Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Áp giải, dẫn giải theo luật tố tụng hình sự việt nam...

Tài liệu Áp giải, dẫn giải theo luật tố tụng hình sự việt nam

.PDF
89
1
103

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGUYỄN TRẦN THẢO VY TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGUYỄN TRẦN THẢO VY ÁP GIẢI, DẪN GIẢI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU KHÓA 32 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ÁP GIẢI, DẪN GIẢI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành Luật Hình sự và Luật Tố tụng hình sự Định hướng nghiên cứu Mã số: 8380104 Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh Học viên : Nguyễn Trần Thảo Vy Lớp : Cao học luật, Khóa 32 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Luận văn Thạc sĩ luật học với đề tài: “Áp giải, dẫn giải theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Huỳnh Bảo Khánh. Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể và chính xác. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là khách quan và trung thực. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình. Tác giả luận văn Nguyễn Trần Thảo Vy DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BPCC : Biện pháp cưỡng chế CQĐT : Cơ quan điều tra NCTN : Người chưa thành niên TAND : Tòa án nhân dân THAHS : Thi hành án hình sự THTT : Tiến hành tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP ÁP GIẢI, DẪN GIẢI ................................ 11 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự Việt Nam .................................................................................................... 11 1.1.1. Khái niệm về biện pháp áp giải, dẫn giải ........................................................ 11 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp áp giải, dẫn giải....................................................... 14 1.1.3. Ý nghĩa của biện pháp áp giải, dẫn giải .......................................................... 15 1.2. Khái quát chung về biện pháp áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ........................................................................................................ 18 1.2.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước ngày 01/01/1989 ............................................... 18 1.2.2. Giai đoạn từ ngày 01/01/1989 đến trước ngày 01/7/2004 .............................. 20 1.2.3. Giai đoạn từ ngày 01/7/2004 đến trước ngày 01/01/2018 .............................. 23 1.2.4. Giai đoạn từ ngày 01/01/2018 đến nay ........................................................... 26 1.3. Quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải theo pháp luật tố tụng Việt Nam ... 29 1.3.1. Về đối tượng áp dụng ...................................................................................... 29 1.3.2. Về căn cứ và điều kiện áp dụng ....................................................................... 35 1.3.3. Về thẩm quyền áp dụng ................................................................................... 40 1.3.4. Về trình tự, thủ tục áp dụng ............................................................................. 43 Kết luận Chương 1 .......................................................................................................... 47 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ÁP GIẢI, DẪN GIẢI VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ............... 48 2.1. Thực trạng áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 .............................................................................................. 48 2.1.1. Thực trạng áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải trong giai đoạn điều tra, truy tố .. ......................................................................................................................... 48 2.1.2. Thực trạng áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải trong giai đoạn xét xử ........ 49 2.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải ...................................................................................................... 51 2.2.1. Một số khó khăn, vướng mắc trong giai đoạn điều tra, truy tố ....................... 51 2.2.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong giai đoạn xét xử ...................................... 56 2.2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải đối với người dưới 18 tuổi. .................................................................................... 59 2.3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm tháo gỡ một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải .................................................. 64 2.3.1. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp áp giải, dẫn giải .................................................................................. 64 2.3.2. Một số đề xuất về mặt tổ chức thực hiện các quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải ......................................................................................................................... 69 Kết luận Chương 2 .......................................................................................................... 73 KẾT LUẬN .................................................................................................................. 74 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Luật Tố tụng hình sự là một phương tiện sắc bén và hữu hiệu của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm phát hiện và xử lý nhanh chóng, chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm; bảo vệ quyền con người, quyền công dân của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là người bị buộc tội; bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khỏi sự xâm phạm của tội phạm. Đồng thời, giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng; và trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì các biện pháp cưỡng chế trong luật tố tụng hình sự có ý nghĩa rất quan trọng, việc áp dụng biện pháp này ảnh hưởng đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, đã xây dựng và cập nhật nhiều nội dung mới vừa nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân của những người tham gia tố tụng, vừa đảm bảo các nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là “nguyên tắc xác minh sự thật vụ án”. Nhằm cụ thể hóa nguyên tắc này cũng như việc đảm bảo thực thi tôn trọng quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, nhà làm luật đã đưa ra các quy định mới mẻ đối với biện pháp áp giải, dẫn giải so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Áp giải và dẫn giải là một biện pháp cưỡng chế để bảo đảm cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được diễn ra theo đúng trình tự, quy định của pháp luật; trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, việc có mặt của bị can, bị cáo hay người làm chứng, bị hại,… có vai trò rất quan trọng đối với việc xác định sự thật khách quan, toàn diện vụ án. Như vậy, với việc quy định về áp giải, dẫn giải trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giúp cho các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng thuận tiện hơn trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, ha ̣n chế đế n mức thấ p nhấ t viê ̣c bỏ lo ̣t tô ̣i pha ̣m. Tuy nhiên, trên thực tế áp giải, dẫn giải là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và rất dễ bị phản ứng, vì vậy các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải xem xét rất thận trọng, chỉ nên áp dụng khi thật cần thiết để làm rõ các nội dung quan trọng của vụ án. Việc áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải không đơn giản do quy định của pháp luật về áp giải, dẫn giải chưa cụ thể và khó triển khai trên thực 2 tiễn. Mặt khác, việc dẫn giải đối với người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan cũng gặp khó khăn khi người bị hại đã chủ động không đi giám định theo yêu cầu của Cơ quan điều tra thì khi áp dụng biện pháp dẫn giải người bị hại có thể không chấp hành hoặc bỏ trốn. Lúc này, Cơ quan điều tra không còn biện pháp nào khác để áp dụng, qua đó việc xác minh tố giác tin báo về tội phạm cũng như việc điều tra vụ án bị kéo dài. Để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong quy định và thực tiễn áp dụng của biện pháp áp giải, dẫn giải, trong công trình nghiên cứu tác giả sẽ làm rõ các vấn đề lý luận về biện pháp áp giải, dẫn giải; phân tích, nghiên cứu chuyên sâu và sẽ có một phần nghiên cứu so sánh ngắn gọn giữa các quy định hiện hành về biện pháp áp giải, dẫn giải với các quy định của pháp luật tố tụng của một số quốc gia trên thế giới. Đồng thời, trong suốt thời gian nghiên cứu tác giả sẽ đánh giá hoạt động áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải trong các vụ án hình sự để đưa ra các vướng mắc, bất cập khi biện pháp này được áp dụng trong thực tiễn và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp áp giải, dẫn giải. Với những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài “Áp giải, dẫn giải theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm luận văn thạc sĩ luật học, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Qua khảo sát cho thấy, chế định về áp giải, dẫn giải theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa được nghiên cứu nhiều. Các công trình nghiên cứu khoa học và các bài báo khoa học thường tập trung nghiên cứu chủ yếu về biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế, trong đó chỉ có một phần nhỏ các nghiên cứu có liên quan đến biện pháp áp giải, dẫn giải nhưng tác giả nhận thấy vẫn có một số công trình nghiên cứu có đề cập đến biện pháp áp giải, dẫn giải ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Ở cấp độ công trình nghiên cứu chuyên khảo gồm có: Sách chuyên khảo nghiên cứu về “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự” của tác giả Trần Quang Tiệp, được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản tại Hà Nội năm 2011. Trong quyển sách này, tác giả chủ yếu nghiên cứu khái quát về mối 3 quan hệ giữa tự do cá nhân và các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, trong đó chỉ có một phần nhỏ đề cập đến biện pháp cưỡng chế áp giải bị can, bị cáo và dẫn giải người làm chứng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 mà chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu về hai biện pháp này. Ngoài ra, vào thời điểm đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa ra đời nên quyển sách trên chưa làm rõ được các điểm mới về biện pháp áp giải, dẫn giải. Sách nghiên cứu về “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên hợp quốc” do tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy chủ biên, được Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản tại Thành phố Hồ Chí Minh năm 2018. Quyển sách này trình bày và phân tích một cách toàn diện, chuyên sâu về khung pháp lý tư pháp hình sự người chưa thành niên của Liên hợp quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của quyển sách chỉ tập chung chủ yếu vào những quy định của pháp luật tố tụng hình sự điều chỉnh về người bị buộc tội dưới 18 tuổi, trong đó có một phần nhỏ nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi, mà chưa có sự nghiên cứu về biện pháp áp giải, dẫn giải đối với các đối tượng còn lại. Liên quan đến đề tài này, trước thời điểm Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời, phần lớn là những nghiên cứu được thể hiện dưới các bài báo khoa học, như: “Các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của tác giả Nguyễn Vạn Nguyên, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/1990; “Cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc phê chuẩn các lệnh, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng khác trong giai đoạn điều tra” của Mai Thế Bày, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 16/2009; “Vấn đề cưỡng chế tố tụng hình sự và nguyên tắc nhân đạo” của tác giả Bùi Kiên Điện, đăng trên Tạp chí Luật học, số 01/2010; “Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng chế khác trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 3/2011. Các bài viết nêu trên, phần lớn được nghiên cứu dưới góc nhìn của Kiểm sát viên - cơ quan truy tố, về nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc phê chuẩn, áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng khác 4 trong giai đoạn điều tra; hoặc chỉ nghiên cứu một cách khái quát về các biện pháp cưỡng chế và mối quan hệ giữa biện pháp cưỡng chế với nguyên tắc nhân đạo. Kể từ khi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời, có nhiều bài báo khoa học viết về các biện pháp cưỡng chế, như: “Hoàn thiện cơ sở pháp lý về thực hiện biện pháp dẫn giải người vi phạm theo thủ tục hành chính thuộc chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của bộ đội biên phòng” của tác giả Trần Minh Nguyệt, đăng trên Tạp chí Luật học, số 10/2015; “Bình luận dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi liên quan đến một số biện pháp cưỡng chế” của tác giả Đinh Văn Đoàn, trong Kỷ yếu hội thảo của Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2016; “Hoàn thiện các quy định về biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003” và “Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên khi áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Võ Thị Kim Oanh và Trịnh Duy Thuyên, trong Kỷ yếu hội thảo của Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tháng 12/2016; “Biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế” của tác giả Nguyễn Thái Phúc, trong sách chuyên khảo “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do tác giả Nguyễn Hòa Bình chủ biên, được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật xuất bản tại Hà Nội năm 2016; “Những nội dung mới cơ bản về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Hoàng Anh Tuyên, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 14/2016; “Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp cưỡng chế theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Lê Văn Quang, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 4/2019; “Thực tiễn thi hành và giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Mai Đắc Biên, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 6/2019; “Pháp luật tố tụng hình sự với việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội dưới 18 tuổi” của tác giả Nguyễn Hải Ninh, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 8/2019; “Một số vấn đề về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Võ Thị Kim Oanh và Trịnh Duy Thuyên, trong Kỷ yếu hội thảo của Khoa Luật Hình sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tháng 7/2020; “Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng một số biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự” của tác giả Lê Huỳnh Tấn Duy và Dương Quốc Nghĩa, trong Kỷ yếu hội thảo của Khoa Luật Hình sự, Trường Đại 5 học Luật Thành phố Hồ Chí Minh tháng 7/2020; “Áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, biện pháp giám sát đối với người dưới 18 tuổi” của tác giả Phan Thị Thu Lê và Bùi Thị Hằng Mong, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2020; “Vướng mắc trong thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế” của tác giả Nguyễn Văn Khải, đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 19/2020. Các bài viết nêu trên, chủ yếu bình luận quy định về biện pháp cưỡng chế trong dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 sửa đổi; hoặc nghiên cứu hoàn thiện các quy định về biện pháp cưỡng chế đối với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 một cách khái quát chung; hoặc nêu ra những điểm mới cơ bản về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; hoặc nêu ra một số vấn đề mà tác giả gặp phải trên thực tế khi áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người dưới 18 tuổi; một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế ở giai đoạn truy tố, cũng như thực tiễn thi hành và một số kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp cưỡng chế. Trong các bài báo khoa học, có các bài viết nghiên cứu trực tiếp đến biện pháp áp giải, dẫn giải như: “Những điểm mới trong các quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và một số vấn đề cần hoàn thiện” của tác giả Ngô Văn Vịnh và Ngô Thanh Nhàn, đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 02/2017; “Một số vướng mắc và kiến nghị áp dụng biện pháp dẫn giải” của tác giả Ngô Đức Toàn và Hoàng Quốc Khánh, đăng trên Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 03/2020. Các bài viết nêu trên chỉ mới dừng lại ở góc độ bình luận, phân tích những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về đối tượng, thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải; hoặc chỉ nêu ra một số vướng mắc trên thực tiễn khi áp dụng biện pháp dẫn giải một cách khái quát chung, mà chưa đánh giá toàn diện, đầy đủ những vấn đề lý luận, cũng như chưa phân tích các quy định liên quan đến biện pháp dẫn giải để minh chứng cho những vướng mắc khi áp dụng vào thực tiễn để làm cơ sơ đưa ra các giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp dẫn giải. Ngoài ra, còn có một số bài viết liên quan đến biện pháp áp giải, dẫn giải được đăng trên các trang thông tin điện tử, như: “Phân biệt áp giải và dẫn giải theo 6 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Trần Văn Hùng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 01/3/2018; “Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về áp giải và dẫn giải” của tác giả Phạm Việt Hùng, đăng trên Trang thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tuyên Quang ngày 08/5/2018; “Tìm hiểu về biện pháp áp giải được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của tác giả Phạm Thị Kiều Chi, đăng trên Trang thông tin điện tử Đại học Cảnh sát nhân dân ngày 19/6/2019; “Khó khăn khi áp dụng quy định dẫn giải người bị hại” của tác giả Bùi Thế Mạnh, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 16/9/2020; “Áp dụng biện pháp dẫn giải đối với bị hại từ chối giám định và từ chối tham gia phiên tòa” của tác giả Nguyễn Hữu Đức, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 25/9/2020. Các bài viết nêu trên, chỉ nghiên cứu dừng lại ở góc độ diễn giải quy định của pháp luật hoặc so sánh giữa biện pháp áp giải với dẫn giải trên cở sở đối tượng áp dụng của hai biện pháp này hoặc chỉ nêu ra khó khăn, vướng mắc khi áp dụng biện pháp dẫn giải đối với người bị hại khi họ từ chối giám định, từ chối tham gia phiên tòa mà chưa có đề xuất, kiến nghị cụ thể để tháo gỡ, khắc phục đối với vấn đề này. Ở cấp độ công trình nghiên cứu là luận văn liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm có: Luận văn thạc sĩ luật học năm 2020 nghiên cứu về “Biện pháp cưỡng chế trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Thị Bích Hà theo định hướng nghiên cứu. Tuy nhiên, do luận văn có phạm vi nghiên cứu khá rộng và tác giả chỉ dừng lại ở góc nhìn của Điều tra viên - giai đoạn điều tra, nên tác giả đã không thể đi sâu phân tích, đánh giá một cách cụ thể đối với từng biện pháp cưỡng chế, đặc biệt là biện pháp áp giải, dẫn giải và chưa có góc nhìn bao quát, toàn diện từ giai đoạn điều tra đến truy tố và xét xử. Đáng chú ý là Luận văn thạc sĩ luật học năm 2018 nghiên cứu về “Biện pháp dẫn giải theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Từ Chí Dũng. Do tác giả nghiên cứu theo định hướng ứng dụng, nên tác giả chỉ tập trung vào những vấn đề bất cập trong thực tiễn mà tác giả gặp phải; đồng thời, luận văn không đi sâu nghiên cứu đối với các quy định của pháp luật mà chỉ đề cập đến đối tượng và căn cứ áp dụng biện pháp dẫn giải. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề còn hạn chế khi áp dụng biện pháp dẫn giải trong thực tiễn. 7 Đặc biệt là Luận văn thạc sĩ luật học năm 2017 nghiên cứu về “Biện pháp áp giải, dẫn giải trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Đỗ Hoàng Huy. Mặc dù, tác giả nghiên cứu theo định hướng nghiên cứu, thế nhưng luận văn lại không có sự so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới hoặc số liệu về áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải của một số năm gần đầy hoặc dẫn chiếu lồng ghép thêm các tình huống phát sinh trên tiễn để phân tích, đánh giá và bình luận, cho nên luận văn ít có giá trị về mặt thực tiễn. Có thể nhận thấy, các bài viết nêu trên hầu hết chỉ tập trung nghiên cứu khái quát về các biện pháp cưỡng chế và chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhỏ về biện pháp áp giải, dẫn giải. Các nghiên cứu nêu trên cũng phần nào bao quát về biện pháp áp giải, dẫn giải nhưng vẫn chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp áp giải và dẫn giải. Đồng thời, các nghiên cứu cũng tìm ra được một số bất cập, vướng mắc hiện hữu trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và đề xuất, kiến nghị hướng hoàn thiện nhưng vẫn chưa có góc nhìn một cách toàn diện về tất cả các bất cập đang tồn tại trong quy định của biện pháp áp giải, dẫn giải khi áp dụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên là những nguồn tài liệu tham khảo rất hữu ích để tác giả nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn của mình. Do đó, trên cơ sở kế thừa từ những kết quả đã đạt được và tiếp tục nghiên cứu phát triển, mở rộng, bổ sung những vấn đề còn thiết sót, cùng với việc nghiên cứu một cách có hệ thống đối với biện pháp áp giải, dẫn giải từ nhiều góc nhìn khác nhau - góc nhìn của Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Có thể nhận thấy rằng: “Luật viết luôn ở trong trạng thái vận động hướng tới sự hoàn thiện và không bao giờ đạt đến sự hoàn thiện tuyệt đối”, bởi vì “sự không rõ nghĩa của câu chữ, không đầy đủ về nội dung của một văn bản là căn bệnh cố hữu của văn bản luật, không thể khắc phục hết”1. Hay nói khác hơn: “Không phải tuyệt tác của thần thánh, luật viết đương nhiên luôn có khiếm khuyết. Một đạo luật viết có thể sớm bị lạc hậu, được viết không rõ ràng, có nội dung đa nghĩa hoặc không đầy đủ, nhiều chồng chéo, hoặc tự mâu thuẫn. Vì vậy, những điều được viết ra chưa hẳn đã là pháp luật; câu chữ cụ thể của văn bản không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với luật, tinh thần của Nguyễn Ngọc Điện (2020), Phương pháp phân tích luật viết (xuất bản lần thứ hai, có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Chính trị quốc gia và Nxb. Đại học Hoa Sen, Hà Nội, tr. 15 - 16. 1 8 đạo luật, hoặc với ý đồ của người làm luật” 2. Tuy nhiên, trên tinh thần tiếp tục “coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân làm trọng tâm”3. Chính vì vậy, với mong muốn nghiên cứu, đánh giá một cách đầy đủ, toàn diện hơn về biện pháp áp giải, dẫn giải theo Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành dưới góc nhìn về mặt lý luận lẫn thực tiễn, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những thiếu sót trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác áp dụng những biện pháp cưỡng chế này nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài nhằm: - Thứ nhất, làm rõ quy định của pháp luật về biện pháp áp giải, dẫn giải theo pháp luật tố tụng hình sự; - Thứ hai, làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp áp giải, dẫn giải và nhận diện các vướng mắc, bất cập còn tồn tại để đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện. Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của đề tài: - Thứ nhất, nghiên cứu, tìm hiểu một cách đầy đủ và có hệ thống quy định của pháp luật về biện pháp áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự; - Thứ hai, so sánh, đối chiếu với quy định về biện pháp áp giải, dẫn giải trong pháp luật tố tụng hình sự qua các thời kỳ. - Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng quy định của tố tụng hình sự về biện pháp áp giải, dẫn giải trong thực tiễn để nhận diện những vướng mắc, bất cập còn tồn tại; - Thứ tư, kiến nghị, đề xuất giải pháp để giải quyết những vướng mắc, bất cập nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về biện pháp áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự. 2 Phạm Duy Nghĩa (2014), Phương pháp nghiên cứu luật học, Nxb. Công an nhân dân dân, Hà Nội, tr. 48. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 97 và 175. 3 9 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trên cơ sở mục tiêu và nhiệm vụ đã đặt ra, tác giả tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật về biện pháp áp giải, dẫn giải theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của biện pháp áp giải, dẫn giải theo luật tố tụng hình sự Việt Nam, trừ trường hợp áp giải, dẫn giải đối với người có hành vi cản trở hoạt động tố tụng và dẫn giải đối với người đại diện theo pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội. Bên cạnh việc đi sâu phân tích các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tác giả cũng có sự so sánh, đối chiếu với những quy định của biện pháp này trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, cũng như thực tiễn áp dụng để tìm ra được những hạn chế, bất cập. - Về thời gian và không gian: Tác giả nghiên cứu trên cơ sở khảo sát thực tế, thu thập tài liệu về các vụ án có áp dụng biện pháp cưỡng chế nói chung và biện pháp áp giải, dẫn giải nói riêng trên phạm vi toàn quốc trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: tra cứu, thu thập thông tin, so sánh, phân tích, chứng minh, tổng hợp và thống kê, khảo sát thực tiễn. - Phương pháp tra cứu, thu thập thông tin: Tác giả sử dụng phương pháp này để tìm kiếm các nguồn tài liệu như các văn bản quy phạm pháp luật, sách, luận văn, tạp chí khoa học chuyên ngành, trang thông tin điện tử liên quan đến nội dung của đề tài. - Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng để so sánh các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cũng như so sánh các quan điểm của các nhà nghiên cứu với nhau. 10 - Phương pháp phân tích: Từ cơ sở lý luận đến các quy định của pháp luật và thực tiễn, tác giả tiến hành phân tích các vấn đề dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau để làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu. - Phương pháp chứng minh: Tác giả dẫn chứng các tài liệu và các thông tin có được từ những nguồn đáng tin cậy để làm rõ cho các lập luận của mình. - Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này để tổng hợp các tài liệu, dữ liệu có được, từ đó đi đến kết luận các vấn đề sau khi đã phân tích, chứng minh và so sánh. - Phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn: Tác giả sử dụng để đánh giá thực tiễn áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải trong các vụ án hình sự. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Thành công của đề tài một mặt sẽ góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về biện pháp áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự, đặc biệt là làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận, cũng như thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp áp giải, dẫn giải. Mặt khác, luận văn còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Ngoài ra, luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ cho hoạt động giảng dạy, học tập và nghiên cứu đối với chuyên ngành Luật Tố tụng hình sự. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm hai chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp áp giải, dẫn giải. - Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải và một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ BIỆN PHÁP ÁP GIẢI, DẪN GIẢI 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của biện pháp áp giải, dẫn giải trong tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm về biện pháp áp giải, dẫn giải Theo Từ điển tiếng Việt thì “áp giải” được hiểu là “đi kèm để giải đi”4, còn “dẫn giải” được hiểu là “giải (người phạm pháp) đến một nơi khác”5. Qua sự giải thích này, cho thấy còn khá chung chung, chưa làm rõ được hết nội hàm của thuật ngữ áp giải và dẫn giải. Chẳng hạn việc giải thích thuật ngữ “áp giải” cho thấy thiên về góc độ người thi hành quyết định áp giải, còn “dẫn giải” lại thiên về điểm đến của nơi cần áp giải, trong khi giữa áp giải và dẫn giải có điểm chung là đều có người đi kèm để giải đi và đều đi từ nơi này đến nơi khác theo quyết định của cơ quan hoặc cá nhân có thẩm quyền được pháp luật cho phép. Từ điển Luật học không giải thích thuật ngữ “dẫn giải” mà chỉ giải thích thuật ngữ “áp giải”. Theo đó, “áp giải” được hiểu là “biện pháp cưỡng chế được áp dụng với những bị can, bị cáo tại ngoại đã nhận được giấy triệu tập của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc với người bị kết án phạt tù đang tại ngoại đã quá thời hạn phải có mặt tại cơ quan công an để chấp hành án mà vẫn không có mặt”6. Có thể thấy, sự giải thích này dựa trên cơ sở đối tượng, thẩm quyền và căn cứ áp dụng. Do Từ điển Luật học được biên soạn vào năm 2006, khi đó BLTTHS năm 2003 đang có hiệu lực thi hành. Cho nên, đến khi BLTTHS năm 2015 ra đời thì sự giải thích này đã không còn phù hợp, do BLTTHS năm 2015 đã mở rộng đối tượng, thẩm quyền và căn cứ áp dụng. Tuy nhiên, quay trở lại nguồn gốc ra đời của thuật ngữ “áp giải” và “dẫn giải” có thể thấy trước khi BLTTHS năm 1988 được ban hành, việc cưỡng chế bị cáo tại ngoại đến phiên tòa được gọi là “dẫn giải”. Thuật ngữ “áp giải” được sử 4 Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, (Hoàng Phê chủ biên), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 12. 5 Viện Ngôn ngữ học (2016), Từ điển tiếng Việt, (Hoàng Phê chủ biên), Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, tr. 312. Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 17. 6 12 dụng từ khi BLTTHS năm 1988 ra đời (khoản 1 Điều 162), tiếp tục được sử dụng trong BLTTHS năm 2003 (Điều 187) và BLTTHS năm 2015 (Điều 4). Nhằm tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình xây dựng và thực hiện BLTTHS năm 2015, nên các nhà làm luật đã bổ sung một điều luật mới để giải thích các từ ngữ trong BLTTHS năm 2015, trong đó có giải thích thuật ngữ áp giải và dẫn giải. Theo đó, “áp giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử”7. Còn “dẫn giải là việc cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế người làm chứng, người bị tố giác hoặc bị kiến nghị khởi tố đến địa điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định”8. Qua các khái niệm trên cho thấy, BLTTHS năm 2015 đã xác định được bản chất của hai biện pháp, đồng thời còn giúp cho người đọc hình dung một cách khái quát về đối tượng, trường hợp bị áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Tuy nhiên, nếu xét từ khía cạnh nội hàm của hai khái niệm thì các khái niệm nêu trên chưa hoàn toàn thỏa mãn yêu cầu của người nghiên cứu. Bởi vì, nếu căn cứ vào thuật ngữ và đối tượng áp dụng, cho thấy biện pháp áp giải mang tính cưỡng chế cao hơn biện pháp dẫn giải. Do đó, có thể suy đoán được mức độ cưỡng chế sử dụng đối với hai biện pháp này. Thế nhưng, vấn đề này lại không được thể hiện trong BLTTHS năm 2015. Chính vì vậy, có nhận định cho rằng, theo khái niệm các nhà làm luật đưa ra, “bản chất của hai biện pháp không có gì khác nhau ngoài đối tượng áp dụng”9. Đồng thời, Điều 127 BLTTHS năm 2015 cũng không nêu rõ mức độ cưỡng chế, biện pháp và công cụ có thể sử dụng khi cưỡng chế trong hai trường hợp này. Ngoài ra, các khái niệm nêu trên còn cho thấy, mục đích của việc áp giải và dẫn giải nhằm đảm bảo cho việc “tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử”. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 126 BLTTHS năm 2015 thì mục đích của các biện pháp cưỡng chế, trong đó có biện pháp áp giải và dẫn giải là “để đảm bảo hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”. Như vậy, biện pháp áp giải và dẫn giải trong TTHS có giai đoạn thi hành án hay không? Hay nói khác hơn là có nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động thi hành án hay không? Tác giả cho rằng, 7 Điểm k khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015. 8 Điểm l khoản 1 Điều 4 BLTTHS năm 2015. Nguyễn Thái Phúc (2016), Biện pháp ngăn chặn và biện pháp cưỡng chế, trong sách chuyên khảo “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” do tác giả Nguyễn Hòa Bình chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr. 258. 9 13 biện pháp áp giải và dẫn giải trong TTHS không nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động thi hành án. Bởi lẽ, “áp giải thi hành án” được hiểu là “việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật THAHS buộc người chấp hành án phạt tù, tử hình, trục xuất đến nơi chấp hành án”10. Do đó, nếu trong trường hợp các đối tượng là người bị kết án phạt tù hoặc tử hình hoặc trục xuất không chấp hành việc thi hành án thì sẽ bị cơ quan, người có thẩm quyền (cơ quan THAHS cấp quân khu; cơ quan THAHS Công an cấp huyện; Trại giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Công an cấp tỉnh, cấp quân khu)11 ra quyết định áp giải để buộc họ phải đến nơi chấp hành án. Theo đó, trường hợp người bị kết án phạt tù đang tại ngoại thì trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án, người chấp hành án phải có mặt tại trụ sở cơ quan THAHS Công an cấp huyện hoặc cơ quan THAHS cấp quân khu được chỉ định trong quyết định thi hành án; quá thời hạn này mà người đó không có mặt, Cảnh sát THAHS và hỗ trợ tư pháp hoặc Vệ binh hỗ trợ tư pháp thực hiện áp giải thi hành án12. Như vậy, có thể nhận thấy đây là nhiệm vụ của Cơ quan THAHS và không thuộc phạm vi điều chỉnh của BLTTHS. Có thể lý giải cho vấn đề nêu trên là do quy định tại Điều 126 BLTTHS năm 2015 được quy định chung cho các biện pháp cưỡng chế trong TTHS gồm áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản và phong tỏa tài khoản. Tuy nhiên, việc quy định không rạch ròi mục đích của từng biện pháp cưỡng chế nên dẫn đến cách hiểu là có sự không tương thích về mục đích của biện pháp áp giải, dẫn giải giữa quy định tại điểm k và điểm l Điều 4 với Điều 126 BLTTHS năm 2015 cũng là sự hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp của một văn bản luật. Từ những phân tích nêu trên, chúng ta có thể hiểu biện pháp “áp giải” và “dẫn giải” trong TTHS một cách chung nhất như sau: “Áp giải là biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng, kèm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo lệnh bắt, quyết định truy nã hoặc theo giấy triệu tập nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử”. Tương tự: “Dẫn giải là biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan, người có thẩm quyền THTT áp dụng, giám sát, buộc bị hại, người làm chứng, người bị tố giác 10 Khoản 16 Điều Điều 3 Luật THAHS năm 2019. 11 Khoản 4 Điều 15, khoản 4 Điều 16 và điểm i khoản 1 Điều 17 Luật THAHS năm 2019. 12 Khoản 4 Điều 23 Luật THAHS năm 2019. 14 hoặc bị kiến nghị khởi tố đến Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án theo giấy triệu tập nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc người bị hại từ chối giám định”. 1.1.2. Đặc điểm của biện pháp áp giải, dẫn giải Biện pháp áp giải, dẫn giải là một trong bốn biện pháp cưỡng chế được quy định tại Điều 126 BLTTHS năm 2015. Do đó, biện pháp cưỡng chế nói chung và biện pháp áp giải, dẫn giải nói riêng cũng có những đặc điểm giống nhau. Thứ nhất, áp giải, dẫn giải là một dạng của biện pháp cưỡng chế nhà nước nói chung và mang đầy đủ dấu hiệu về bản chất của các biện pháp cưỡng chế là tính quyền lực nhà nước - tính bắt buộc thi hành. Chủ thể áp dụng luôn là cá nhân, cơ quan có quyền hạn, nắm giữ quyền lực nhà nước trong hoạt động TTHS - cá nhân, cơ quan có thẩm quyền THTT trong VAHS cụ thể nhằm triển khai các hoạt động tố tụng trên thực tiễn. Đối tượng bị áp dụng của biện pháp áp giải, dẫn giải chỉ có thể là cá nhân tham gia trong các hoạt động TTHS với những tư cách tố tụng khác nhau như: người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, người làm chứng, người bị tố giác hoặc kiến nghị khởi tố. Bởi vì, pháp nhân thương mại phạm tội là một thực thể pháp lý độc lập, tự bản thân nó sẽ không thể hành động cho chính mình, cũng như không thể tự tham gia tố tụng, mà đòi hỏi phải thông qua một người cụ thể đại diện để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Theo đó, mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu TNHS được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; pháp nhân phải cử và bảo đảm cho người đại diện theo pháp luật của mình tham gia đầy đủ các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án theo yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền13; và nếu như họ vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì người có thẩm quyền THTT có thể ra quyết định dẫn giải14. Do đó, một khi đã tham gia tố tụng thì những đối tượng nêu trên phải thực hiện những nghĩa vụ tố tụng bắt buộc trong quá trình giải quyết VAHS và khi họ không tự nguyện, tự giác thực hiện các nghĩa vụ đã được quy định thì phải đối mặt với nguy cơ có thể bị áp dụng biện pháp áp giải, dẫn giải nhằm buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo luật định. 13 Khoản 1 Điều 434 BLTTHS năm 2015. 14 Khoản 3 Điều 440 BLTTHS năm 2015.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan