Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Áp dụng các hình phạt không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực t...

Tài liệu Áp dụng các hình phạt không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Yên.

.PDF
86
190
134

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH NHẬT ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ Hà Nội, năm 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN MINH NHẬT ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự Mã số : 8.38.01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ Hà Nội, năm 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin lấy danh dự của mình ra cam đoan rằng luận văn này hoàn toàn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng một mình tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Văn Độ. Tác giả Trần Minh Nhật MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO..................................................................... 6 1.1. Lý luận về hình phạt không tước tự do ...................................................... 6 1.2. Lý luận về áp dụng hình phạt không tước tự do ...................................... 13 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định hình phạt không tước tự do ......... 26 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH PHÚ YÊN.................................................................................... 30 2.1. Các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt không tước tự do ........... 30 2.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước tự do tại tỉnh Phú Yên ...... 44 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO ................................ 57 3.1. Các yêu cầu .............................................................................................. 57 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng các hình phạt không tước tự do ............ 62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANQG : An ninh quốc gia BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự HĐTP : Hội đồng thấm phán PLHS : Pháp luật hình sự TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TNHS : Trách nhiệm hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao cho xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Đấu tranh phòng chống tội phạm, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là nhiệm vụ của bất kỳ nhà nước nào trong bất kỳ xã hội nào. Là một trong những công cụ hữu hiệu để nhà nước thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì pháp luật hình sự không chỉ quy định về tội phạm mà còn quy định về hình phạt. C.Mác đã từng viết: “Hình phạt chẳng qua là thủ đoạn tự vệ của xã hội với những hành vi xâm phạm những điều kiện tồn tại của xã hội đó”. Cũng nhằm thực hiện nhiệm vụ đó, nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã xây dựng BLHS với nhiều loại hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội khác nhau. Trong đó các hình phạt không tước tự do giữ một vị trí và vai trò nhất định. Tuy nhiên, hệ thống các hình phạt không tước tự do trong Luật hình sự Việt Nam còn tồn tại nhiều bất cập; các điều kiện áp dụng hình phạt không tước tự do còn quy định chung chung; ranh giới giữa các hình phạt không tước tự do còn khó xác định; giới hạn mức hình phạt tối thiểu và tối đa trong số các hình phạt không tước tự do chưa sát thực tế; tương quan giữa các loại hình phạt truyền thống như hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình và các loại hình phạt không tước tự do chưa tương xứng. Đặc biệt, với thói quen phạt tù trong truyền thống xét xử của Tòa án, coi phạt tù là giải pháp tốt nhất trong phòng, chống tội phạm. Cạnh đó, dư luận xã hội thiếu tích cực đối với tình hình áp dụng các hình phạt không tước tự do, cho rằng các hình phạt không tước tự do không có tác dụng răng đe, phòng ngừa tội phạm, đồng thời cũng nghi ngờ có tiêu cực của Thẩm phán nên số lượng hình phạt không tước tự do trong thực tiễn cũng rất ít được áp dụng; các quy định về thi hành hình phạt không tước tự do còn tồn tại một số bất cập, thực tiễn áp dụng và thi hành nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ 1 trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với nội dung “sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật…, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội…”, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về các hình phạt không tước tự do và thực tiễn áp dụng hình phạt này để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cấp thiết để tôi lựa chọn đề tài “Áp dụng các hình phạt không tước tự do theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Trong khoa học luật hình sự đã có nhiều công trình nghiên cứu về các hình phạt không tước đoạt tự do ở những mức độ khác nhau, trên những khía cạnh, phương diện, phạm vi khác nhau. Trước hết phải kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu của các chuyên gia đầu ngành như: Chính sách hình sự và hình phạt – GS.TSKH Đào Trí Úc; Một số căn cứ lý luận và thực tiễn nâng cao hiệu quả hình phạt trong luật hình sự Việt Nam – PGS.TS Uông Chu Lưu, Nguyễn Đức Tuấn; Khái niệm hình phạt và hệ thống hình phạt – GS.TS Võ Khánh Vinh – Nxb Chính trị quốc gia năm 1994; Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự Việt Nam phạt – GS.TS Võ Khánh Vinh (1994), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội (1994); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung), – GS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2001), Nxb Giáo dục, Hà Nội; Hiệu quả hình phạt, khái niệm và tiêu chí – PGS.TS Trần Văn Độ; Hình phạt tiền, những vấn đề lý luận và thực tiễn – PGS.TS Nguyễn Đức Tuấn - được viết trong cuốn sách Hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam - Nxb Chính trị quốc gia năm 1995; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Trần Văn Độ (1994), "Quan niệm mới về hình phạt", Trong chuyên đề: Bộ luật hình sự: Thực trạng và phương hướng đổi mới, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Hà Nội. Có thể nói đây là những công trình đầu tiên đặt nền móng về cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như các vấn đề về hiệu quả và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của 2 hình phạt nói chung và hình phạt không tước tự do nói riêng. Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có đề cập đến các hình phạt không tước đoạt tự do như: Nguyễn Văn Trượng, Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, (4)/2009; GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện pháp tư pháp trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật (8)/2000; PGS.TS. Dương Tuyết Miên, Sự mâu thuẫn giữa hình phạt tiền quy định tại khoản 1 Điều 30 BLHS với một số tội phạm cụ thể và những bất cập của hình phạt này, Tạp chí Tòa án nhân dân (15)/2006; Hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù, Tạp chí Tòa án nhân dân (19)/2008; TS. Trịnh Quốc Toản, Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật (7)/2003; TS. Trịnh Tiến Việt, Một số vấn đề mới về hình phạt tiền trong BLHS năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân (7)/2003; Đỗ Văn Chỉnh, Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng, Tạp chí Tòa án nhân dân (3)/2009; Nguyễn Hoàng Lâm, Một số vấn đề lý luận về hình phạt tiền, Tạp chí Tòa án nhân dân (8)/2009, Lý Văn Tầm, Một số ý kiến về hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999, Tạp chí Kiểm sát (4)/2013… Cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003; Trịnh Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010… Cấp độ luận văn thạc sĩ thực hiện ở Viện Nhà nước và pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt nam) có các đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1996; Vũ Lai Bằng, Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 1997. Qua kết quả khảo sát trên cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến các hình phạt không tước đoạt tự do nhưng chỉ trong một phạm vi nhất định, chỉ nghiên cứu ở khía cạnh là hình phạt chính hoặc chỉ nghiên cứu ở khía cạnh là hình phạt bổ sung. Một số công trình nghiên cứu riêng về các hình phạt không tước tự do nhưng xét về phương diện thời gian tính đến nay đã tương đối xa, trong khi nhiều quy định pháp luật hình sự về các hình phạt này đã được sửa đổi, bổ sung. Nghiên cứu các hình phạt không tước tự do và áp dụng các hình phạt đó theo tinh thần 3 Cải cách tư pháp, theo quy định của BLHS 2015 chưa được nghiên cứu thỏa đáng trong khoa học hình sự nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các hình phạt không tước tự do, đánh giá thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước tự do tại tỉnh Phú Yên, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế và những nguyên nhân của nó, đề xuất những giải pháp hoàn thiện những quy định về các hình phạt không tước tự do trong Bộ luật hình sự Việt nam hiện hành và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng các hình phạt không tước tự do. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước tự do tại tỉnh Phú Yên. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện BLHS và bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt không tước tự do trước yêu cầu cải cách tư pháp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về các hình phạt không tước đoạt tự do trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các loại hình phạt này tại tỉnh Phú Yên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các hình phạt không tước đoạt tự do đối với thể nhân trong luật hình sự Việt Nam; nghiên cứu tình hình áp dụng các loại hình phạt này trong thực tiễn xét xử tại tỉnh Phú Yên. Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt không tước đoạt tự do trên phạm vi tỉnh Phú Yên trong 05 năm (2013 – 2017). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – xít, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp 4 luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê; phương pháp khảo sát thực tiễn và chuyên gia để giải quyết các vấn đề của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn góp tiếng nói khiêm tốn vào lý luận luật hình sự nói chung, lý luận về hình phạt không tước tự do nói riêng trong khoa học luật hình sự nước ta. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về thực tiễn, Luận văn là tài liệu tham khảo cho không chỉ các nhà lập pháp trong hoàn thiện BLHS; cho cơ quan có thẩm quyền trong hướng dẫn bảo đảm áp dụng pháp luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và cơ quan thi hành án trong quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật. Ngoài ra, Luận văn có thể là tài liệu để các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tư pháp hình sự sử dụng trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học Luật hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài tiệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt không tước tự do. Chương 2: Quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt không tước tự do và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Phú Yên. Chương 3: Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các hình phạt không tước tự do. 5 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO 1.1. Lý luận về hình phạt không tước tự do 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hình phạt không tước tự do Trong khoa học luật hình sự nước ngoài và Việt Nam xung quanh khái niệm hình phạt, giữa các nhà hình sự học vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau mà vẫn chưa có một quan điểm thống nhất. Dựa trên cơ sở các quan niệm khác nhau về hình phạt trong khoa học luật hình sự, có thể định nghĩa khái niệm khoa học về hình phạt như sau: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền quyết định trong bản án kết tội nhằm tước bỏ hay hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của người bị áp dụng theo thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong khoa học luật hình sự, hình phạt được phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung; căn cứ chủ yếu để phân biệt sự khác nhau giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung là khả năng áp dụng hình phạt đối với mỗi tội phạm. Hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập và mỗi tội phạm chỉ có thể bị tuyên một loại hình phạt chính. Hình phạt bổ sung không thể tuyên độc lập mà chỉ có thể tuyên kèm theo với một hình phạt chính nào đó và mỗi tội phạm có thể bị tuyên một hoặc một số loại hình phạt bổ sung. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, học viên đi sâu nghiên cứu về bảy loại hình phạt không tước tự do, bao gồm: 1) Cảnh cáo; 2) Phạt tiền; 3) Cải tạo không giam giữ; 4) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; 5) Tước một số quyền công dân; 6) Tịch thu tài sản; 7) Trục xuất. Tuy các hình phạt như cấm cư trú và quản chế cũng không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội nhưng căn cứ vào các điều kiện áp dụng cho thấy đây là các loại hình phạt hạn chế quyền tự do của người bị kết án. Khi bị áp dụng các loại hình phạt này, người bị kết án bị tước bỏ quyền tự do cư trú ở một số địa phương nhất định (như ở hình phạt cấm cư trú) hoặc bị buộc phải cư trú, làm ăn sinh sống ở một đơn vị hành chính cụ thể (đối với 6 người bị tuyên phạt hình phạt quản chế). Mục đích chủ yếu của việc áp dụng các hình phạt này là nhằm hạn chế tự do để ngăn chặn người phạm tội lợi dụng địa bàn thuận lợi để thực hiện các hoạt động tội phạm. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đưa ra định nghĩa rõ ràng, đầy đủ về hình phạt không tước tự do. Các tác giả có đưa ra thuật ngữ hình phạt không tước tự do nhưng chưa đi sâu nghiên cứu để đưa ra định nghĩa với nội hàm đầy đủ của khái niệm hình phạt không tước tự do. Từ định nghĩa khoa học về hình phạt trong luật hình sự và những phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa khái niệm hình phạt không tước tự do như sau: Hình phạt không tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật tước bỏ hay hạn chế quyền, ngoài quyền tự do thân thể, quyền tự do cư trú, hạn chế hay tước bỏ lợi ích hợp pháp của người bị kết án nhằm giáo dục cải tạo người phạm tội, giáo dục phòng ngừa chung. Hình phạt không tước tự do có đầy đủ những đặc điểm chung của hình phạt đồng thời có những đặc điểm riêng biệt cơ bản như sau: - Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội: Đây là đặc điểm quan trọng nhất của hình phạt không tước tự do. Khi bị áp dụng hình phạt không tước tự do, bị án được giáo dục, cải tạo không cần phải cách ly khỏi xã hội, được thi hành án trong môi trường bình thường nơi người đó sống hoặc làm việc, công tác. Người bị kết án tự cải tạo với sự giám sát, giúp đỡ và giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương và gia đình. - Tính chất cưỡng chế của hình phạt không tước tự do thấp hơn hình phạt tù: Ở hình phạt tù (tù có thời hạn hoặc tù chung thân), Nhà nước áp đặt chế độ giam giữ, lao động, sinh hoạt và kỷ luật khắt khe đối với người phạm tội để giáo dục, cải tạo người phạm tội, còn ở hình phạt không tước tự do, yếu tố quyết định trong việc cải tạo người phạm tội lại chính là bản thân người phạm tội, là ý thức tự giác của họ; trong quá trình cải tạo người phạm tội không phải chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ như ở hình phạt tù mà chỉ phải chịu sự quản lý, giám sát ở một mức độ nhất định. Các hình phạt tước tự do thể hiện rõ nét hơn nội dung trừng trị, tính chất cưỡng chế về hình sự cao hơn khi so với các hình phạt không tước tự do. 7 - Việc thi hành hình phạt không tước tự do được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau: Việc thi hành hình phạt không tước tự do được thực hiện bởi nhiều cơ quan, tổ chức khác nhau. Đặc điểm này thể hiện rõ tại quy định của Điều 275 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: + Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi, giáo dục, giám sát việc cải tạo của những người được hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ. + Việc thi hành hình phạt quản chế, cấm cư trú, tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định do chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi thi hành án đảm nhiệm. Về ý nghĩa của việc giao cho nhiều cơ quan khác nhau thi hành các hình phạt không tước tự do, chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhận định "Việc thi hành các hình phạt khác không phải tù, không do một cơ quan thực hiện mà được giao cho nhiều cơ quan, tổ chức xã hội nơi người bị kết án cư trú theo dõi, giám sát thể hiện bản chất nhân đạo của Nhà nước ta và xu hướng xã hội hoá một số mặt công tác thi hành án hình sự hiện nay". - Điều kiện áp dụng và các hậu quả pháp lý phát sinh từ các hình phạt không tước tự do cũng mang sắc thái riêng của mình: Các hình phạt chính không tước tự do như cảnh cáo, phạt tiền chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng; hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; các hình phạt bổ sung không tước tự do như hình phạt tước một số quyền công dân chỉ áp dụng đối với công dân Việt Nam, bị kết án phạt tù về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm khác trong những trường hợp do Bộ luật hình sự quy định…. - Hình phạt không tước tự do bao gồm một số hình phạt chính và hình phạt bổ sung: Nếu như các hình phạt tước tự do chỉ được quy định là hình phạt chính thì hình phạt không tước tự do gồm một tiểu hệ thống các loại hình phạt đa dạng, phong phú. Các hình phạt chính không tước tự do gồm: 1) Cảnh cáo, 2) Phạt tiền và 3) Cải tạo không giam giữ. Các hình phạt bổ sung không tước tự do, gồm: 1) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; 2) Tước một số quyền công 8 dân; 3) Tịch thu tài sản; 4) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính. - Việc thi hành hình phạt không tước tự do phát huy cao vai trò của cộng đồng trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội: Như ở đặc điểm thứ nhất đã đề cập, người bị kết án và bị áp dụng các hình phạt chính không tước tự do được cải tạo dưới sự giám sát, giúp đỡ và giáo dục của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương và gia đình. Các nhân tố đó đóng vai trò rất quan trọng trong việc cảm hoá người phạm tội trở thành người lương thiện. Người bị kết án được hoà nhập với xã hội, được hưởng các chế độ sinh hoạt bình thường, nếu không muốn bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc hơn thì người đó phải tự giác cải tạo cho thật tốt, xoá đi mặc cảm của chính mình và thành kiến của cộng đồng, tái hoà nhập đầy đủ với xã hội. Bản thân người bị kết án có nhiều cơ hội để sữa chữa lỗi lầm, tích cực rèn luyện, tu dưỡng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, mặc cảm của những người mãn hạn tù trở về cộng đồng là sâu sắc, trầm trọng, cùng với nó là sức ép, định kiến của xã hội đối với người chấp hành hình phạt tù trở về rất lớn nên nhiều người đã không vượt qua được lực cản đó, bị cô lập, sinh ra tự ti, chán nản…dễ tái phạm. Hình phạt không đạt được mục đích cơ bản nhất của nó là giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người lương thiện, hoà nhập đầy đủ với xã hội, cộng đồng. 1.1.2. Mục đích của hình phạt không tước tự do Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về mục đích của hình phạt như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Mục đích của hình phạt là kết quả cuối cùng mà Nhà nước mong muốn đạt được khi quyết định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Nó thể hiện trước hết ở chỗ hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm đó càng nghiêm khắc. Tuy nhiên, mục đích mà hình phạt hướng tới đầu tiên 9 chính là giáo dục cải tạo người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Hình phạt trước hết là hậu quả pháp lý của tội phạm, là thước đo thái độ lên án của Nhà nước đối với cá nhân người phạm tội, là tiêu chí của công lý và công bằng xã hội. Trừng trị công minh là yếu tố tiên quyết quan trọng để đảm bảo mục đích giáo dục. Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong từng trường hợp cụ thể bao giờ cũng tác động đến các thành viên khác trong xã hội (đặc biệt là các trường hợp phạm tội điển hình trong xã hội thì càng có tác động mạnh tới công dân về ý thức lập pháp). Tùy vào từng vụ án hình sự, ý thức pháp luật, sự chú ý riêng cũng như những đặc điểm riêng về tâm sinh lý của mỗi người…mà mức độ tác động của hình phạt đối với họ khác nhau. Mục đích của hình phạt không tước tự do nhằm hướng thiện, giáo dục; tôn trọng, bảo đảm quyền con người, phòng ngừa phạm tội mới. Đặc biệt, để người phạm tội thấy được cái sai rồi tự sửa chữa cho mình và tôn trọng người khác, chấp hành pháp luật tốt hơn. Hình phạt tác động trực tiếp đến người phạm tội, không chỉ trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội vì vậy rất cần sự cân nhắc, xem xét tạo điều kiện để người phạm tội tự bản thân nhìn nhận, sửa chữa thành người có ích, lương thiện, không vi phạm pháp luật. Khi ý thức được những sai phạm, giá trị của sự tự do cho bản thân, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người được tôn trọng, bảo vệ thì nguy cơ phạm tội mới sẽ được giảm đi rất nhiều. 1.1.3. Vai trò của hình phạt không tước tự do trong hệ thống hình phạt Hình phạt không tước tự do thể hiện nguyên tắc phân hoá TNHS và cá thể hoá hình phạt. Để có thể thực hiện nguyên tắc xử lý của pháp luật hình sự là nghiêm trị kẻ chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, kẻ ngoan cố chống đối, khoan hồng đối với người tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải, áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng và đã hối cải ... đòi hỏi phải có một hệ thống các biện pháp hình sự đa dạng. Một hệ thống hình phạt càng có nhiều loại hình phạt có điều kiện áp dụng, tính chất cưỡng chế khác nhau thì việc xử lý càng chính xác, các tình tiết của hành vi phạm tội, các yếu tố thuộc nhân thân người phạm tội được cân nhắc khi 10 quyết định hình phạt. Do đó, mục đích hình phạt đạt được càng cao. Hình phạt không tước tự do thể hiện sự đa dạng hoá các loại hình phạt trong Luật hình sự và là điều kiện đảm bảo tính thống nhất trong thực tiễn xét xử của các Toà án, đảm bảo cho việc xét xử bình đẳng, công bằng. Với nhiều loại hình phạt khác nhau được quy định thì khoảng cách giữa chúng càng nhỏ đi và tính chính xác càng cao. Cho nên, việc quyết định hình phạt của các Toà án không dẫn đến kết quả khác xa nhau. Ví dụ: nếu thiếu hình phạt cải tạo không giam giữ thì việc lựa chọn giữa phạt tù và cảnh cáo có thể dẫn đến kết quả là cùng trong những điều kiện như nhau, trường hợp này thì bị cáo bị xử phạt tù, trường hợp kia lại chỉ bị phạt cảnh cáo, trong khi hậu quả pháp lý của hai loại hình phạt đó là rất khác nhau, có ảnh hưởng rất lớn đến tự do, danh dự…của công dân. "Hệ thống hình phạt sẽ là không hoàn thiện…nếu giữa chúng tồn tại những "khoảng trống" đòi hỏi phải được bổ sung bằng một hoặc nhiều loại hình phạt khác có mức độ nghiêm khắc tương ứng". Việc quy định các hình phạt không tước tự do trong hệ thống hình phạt thể hiện nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự. Nguyên tắc này thể hiện ở hai khía cạnh: "Nhân đạo đối với các lợi ích xã hội mà luật hình sự có chức năng bảo vệ và nhân đạo với người phạm tội". Đối với các lợi ích xã hội, việc áp dụng các hình phạt không tước tự do đối với người phạm tội tiết kiệm được những chi phí đáng kể cho việc giáo dục, cải tạo, hạn chế những hậu quả xã hội tiêu cực có thể phát sinh do việc áp dụng hình phạt tù mà vẫn đạt được mục đích giáo dục, cải tạo và phòng ngừa. Đối với người phạm tội, việc áp dụng các hình phạt không tước tự do thể hiện quan điểm nhân đạo của Nhà nước ta rất rõ nét. Chấp hành các hình phạt không phải là tù, người bị kết án chỉ phải chịu sự tổn thất các mặt ở mức tối thiểu: đó là sự tổn thất nhất định về tinh thần (hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ), một thiệt hại nhất định về vật chất (phạt tiền, tịch thu tài sản) và về chính trị (hình phạt tước một số quyền công dân), nhưng các lợi ích cơ bản khác của người phạm tội vẫn được bảo đảm, đặc biệt họ không phải cách ly khỏi xã hội, được sống và lao động trong môi trường bình thường. Các hình phạt không tước tự do ở những phạm vi nhất định góp phần làm tăng hiệu quả của hệ thống hình phạt. Trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của nước ta, việc tổ chức thi hành các bản án phạt tù đang là vấn đề phức tạp như tình trạng nhà tù 11 quá tải, người phạm tội sau khi mãn hạn tù gặp rất nhiều khó khăn (về việc làm, về tâm lý...) để hoà nhập cuộc sống nên lại tái phạm…. Vì vậy, việc chấp hành hình phạt tù nhiều khi chỉ thực hiện được mục đích răn đe, phòng ngừa và nội dung trừng trị mà không đạt được mục đích giáo dục, cải tạo. Hiệu quả của hình phạt tù đối với những người bị kết án về tội ít nghiêm trọng, tội vô ý... không cao. Việc quy định các hình phạt không tước tự do đã mở ra khả năng khắc phục những mặt hạn chế đó của án phạt tù. Về vấn đề nay, có tác giả đã đánh giá rất đúng đắn và khoa học khi cho rằng: "Kinh nghiệm thực tiễn đã đúc kết là bất kỳ một sự nghiêm khắc quá đáng nào của hình phạt được áp dụng cũng không phù hợp với nguyên tắc nhân đạo và công bằng, dẫn đến sự chán nản, không còn lòng tin vào tính công minh của pháp luật và làm mất động lực tự cải tạo, giáo dục của người phạm tội". Chấp hành hình phạt không tước tự do, người bị kết án cải tạo và giáo dục trong môi trường lành mạnh ở địa phương, cơ quan và tổ chức nơi họ sống và công tác trước khi phạm tội. Trong quá trình chấp hành hình phạt, nghĩa vụ tự cải tạo, giáo dục của người bị kết án được gắn liền với trách nhiệm theo dõi, giám sát và giáo dục của cơ quan hoặc tổ chức xã hội. Việc quy định các hình phạt không tước tự do là nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức vào công tác thi hành án; thể hiện sâu sắc nguyên tắc giúp đỡ những người lầm lỗi sớm trở thành người lương thiện là trách nhiệm của cả xã hội chứ không chỉ của riêng tổ chức, cá nhân nào. Việc quy định các hình phạt không tước tự do còn thể hiện rõ nét nguyên tắc thuyết phục, giáo dục là chính của luật hình sự Việt Nam. Mặc dù hình phạt có thuộc tính trừng trị nhưng trừng trị cũng nhằm thực hiện mục đích là cải tạo, giáo dục người phạm tội. Vì vậy, yếu tố trừng trị chỉ ở mức cần và đủ để giáo dục, cải tạo người phạm tội và giáo dục, phòng ngừa chung. Nếu cùng đạt được mục đích như nhau, hình phạt nào có tính chất cưỡng chế thấp (tức khả năng làm phát sinh những hậu quả tiêu cực ít hơn) mà vẫn đạt những hiệu quả tương đương với những hình phạt có tính chất cưỡng chế mạnh mẽ thì phải sử dụng những hình phạt có tính chất cưỡng chế thấp hơn. Hình phạt không tước tự do với tư cách là các hình phạt bổ sung theo quy định của BLHS hiện hành hỗ trợ đắc lực cho các hình phạt tước tự do. Hình phạt chính là loại hình phạt được áp dụng chính, độc lập cho mỗi loại tội phạm cụ thể, không phụ 12 thuộc vào các loại hình phạt khác. Về cơ bản, hình phạt chính đáp ứng được yêu cầu tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của mỗi loại tội phạm cụ thể. Các hình phạt bổ sung nằm trong hệ thống các hình phạt không tước tự do có tác dụng củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính, giúp cho việc xử lý tội phạm được toàn diện và triệt để, tăng cường tác dụng phòng ngừa riêng và răn đe chung của hình phạt chính. Các hình phạt như cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định, tịch thu tài sản, tước một số quyền công dân giúp triệt tiêu điều kiện để tội phạm có thể được thực hiện, đảm bảo cho người bị kết án không có cơ hội lợi dụng những điều kiện về vị trí công tác, công việc, nghề nghiệp hay tài sản để tiếp tục phạm tội. 1.2. Lý luận về áp dụng hình phạt không tước tự do 1.2.1. Khái niệm áp dụng hình phạt không tước tự do Như đã phân tích nêu trên, hình phạt không tước tự do là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do Tòa án quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật để buộc người bị kết án phải chịu một hoặc một số hậu quả pháp lý bất lợi (nhưng không tước hoặc hạn chế quyền tự do thân thể, quyền tự do cư trú), nhằm giáo dục cải tao người phạm tội, phòng ngừa tội phạm. Việc lựa chọn hình phạt nào để áp dụng trong hệ thống hình phạt là đã khó nhưng để lựa chọn một hình phạt đối với các hình phạt không tước tự do lại càng khó khăn, phức tạp hơn. Bởi vì, điều kiện áp dụng của chúng có nhiều điểm giống nhau, khoảng cách phân biệt không lớn. Các hình phạt không tước tự do là những hình phạt không tước bỏ quyền tự do cư trú, đi lại, học tập, ... của người bị kết án và không cách ly họ ra khỏi đời sống xã hội bình thường mà chỉ mang tính răn đe, giáo dục là chính; như: Khiển trách công khai của Tòa án đối với người bị kết án [41, tr.354] (hình phạt cảnh cáo), tước ở người bị kết án một khoản tiền nhất định trong những trường hợp do pháp luật quy định và sung vào công quỹ nhà nước [41, tr.355] (hình phạt tiền), được cải tạo ngay tại nơi thường trú hoặc tại cơ quan nhà nước hoặc tổ chức nơi người đó làm việc [41, tr.357] (hình phạt cải tạo không giam giữ), và buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [41, tr.358] (hình phạt trục xuất). 13 Như vậy, có thể đưa ra khái niệm “Áp dụng hình phạt không tước tự do” như sau:“Áp dụng hình phạt không tước tự do là giai đoạn áp dụng pháp luật hình sự sau khi định tội danh, định khung hình phạt do Tòa án (hội đồng xét xử) thực hiện theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm lựa chọn loại và mức hình phạt không tước tự do áp dụng đối với người bị kết tội trong phạm vi luật định”. Trong khái niệm này, học viên dùng cụm từ “người bị kết tội” chứ không dùng cụm từ “người phạm tội”. Theo khoản 1 Điều 31 Hiến pháp (năm 2013) quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, theo Hiến pháp thì khi “có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật” người bị buộc tội đó mới trở thành người có tội (chứ không phải người phạm tội), còn họ có thực sự là người phạm tội hay không là chuyện khác. Còn người phạm tội là bao gồm cả người thực hiện hành vi phạm tội nhưng có nhiều lý do (điều tra không xác định được, hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, đang bị truy nã khi chưa xét xử,...) họ không (chưa) bị kết án nên không thể áp dụng hình phạt đối với họ. Đồng thời, có người bị kết án nhưng bị oan nên họ không phải là người phạm tội; nên áp dụng hình phạt đối với “người bị kết tội” chuẩn xác đối với “người phạm tội”. Tuy nhiên, cụm từ “người phạm tội” được sử dụng trong khái niệm hình phạt (Điều 26), hình phạt cảnh cáo (Điều 29), phạt tiền (Điều 30), cải tạo không giam giữ (Điều 31) ... của BLHS nhưng đến nay BLHS 2015 sửa đổi 2017 vẫn sử dụng cụm từ “người phạm tội” trong các quy định này (các điều 30, 34, 35, 36). Vấn đề này cũng cần được khắc phục để pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện hơn. 1.2.2. Cơ sở pháp lý của việc áp dụng hình phạt không tước tự do 1.2.2.1. Quy định về các hình phạt không tước tự do trong phần chung BLHS - Hình phạt “Cảnh cáo” Điều 29 BLHS quy định:“Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt”. Từ quy định này, cho ta thấy người bị kết án có thể bị áp dụng hình phạt cảnh cáo khi có đủ các điều kiện sau: Một là: Phạm vào tội ít nghiêm trọng, tức tội phạm gây nguy hại không lớn cho 14 xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù (Khoản 3 Điều 8 BLHS). Như vậy, trong phần các tội phạm của BLHS, những điều luật nào có chứa khung hình phạt quy định mức cao nhất đến ba năm tù thì khung hình phạt đó thuộc tội ít nghiêm trọng, người phạm vào khung đó là phạm tội ít nghiêm trọng. Hai là: Có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tình tiết giảm nhẹ là những tình tiết mà Tòa án sử dụng để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị kết án. Đó có thể là tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS hoặc tình tiết được Toà án xem xét xác định theo khoản 2 Điều 46 BLHS. Có nhiều tình tiết giảm nhẹ là có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên. Theo quy định tại Điều 29 BLHS về hình phạt cảnh cáo, thì điều kiện “có nhiều tình tiết giảm nhẹ” không giới hạn ở Khoản 1 Điều 46, có nghĩa là tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 1 hay Khoản 2 của Điều 46 đều được sử dụng để áp dụng hình phạt cảnh cáo cho người bị kết án, chỉ cần tình tiết giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. Ba là: Chưa đến mức miễn hình phạt. Tại điều 54 BLHS quy định về miễn hình phạt như sau: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 của BLHS, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự”. Trong điều luật này, ta thấy miễn hình phạt có hai điều kiện, (1) là có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 1 Điều 46 BLHS, (2) là đáng được khoan hồng đặc biệt. Tuy nhiên, đáng được khoan hồng đặc biệt là những trường hợp nào thì do Toà án nhận định, đánh giá; cho đến nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Như vậy, khi có đủ 03 điều kiện “phạm tội ít nghiêm trọng”, “có nhiều tình tiết giảm nhẹ” (không phân biệt tình tiết giảm nhẹ ở Khoản 1 hay Khoản 2 Điều 46 BLHS) và “chưa đến mức miễn hình phạt” thì có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo. Tuy nhiên, trong BLHS có đến 140 điều luật quy định là tội ít nghiêm trọng, nhưng trong đó chỉ có 34 điều luật quy định cho phép áp dụng hình phạt cảnh cáo (chiếm tỷ lệ 24%), còn lại 106 điều luật (chiếm 76%) không quy định nên không thể áp dụng hình phạt này. Trong những trường hợp BLHS không quy định, cảnh cáo chỉ có thể được áp dụng theo khoản 2 Điều 47 BLHS để chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn khi đủ điều kiện quy định. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan