, BLDS năm 2005 không
hề có điều khoản nào quy định về khái niệm cũng như các đặc điểm của
quyền đòi nợ để phân biệt với các loại tài sản khác. Tuy nhiên, từ việc phân tích
tại Mục 1 phần này, có thể thấy rằng quyền đòi nợ có hai đặc điểm, thuộc tính cơ
bản là: (1) Trị giá được bằng tiền; (2) Có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ
thể khác trong giao dịch dân sự.
Thứ nhất, quyền đòi nợ trị giá được bằng tiền.
Một trong những đặc điểm nổi bật của quyền tài sản nói chung cũng
như quyền đòi nợ nói riêng đó là có thể trị giá được bằng tiền, nghĩa là phải
tương đương với một đại lượng vật chất nhất định. Thật vậy, qua khái niệm về
quyền đòi nợ như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng vì bản thân quyền đòi nợ
là xác nhận quyền yêu cầu trả nợ, quyền yêu cầu thanh toán một khoản tiền
trong một thời hạn nhất định và khoản tiền đó đã được xác định rõ trên văn
bản phát sinh ra nó. Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam công nhận một số
quyền tài sản là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên
thiên nhiên, quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm,
quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật
bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản
phát sinh từ hợp đồng [24, Điều 322]. Trong đó, nhận tài sản bảo đảm là các
quyền tài sản này đều phải tuân thủ quy định pháp luật dân sự và các quy định
của pháp luật chuyên ngành, ví dụ nhận tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất
hay quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên thì ngoài việc phải tuân thủ các
quy định chung của pháp luật dân sự còn phải tuân thủ các quy định
của luật đất đai, luật khoáng sản
Quyền đòi nợ luôn phát sinh từ hợp đồng, có thể là hợp đồng mua bán
hàng hóa, hợp đồng thi công, xây dựng, hợp đồng dịch vụcác hợp đồng này tuy
khác nhau về nội dung nhưng có một điểm chung đó đều là hợp đồng song vụ.
Có nghĩa, quyền của bên này tương ứng là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Vì vậy, nghĩa vụ trong hợp đồng được xác định cụ thể. Có thể nhận
11
thấy dù phát sinh từ hợp đồng nào thì
quyền đòi nợ luôn được xác định cụ thể:
bên có nghĩa vụ trả nợ, bên có quyền và số tiền bên có nghĩa vụ phải trả cho
bên có quyền. Trong mối quan hệ giữa người có quyền đòi nợ với người có
nghĩa vụ trả nợ, khi đến hạn thanh toán đã được xác định trong hợp đồng,
người có quyền đòi nợ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ phải thanh
toán số tiền nợ đã ghi trên hợp đồng. Như vậy, đến ngày thực hiện nghĩa vụ
thanh toán, quyền đòi nợ đã được quy ra một khoản tiền và người có nghĩa vụ trả
nợ có nghĩa vụ trả cho người sở hữu số tiền đó.
Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ, mức cho vay
được xác định dựa trên giá trị của khoản nợ và sự xem xét, đánh giá của các
TCTD. Mức cho vay thường không vượt quá giá trị của khoản nợ.
Thứ hai, người có quyền đòi nợ có thể chuyển giao quyền đòi nợ ấy cho
chủ thể khác trong giao dịch dân sự.
Đặc điểm đặc trưng khác của quyền đòi nợ đó là quyền đòi nợ có thể
được chuyển nhượng, tức là người có quyền đòi nợ có thể chuyển giao quyền
yêu cầu thanh toán (quyền được nhận khoản nợ) cho chủ thể khác trong giao
dịch dân sự. Pháp luật hiện hành xem quyền đòi nợ là một loại tài sản, vì vậy, chủ
thể của quyền đòi nợ được quyền chuyển nhượng quyền đòi nợ cho chủ thể
khác theo cách thức và thông qua các hình thức giao dịch phù hợp với quy định
của pháp luật như mua, bán, cho, tặng, trao đổi, thừa kế,...
Việc chuyển nhượng quyền đòi nợ có liên hệ chặt chẽ với việc chuyển
giao quyền yêu cầu được quy định tại các Điều từ 309 đến Điều 314 của
BLDS năm 2005. Theo đó, chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ nghĩa vụ
dân sự là việc bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự chuyển giao quyền
yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận. Pháp luật hạn chế một số
trường hợp bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được
chuyển giao quyền đó cho người khác [24, Điểm a, b, c khoản 1, Điều 309].
Điểm a, khoản 1 Điều 309 BLDS năm 2005 quy định những trường hợp
12
quyền yêu cầu là những quyền gắn liền
với nhân thân của chủ thể có quyền
thì không được chuyển giao. Ví dụ như: quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu
bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín. Vì quyền đòi nợ đã loại trừ các quyền liên quan đến nhân thân
như trên, do đó, trừ khi các bên có thỏa thuận khác, quyền đòi nợ được
chuyển giao. Đặc trưng cơ bản của luật dân sự là tôn trọng sự thỏa thuận của
các bên, vì vậy tại Điểm b, khoản 1, Điều 309 BLDS năm 2005 quy định một
trong những trường hợp bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự
không được chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người khác nếu giữa Bên có
quyền và bên có nghĩa vụ có thoả thuận không được chuyển giao quyền yêu
cầu. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự không được chuyển
giao quyền yêu cầu đó cho người khác trong trường hợp mà pháp luật quy
định. Như vậy, việc chuyển giao quyền yêu cầu của bên có quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự cho một chủ thể thế quyền khác chỉ bị hạn chế bởi 3
điều kiện như đã liệt kê trên.
Như vậy, quyền đòi nợ bản thân nó là một loại tài sản có đủ hai đặc
điểm đặc trưng cơ bản của quyền tài sản là trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Đây là hai
đặc điểm để nhận biết quyền đòi nợ.
1.1.3. Phân biệt quyền đòi nợ với một số quyền tài sản khác
Điều 322 BLDS năm 2005 quy định các quyền tài sản thuộc sở hữu
của bên bảo đảm bao gồm quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu
công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi nợ, quyền được nhận số
tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong
doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng và các quyền tài sản khác
thuộc sở hữu của bên bảo đảm đều được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự.
1.1.3.1. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể các loại quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng nào khác có thể trở thành tài sản bảo đảm ngoài quyền đòi
13
nợ và quyền được nhận số tiền bảo
hiểm. Trong khuôn khổ pháp luật giao
dịch bảo đảm, Ðiều 322 của BLDS năm 2005 phân biệt quyền đòi nợ với
quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng theo hướng đây là hai loại quyền tài sản độc
lập với nhau. BLDS năm 2005 công nhận một khái niệm pháp lý khác là quyền
yêu cầu [24, Ðiều 309 đến Ðiều 314]. Khoản 4 và 5, Ðiều 22, Nghị định số 163
coi quyền đòi nợ là một loại quyền yêu cầu. Trước đây, quyền đòi nợ được định
nghĩa theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp
đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các
căn cứ hợp pháp khác [1, điểm d khoản 1.1]. Song, Ðiều 2, khoản 2, điểm 2.4
Thông tư 05/2011/TT-BTP quy định "Hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ bao
gồm quyền đòi nợ hiện có hoặc quyền đòi nợ hình thành trong tương lai".
Dường như các nhà làm luật muốn mở rộng hơn căn cứ phát sinh quyền đòi nợ
khi không giới hạn ở các hợp đồng nhất định nữa. Tuy nhiên, không có quy
định nào của BLDS năm 2005 giải thích nội hàm của các quyền phát sinh từ
hợp đồng. Có thể hiểu quyền đòi nợ là một quyền yêu cầu mang tính chắc chắn có
thể được thực thi trong khi quyền phát sinh từ hợp đồng là quyền yêu cầu ít chắc
chắn hơn, có tính chất ngẫu nhiên hơn, tức là phụ thuộc vào các tình huống nhất
định để chuyển một quyền tiềm năng thành một quyền có thể thực thi được.
Quyền phát sinh từ hợp đồng bao gồm rất nhiều loại quyền, chẳng hạn như quyền
chọn, quyền phát sinh từ một hợp đồng cho thuê tàu biển, quyền phát sinh từ
vận đơn, quyền phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, quyền phát sinh từ
hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp hay quyền thuê phát sinh từ hợp
đồng thuê: Quyền đòi nợ và quyền phát sinh từ hợp đồng là hai loại quyền yêu cầu
tiêu biểu.
1.1.3.2. Phân biệt quyền đòi nợ với quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí
tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở
14
- Xem thêm -