Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Biểu mẫu - Văn bản Biểu mẫu Báo cáo tham luận tại đại hội công nhân viên chức công ty...

Tài liệu Báo cáo tham luận tại đại hội công nhân viên chức công ty

.DOC
6
210
63

Mô tả:

CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN KHAI THÁC THỦY LỢI QUẢNG NAM CHI NHÁNH THỦY LỢI THĂNG BÌNH CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Thăng Bình, ngày tháng năm 2012 - Kính thưa Đoàn chủ tịch - Kính thưa các đồng chí đại biểu lãnh đạo, thưa Đại hội. BÁO CÁO tham luận về công tác tưới, khai thác và bảo vệ công trình Chi nhánh Thủy lợi Thăng Bình là đơn vị trực thuôc, Công ty TNHH MTV KTTL Quảng Nam, có nhiệm vụ Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi trên địa bàn thuyện Thăng Bình, một phần huyện Quế Sơn và Tam Kỳ. Năm 2011 là năm có thời tiết không được thuận lợi đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và công tác thủy lợi nói riêng. Vụ Đông xuân thời tiết rét đậm, rét hại gây mất mùa, vào vụ Hè thu mực nước tại các hồ chứa thấp hơn so với cùng kỳ nhiều năm từ 0.5 -2m. Độ ẩm không khí thấp, lượng mưa chỉ bằng 10% so với cùng kỳ năm 2010. Tình hình kinh tế có nhiều biến động ảnh hưởng không ít đến đời sống và tinh thần của CBCNV. Tuy nhiên với sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Ban Giám Đốc Công ty, sự chia xẻ phối hợp của các địa phương đặc biệt là sự nổ lực phấn đấu của CBCNV Chi nhánh nên đã cơ bản thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch giao năm 2011. I. ĐẶC ĐIỂM, HIỆN TRẠNG CÔNG TRÌNH Chi nhánh thủy lợi Thăng Bình hiện đang quản lý trên 210 km kênh mương, 03 hồ chứa nước, quản lý và tưới tạo nguồn 22 đập dâng, 05 trạm bơm nước phục vụ trên 11.631 ha lúa và hoa màu. 1.Thuận lợi - Được sự quan tâm chỉ đạo của Ban giám đốc Công ty đặc biệt là sự lãnh chỉ đạo Huyện ủy, UBND huyện Thăng Bình. - Trong hệ thống kênh cấp 1,2 ; Chi nhánh đang quản lý trong những năm qua đã được các cấp đầu tư nâng cấp bằng bê tông 55% - Dự án hiện đại hóa kênh Phú Ninh đã triển khai đến nay đã gần hoàn thành, đặc biệt là hệ thống kênh N16, N18(khu tưới mẫu) đã được bàn giao đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả tích cực trong việc điều tiết nước tưới. -1- - Một số đập thời vụ trong những năm gần đây đã được sửa chữa nâng cấp (An Ngãi, Suối mới, Cẩm lũ) đã góp phần đáng kể trong công tác tưới tại Chi nhánh. - Tuyến kênh N14-2 đã được gia cố, nâng cấp đoạn xung yếu nên công tác điều tiết nước tưới ở tuyến kênh này ít vất vả hơn. 2. Khó khăn - Thời tiết nắng nóng vẫn luôn là thách thức với công tác thủy lợi trong những năm gần đây đặc biệt là năm 2010, 2011. Nền nhiệt độ trong vụ hè thu rất cao, độ ẩm không khí thấp, công trình kênh mương ngày càng xuống cấp, nên gây rất nhiều trở ngại trong công tác điều tiết nước tưới. - Vẫn còn một số đập thời vụ đã xuống cấp (Đập dâng Bình Giang, Bàu Hoẻn..), - Một số tuyến kênh đã đươc bê tông hóa nhưng hiện tại đã xuống cấp đa số những tuyến kênh này được xây dưng bằng tấm đan bê tông, Hiện nay mạch vữa đã bị bong hỏng gây mất nước, một số đoạn kênh qua vùng đất cát lượng nước thất thoát lớn như kênh N22-1 (đoạn qua Quế sơn), N22(đoạn qua Bình Phục, Bình triều). Đặc biệt sau các trận mưa lớn kênh bị sạt lỡ, bồi lấp nên việc điều hành nước tưới của công nhân rất vất vả. - Công tác thủy nông cơ sở ở một số các đơn vị dùng nước còn chưa được chú trọng đúng mức, một số đơn vị dùng nước chưa có đội thủy nông cơ sở hoặc có nhưng hoạt động không hiệu quả, khi cần để tham gia điều tiết nước lại không có. - Một số bộ phận nhân dân chưa có ý thức bảo vệ công trình thủy lợi, thường hay vi phạm xâm lấn hành lang bảo vệ kênh, cản kênh, ngâm cây trên kênh, thả rác, xác súc vật chết xuống lòng kênh, gây cản trở dòng chảy và ô nhiễm môi trường. Một số phần tử sấu đã lợi dụng lấy cắp thiết bị đóng mở cống gây khó khăn trong việc điều tiết nước tưới. - Hồ chứa nước Đông Tiển mới được đưa vào phục vụ tưới, song vẫn còn một số bất cập trong công tác thiết kế, kênh mương nội đồng chưa hoàn chỉnh, một số bộ phận nhân dân đã tự ý đục kênh lấy nước, nên công tác quản lý tưới cũng gặp không ít khó khăn. - Với diện tích tưới trên địa bàn rất lớn, đặc biệt là khu tưới hệ Phú Ninh, lịch gieo sạ vụ Hè thu phải chậm lại, thời gian tưới phục vụ gieo sạ ngắn nên đòi hỏi CBCNV phải hết sức nỗ lực mới có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN 1.Thực hiện nhiệm vụ kế hoạch Hiện nay Chi nhánh đã hợp đồng tưới với 33 đơn vị dùng nước và đã thực hiện được một số chỉ tiêu như sau : -2- 2. Công tác tưới Nhìn chung trong năm qua những khu tưới trên địa bàn Chi nhánh quản lý tưới đều ổn định. Riêng khu tưới cuối kênh N22-1, N14a, Phước Hà, Đông tiển ... CBCNV Chi nhánh phải tập trung điều tiết tích cực thì mới đảm bảo phục vụ tưới cho diện tích hợp đồng. Vụ hè thu đối với khu tưới hệ Phú Ninh, lịch tưới lùi lại 15 ngày, áp lực trong quá trình tưới đổ ải là rất lớn. Chi nhánh nhận định những khu tưới thường xảy ra thiếu nước như kênh N22-1(Bình Giang), N14-2 (Bình An)... tập trung vận hành trạm bơm Quế Phú, An Lạc... điều nước tưới hợp lý nên đã kịp thời phục vụ sản xuất. 3. Công tác quản lý và bảo vệ công trình Ngay từ đầu năm Ban giám đốc Chi nhánh đã tổ chức phân công cung đoạn quản lý đến từng CBCNV, xây dựng phương án bảo vệ công trình trình công ty phê duyệt để triển khai thực hiện. Việc thực hiện chế độ báo cáo hàng tuần về tình trạng kỹ thuật công trình, hành lang bảo vệ công trình luôn được duy trì tại Chi nhánh đã góp phần làm giảm nguy cơ gây mất ổn định cho công trình. Thực hiện Chương trình phối hợp số 437/CTPH-HND&CTTL ngày 30/5/2011 giữa Công ty TNHH một thành viên khai thác thuỷ lợi Quảng Nam và Hội Nông dân tỉnh Quảng Nam về việc tuyên truyền, vận động nông dân tham gia quản lý, khai thác và bảo vệ công trình thuỷ lợi. Trong tháng 11 vừa qua Hội Nông dân huyện Thăng Bình và Chi nhánh thuỷ lợi Thăng Bình tổ chức vận động nhân dân thị trấn Hà Lam, xã Bình Phục, tham gia giải tỏa, phát dọn, nạo vét kênh N20 phục vụ Đông xuân 2011-2012. Trong đợt ra quân trên 140 lượt người tham gia với chiều dài giải tỏa 3500m. 4. Công tác điều tra diện tích CBCNV Chi nhánh đã nỗ lực tập trung thực hiện được việc điều tra diện tích đến từng hộ, từng thửa ruộng theo đơn vị dùng nước, phân theo công trình, thời gian đầu tư vào công tác này chiếm thời gian rất lớn, kết quả đã điều tra được trên 27.000 hộ dùng nước với điện tích là 12.531 ha tăng 1031 ha so với KH năm 2011. 5.Công tác chống hạn Công tác phòng chống hạn đã được chuẩn bị chu đáo, Chi nhánh đã lập phương án phòng chống hạn ngay từ đầu vụ, việc nhận định thời tiết năm 2011 là năm nóng hạn, nên đã tuyên truyền cho CBCNV và nhân dân tiết kiệm điện, nước ngay từ đầu vụ. Trước khi vào vụ Hè thu Chi nhánh đã chủ động tính toán cân bằng lượng nước ở các hồ chứa, đồng thời tổ chức các cuộc họp với chính quyền địa -3- phương thông báo cho các đơn vị dùng nước biết để phối hợp điều hành công tác tưới, do vậy đã đảm bảo tưới phục vụ cho diện tích đã hợp đồng . 6.Công tác PCLB - Công tác PCLB trong năm 2011 đặc biệt được Chi nhánh chú trọng, tổ chức kiểm tra an toàn công trình trước mùa mưa bão, xây dựng Phương án PCLB trình các cấp phê duyệt. - Trước mùa mưa bão Chi nhánh đã thành lập tổ thường trực PCLB, phối hợp với các địa phương xã tham mưu UBND huyện thành lập Ban chỉ huy PCLB tại các hồ chứa. Phân công CBCNV trực PCLB đúng theo qui định tại mỗi hồ chứa và các cụm thủy nông trực thuộc. III. NHỮNG TỒN TẠI 1- Công tác điều tiết nước tưới - Công tác điều tiết nước tưới còn chủ quan ở tuyến kênh N22-1, việc điều tiết tưới chưa được thường xuyên trên kênh, thuỷ nông viên ở đầu đoạn kênh ở một số đơn vị không có, hoặc có nhưng không hoạt động. - Một số Trạm bơm chi phí điện năng vượt so với kế hoạch giao năm 2011. 2-Công tác bảo vệ công trình - Công tác bảo vệ công trình, giải tỏa hành lang chưa đạt được theo kế hoạch được giao, vẫn còn hiện tượng mất các thiết bị điều tiết trên kênh. Việc kiểm tra sử lý các vụ vi phạm chưa kịp thời, còn chủ quan cần phải được chấn chỉnh trong thời gian đến. - Công tác quản lý kỹ thuật ( kiểm tra, báo cáo số liệu) đã được triển khai thực hiện nhưng các Cụm thuỷ nông thực hiện vẫn còn mang tính hình thức, có báo cáo số liệu nhưng thường xuyên bị trễ so với thời gian qui định, có lúc còn báo cáo thiếu chính xác. 3. Công tác làm diện tích Tuy đã điều tra được diện tích trên địa bàn phụ trách, nhưng một số đồng chí chưa thực sự nắm vững địa bàn khu tưới quản lý, số liệu cung cấp từ tổ đội ở một số địa phương chưa hợp pháp lý cần phải được thu thập, điều chỉnh xác nhận để được lưu trữ trong hồ sơ tại Chi nhánh và làm cơ sở để hợp đồng và nghiệm thu cho năm 2012 và những năm dến. 4. Công tác khác - Một số cán bộ CNV làm việc còn mang tính hình thức đối phó, năng lực chuyên môn còn hạn chế, cần phải tổ chức tập huấn để nâng cao trình độ để phục vụ công tác. Trong quá trình quản lý, vận hành phục vụ sản xuất vẫn có một số cán bộ công nhân vẫn còn thụ động, thiếu ý thức trách nhiệm nên nguy cơ xảy ra hạn và sự cố công trình luôn luôn rình rập. V. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN NHIỆN VỤ KẾ HOẠCH NĂM 2012 -4- Năm 2012 theo nhận định tình hình thời tiết tiếp tục nắng hạn, công tác tưới phải được tiết kiệm nước ngay từ đầu vụ Đông Xuân. Đặc biệt là các khu tưới tại các hồ chứa Phước Hà, Đông Tiển, Kênh N22-1, N14a, công tác điều hành nước cần phải được tổ chức và phối hợp chặt chẽ giữa Chi nhánh với từng đơn vị dùng nước. Một số giải pháp thực hiện như sau: - Một là: Củng cố lại tổ chức từ Chi nhánh đến các cụm thủy nông, bố trí lao động hợp lý để đảm bảo tốt cho việc phục vụ tưới tại các địa phương, thực hiện giờ làm việc 48 giờ/tuần trong thời gian vận hành điều tiết nước tưới, đưa ra tiêu chí xếp loại A, B, C hàng tháng là căn cứ thực hiện xếp loại thi đua, đồng thời phân rõ trách nhiệm của cá nhân trong nhiệm vụ được giao để thúc đẩy và nâng cao tinh thần trách nhiệm của CBCNV. - Hai là: Nắm vững diện tích đã điều tra trên thực địa, kiểm tra so sánh đối chiếu trên sổ bộ và trên bảng kê (mẫu số 7/DTDT theo công văn 4366 của UBNDTỉnh) trên cơ sở đó điều hành nước tưới hợp lý, duy trì tổ chức họp trực báo đội thuỷ nông cơ sở để nắm tình hình sản xuất. - Ba là : Tăng cường hơn nữa công tác điều tiết nước tưới, kiểm tra đồng ruộng, công trình. Các trạm bơm điện tiết kiệm điện, kiểm tra kênh mương sạch sẽ, thông thoáng mới tiến hành vận hành bơm. Phân lịch tưới luân phiên cho từng kênh, vận hành hệ thống hồ chứa đảm bảo nước tưới, không để xảy ra thiếu nước, đặc biệt là những tuyến kênh hiện nay đã xuống cấp thường xuyên xảy ra hạn. -Bốn là: Tuyên truyền vận động nhân dân chặt phá cây cối, giải toả vật kiến trúc, giải tỏa những vi phạm hành lang tuyến kênh theo quy định Pháp lệnh khai thác bảo vệ công trình thuỷ lợi, tham mưu xử lý những tập thể cá nhân vi phạm. Thực hiện chương trình phối hợp với Công An huyện, Hội nông dân huyện trong công tác vận động tuyên truyền nhân dân tham gia bảo vệ công trình thủy lợi. Lập phương án cắm mốc phạm vi bảo vệ công trình trong địa bàn quản lý, trình cấp lãnh đạo phê duyệt để triển khai thực hiện. Đồng thời phối hợp và đề nghị Đài truyền thanh huyện phát thanh, tuyên truyền Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, để nhân dân cùng tham gia công tác bảo vệ công trình. -Năm là: Làm việc với các đơn vị dùng nước tại những nơi có thể xảy ra hạn, gieo sạ các giống lúa tập trung theo từng khu tưới, đối với khu tưới tại hồ Phước Hà, Đông Tiển và các trạm bơm vụ Hè thu nên cơ cấu giống lúa trung và ngắn ngày. Thường xuyên kiểm tra làm việc với đội thuỷ nông cơ sở để điều hành nước, phát dọn kênh mương nội đồng tạo thông thoáng dòng chảy. VI. PHẦN KIẾN NGHỊ Kính đề nghị Ban giám đốc Công ty có kế hoạch đầu tư nâng cấp những tuyến kênh, công trình hiện tại đang bị hư hỏng xuống cấp (Chi nhánh đã gởi danh mục vào cho Công ty) . Kính thưa các đồng chí đại biểu, Kính thưa Đại hội -5- Trên đây là báo cáo tham luận với đại hội, Chi nhánh thủy lợi Thăng Bình nêu lại một số nội dung kết quả thực hiện các chỉ tiêu năm 2011 và một số giải pháp thực hiện năm 2012 trên địa bàn khu tưới Chi nhánh quản lý. Cuối cùng thay mặt Chi nhánh xin kính chúc quí vị đại biểu về dự Đại hội sức khỏe, xin cảm ơn các đồng chí đã chú ý lắng nghe. Xin chân trọng cảm ơn./. TM.CHI NHÁNH -6-
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan