http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA MỘT TỔ CHỨC VỚI
NHÀ TẠO LẬP THN TRƯỜNG TRÊN THN TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán phi tập trung, nhà tạo lập thị trường và
mối quan hệ giữa nhà tạo lập thị trường với thị trường chứng khoán
1.1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán phi tập trung
KS.
1.1.1.1. Khái niệm
Thị trường chứng khoán phi tập trung là loại thị trường chứng khoán xuất hiện
sớm nhất trong lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán. Thị
trường được mang tên OTC (Over The Counter) có nghĩa là “thị trường qua
quầy”. Điều này xuất phát từ đặc thù của thị trường là các giao dịch mua bán trên
thị trường được thực hiện trực tiếp tại các quầy của các ngân hàng hoặc các công
ty chứng khoán mà không phải thông qua các trung gian môi giới để đưa vào đấu
giá tập trung.
BOO
Như vậy, có thể hiểu thị trường OTC là một mạng lưới các nhà môi giới và tự
doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư thông qua hình thức
thương lượng thỏa thuận, các hoạt động giao dịch của thị trường OTC được diễn
ra tại quầy (sàn giao dịch) của các ngân hàng và công ty chứng khoán.
KIL
O
1.1.1.2. Vị trí và vai trò của thị trường OTC
Thị trường OTC là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của hệ thống thị trường
chứng khoán. Vì sự có mặt của thị trường này đã góp phần mở rộng thị trường
dành cho các loại chứng khoán chưa được niêm yết trên thị trường tập trung, tạo
ra một kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cung cấp cho thị
trường một phương thức giao dịch khác với phương thức của thị trường tập trung.
Chính vì vậy, thị trường OTC đã góp phần hoàn thiện hệ thống thị trường chứng
khoán.
Đồng thời, với vị trí quan trọng không thể thiếu của mình đối với sự hình thành và
phát triển của TTCK thì thị trường OTC cũng đóng vai trò rất quan trọng đối với
TTCK, thể hiện qua một số vai trò cơ bản sau:
Một là, hỗ trợ và thúc đy thị trường chứng khoán tập trung phát triển:
Thị trường OTC với những chức năng riêng biệt của mình, những chức năng này
không những không lấn át, không thay thế cho chức năng của thị trường tập trung
mà nó là một bộ phận hỗ trợ cho thị trường tập trung. Vì mỗi loại thị trường đều
có những đặc điểm riêng tạo thành một tổng thể phục vụ đa dạng nhu cầu giao
dịch chứng khoán trong nền kinh tế. Sự có mặt của thị trường OTC cùng với thị
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
1
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
trường tập trung tạo thành hệ thống thị trường chứng khoán hoàn thiện cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu.
COM
Do xuất phát từ cơ chế cạnh tranh giữa thị trường chứng khoán tập trung và thị
trường OTC để thu hút người đầu tư đến với thị trường. Thị trường thu hút nhà
đầu tư không chỉ bằng tính thanh khoản, bằng khả năng sinh lời mà còn bằng việc
thị trường nào sẽ tạo điều kiện để nhà đầu tư có thể mua bán được dễ dàng. Do
vậy, thị trường OTC là động lực thúc đNy thị trường chứng khoán tập trung ngày
càng phát triển, và đến lượt mình, thị trường OTC cũng không ngừng hoàn thiện
chính mình để hệ thống thị trường chứng khoán ngày càng phát triển.
Hai là, tạo thị trường cho các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, các
chứng khoán chưa đủ điều kiện niêm yết:
BOO
KS.
Cùng với hệ thống thị trường tài chính nói chung, thị trường OTC có vai trò trong
việc mở ra một kênh huy động vốn mới cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh
nghiệp chưa đủ điều kiện niêm yết để huy động vốn trên thị trường chứng khoán
tập trung, thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán này, phương thức giao
dịch trên thị trường này được coi là linh hoạt, đa dạng, thuận lợi cho người đầu tư
trên cơ sở áp dụng kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, chất lượng cung cấp
dịch vụ cho thị trường ngày càng hoàn hảo. Chính vì thế, thị trường OTC đã góp
phần hoàn thiện môi trường huy động và phân bổ vốn cho các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư.
Ba là, hạn chế, thu hẹp thị trường tự do, góp phần đảm bảo sự ổn định và lành
mạnh của thị trường chứng khoán:
KIL
O
Chúng ta không phủ nhận sự có mặt của thị trường tự do có vai trò nhất định đối
với sự phát triển của TTCK trong giai đoạn hiện nay. Chính sự có mặt của thị
trường tự do đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu phát hành và giao dịch chứng
khoán cho các công ty muốn huy động vốn và nhà đầu tư. Đúng như tên gọi của
mình, giao dịch mua bán trên thị trường tự do là do giữa các bên tự thỏa thuận,
không phải chịu giới hạn trần, sàn về giá như trên thị trường tập trung và cùng với
việc giao dịch mọi lúc mọi nơi, đã giúp cho nhà đầu tư thuận tiện hơn trong việc
mua bán và đặc biệt là có cơ hội kiếm lãi cao.
Nhưng xét cho cùng sự tồn tại của thị trường này ở thời điểm hiện tại và lâu dài sẽ
bộc lộ nhiều tiêu cực. Cụ thể là do thị trường tự do nằm ngoài sự quản lý của nhà
nước cho nên những người hoạt động kinh doanh trên thị trường này sẽ không có
một môi trường giao dịch thuận lợi, không được bảo vệ quyền lợi, hoạt động trong
điều kiện không công bằng dễ xảy ra tình trạng tranh chấp, lừa đảo và môi trường
thông tin không đáng tin cậy. Chính vì vậy, hoạt động của thị trường tự do hiện tại
cũng như về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường chứng khoán
chính thức, đó là sẽ không đảm bảo được sự phát triển ổn định, lành mạnh của thị
trường chứng khoán. Vì vậy, việc hình thành thị trường OTC hoạt động quy cũ sẽ
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
2
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
góp phần đáng kể nhằm khắc phục những hạn chế trên của thị trường chứng
khoán tự do.
Bốn là, tạo môi trường đầu tư linh hoạt, thuận lợi cho các nhà đầu tư:
COM
Thị trường giao dịch cổ phiếu OTC có tổ chức ra đời sẽ mang đến nhiều lợi ích
cho nhà đầu tư. Cụ thể, đó là tránh những rủi ro mang tính pháp lý, tránh tình
trạng mua bán chứng khoán giả mạo, thanh toán không đảm bảo và đặc biệt là tính
thanh khoản kém trên thị trường, tình trạng làm giá, tung tin thất thiệt cũng sẽ
được hạn chế tối đa khi nhà đầu tư có kênh thông tin chính xác, doanh nghiệp có
trách nhiệm với chính cổ phiếu của họ hơn. Đồng thời, mở ra một kênh đầu tư
mới ngoài các cổ phiếu đã niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung, tạo
điều kiện hơn nữa cho các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ, tiếp cận
thị trường chứng khoán một cách nhanh chóng và thuận tiện.
BOO
KS.
Trên đây là vị trí và vai trò hết sức quan trọng của TTCK phi tập trung đối với sự
phát triển của TTCK nói riêng và đối với kinh tế quốc gia nói chung. Đây là
những tác động tích cực của TTCK phi tập trung mà chúng ta không thể phủ nhận
được. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực đó thì TTCK phi tập trung vẫn
có một số khiếm khuyết và hạn chế nhất định vì đây là thị trường phi tập trung
nên rất khó để quản lý một cách chặt chẽ và có nhiều rủi ro trong giao dịch do tình
trạng bất cân xứng thông tin, tình trạng làm giá, tình trạng cổ đông lớn ép cổ đông
nhỏ, tính thanh khoản kém … Vì vậy, việc lựa chọn hình thức tổ chức TTCK phi
tập trung như thế nào là phù hợp để quản lý chặt chẽ và kích thích sự phát triển
chung của TTCK là một đòi hỏi mang tích thực tiễn khách quan cao.
KIL
O
1.1.1.3. Hình thức tổ chức thị trường OTC
Thị trường OTC được tổ chức theo hình thức không có địa điểm giao dịch mang
tính tập trung giữa bên mua và bán. Thị trường sẽ diễn ra tại các địa điểm thuận
tiện cho người mua và bán. Thị trường sẽ diễn ra tại các địa điểm giao dịch của
các ngân hàng, công ty chứng khoán và các điều kiện thuận tiện cho người mua và
bán.
1.1.1.4. Hàng hóa giao dịch trên thị trường OTC
Hàng hóa giao dịch trên thị trường phần lớn là các chứng khoán chưa đủ điều kiện
niêm yết trên sở giao dịch song đáp ứng được các điều kiện về tính thanh khoản
và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC, trong đó chủ yếu là chứng
khoán của các công ty vừa và nhỏ, các công ty mới được thành lập, công ty công
nghệ cao và có tiềm năng phát triển. Ngoài ra còn có các loại chứng khoán đã
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán. Như vậy, chứng khoán niêm yết và giao
dịch trên thị trường OTC rất đa dạng và có độ rủi ro cao hơn so với các chứng
khoán niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán.
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
3
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
1.1.1.5. Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC
Chủ yếu được thực hiện thông qua phương thức thương lượng và thỏa thuận song
phương giữa bên mua và bên bán, khác với cơ chế đấu giá tập trung trên sở giao
dịch chứng khoán. Hình thức khớp lệnh trên thị trường OTC rất ít phổ biến và
thường chỉ áp dụng đối với các lệnh nhỏ. Giá chứng khoán được hình thành qua
thương lượng và thỏa thuận riêng biệt nên sẽ phụ thuộc vào từng nhà kinh doanh,
đối tác trong giao dịch và như vậy sẽ có nhiều mức giá khác nhau đối với mỗi
chứng khoán tại một thời điểm. Tuy nhiên, với sự tham gia của các nhà tạo lập thị
trường và cơ chế báo giá tập trung qua mạng máy tính điện tử như ngày nay đã
dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các nhà kinh doanh chứng khoán. Và vì vậy,
khoảng cách chênh lệch giữa các mức giá sẽ thu hẹp do diễn ra sự “đấu giá” giữa
các nhà tạo lập thị trường với nhau, nhà đầu tư chỉ có việc lựa chọn giá tốt nhất
trong các báo giá của nhà tạo lập thị trường.
BOO
KS.
1.1.1.6. Hệ thống giao dịch của thị trường OTC
Là thị trường sử dụng hệ thống mạng máy tính điện tử diện rộng liên kết tất cả các
đối tượng tham gia thị trường. Vì vậy, thị trường OTC còn được gọi là thị trường
mạng hay thị trường báo giá điện tử. Hệ thống mạng của thị trường được các đối
tượng tham gia thị trường sử dụng để đặt lệnh giao dịch, đàm phán thương lượng
giá, truy cập và thông báo các thông tin liên quan đến giao dịch chứng khoán…
Chức năng của hệ thống mạng được sử dụng rộng rãi trong giao dịch mua bán và
quản lý trên thị trường OTC.
1.1.1.7. Quản lý thị trường OTC
Cấp quản lý thị trường OTC tương tự như quản lý hoạt động của thị trường chứng
khoán tập trung và được chia thành 2 cấp:
KIL
O
Cấp quản lý Nhà nước: Do cơ quan quản lý thị trường chứng khoán quản lý theo
pháp luật về chứng khoán và các luật có liên quan, cơ quan này thường là Ủy ban
chứng khoán.
Cấp tự quản: Do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quản lý như ở: Mỹ,
Hàn Quốc, Nhật Bản… hoặc do trực tiếp sở giao dịch đồng thời quản lý như ở:
Anh, Pháp, Canada,… Nhìn chung, nội dung và mức độ quản lý ở mỗi nước có
khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện và đặc thù của từng nước nhưng đều có chung
mục tiêu là đảm bảo sự ổn định và phát triển liên tục của thị trường.
1.1.1.8. Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC
Cơ chế thanh toán là linh hoạt và đa dạng do phần lớn các giao dịch mua bán trên
thị trường OTC được thực hiện trên cơ sở thương lượng và thỏa thuận nên phương
thức thanh toán trên thị trường OTC linh hoạt giữa người mua và bán, khác với
phương thức thanh toán bù trừ đa phương thống nhất như trên thị trường tập
trung. Thời hạn thanh toán không cố định như trên thị trường tập trung mà rất đa
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
4
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
dạng T+1, T+2, T+x trên cùng một thị trường, tùy theo từng thương vụ và sự phát
triển của thị trường.
COM
1.1.2. Tổng quan về nhà tạo lập thị trường và mối quan hệ giữa nhà tạo lập thị
trường với thị trường chứng khoán
KS.
1.1.2.1. Khái niệm nhà tạo lập thị trường
Nhà tạo lập thị trường là một khái niệm chưa xuất hiện ở Việt Nam, tất nhiên đây
là thành viên quá quen thuộc tại các thị trường chứng khoán phát triển trên thế
giới. Thời gian gần đây, các chuyên gia và cả một số bài báo bắt đầu đề cập đến
vấn đề thiết lập nhà tạo lập thị trường như là một giải pháp cho điều kiện thị
trường đang tăng trưởng nóng. Khoan nói về việc thiết lập thế nào và vận hành ra
sao tại sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội hay Hồ Chí Minh, thì đa phần nhà đầu
tư hiện nay vẫn còn có những khái niệm rất mơ hồ về "nhà tạo lập thị trường". Do
đó, việc nêu lên một khái niệm chính xác về nhà tạo lập thị trường là hết sức cần
thiết.
Có thể khái niệm chính xác về nhà tạo lập thị trường thì không nhiều người biết,
nhưng sẽ có nhiều người nhận thức được mối quan hệ giữa sự tồn tại của những
thành viên đặc biệt này với tính thanh khoản của thị trường.
BOO
Vì vậy, để hiểu rõ khái niệm về nhà tạo lập thị trường thì trước hết chúng ta thử
tìm hiểu khái niệm về tính thanh khoản. Thanh khoản là khái niệm phản ánh mức
độ mà một tài sản bất kỳ có thể được mua hoặc bán trên thị trường mà không làm
ảnh hưởng đến giá thị trường của tài sản đó. Một tài sản có tính thanh khoản cao
thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn. Nói cách khác, tính thanh
khoản là khả năng chuyển được một tài sản thành tiền mặt nhanh chóng. Một tổ
chức thực hiện hoạt động tạo lập thị trường đối với một (hay nhiều) loại chứng
khoán có nghĩa là tổ chức đó sẽ thực hiện các kĩ thuật để đảm bảo duy trì tính
thanh khoản cao đối với (những) loại chứng khoán đó.
KIL
O
Sau khi đã tìm hiểu khái niệm về tính thanh khoản, tiếp theo chúng ta sẽ tìm hiểu
đến khái niệm nhà tạo lập thị trường. Theo báo cáo của Tổ chức Quốc tế các Uỷ
ban Chứng khoán - IOSCO (1999), nhà tạo lập thị trường được định nghĩa là
“những thành viên tham gia trên các thị trường mua bán các công cụ tài chính
hoạt động theo phương thức khớp giá, thực hiện chức năng đặt các lệnh chào mua,
chào bán. Những nhà tạo lập thị trường tạo ra thị trường có tính thanh khoản cao
bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào mua, chào bán, qua đó đảm bảo
một thị trường hai chiều (mua bán liên tục) ”
Định nghĩa tại http:///www.investopedia.com như sau: Nhà tạo lập thị trường là
một công ty môi giới - giao dịch chấp nhận rủi ro nắm giữ một khối lượng nhất
định của một loại chứng khoán nhất định để nhằm hỗ trợ, thúc đNy giao dịch đối
với loại chứng khoán đó. Mỗi nhà tạo lập thị trường sẽ cạnh tranh trên thị trường
để nhận được lệnh đặt từ phía khách hàng (là các nhà đầu tư tham gia trên thị
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
5
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
trường) bằng cách báo các mức giá chào mua, chào bán đối với một khối lượng
chắc chắn có thể giao dịch của loại chứng khoán nhất định. Khi nhận được lệnh
đặt từ phía khách hàng, nhà tạo lập thị trường sẽ gần như ngay lập tức bán những
chứng khoán mà tổ chức đó nắm giữ trong kho hoặc tìm kiếm một lệnh đối ứng
phù hợp. Toàn bộ quá trình này diễn ra trong khoảng vài giây.
Công ty môi giới - giao dịch là công ty tiến hành hoạt động mua hoặc bán chứng
khoán với đồng thời cả vai trò nhà môi giới và đơn vị giao dịch tuỳ thuộc vào đặc
tính của giao dịch được tiến hành.
KS.
Một đơn vị giao dịch, hay một công ty giao dịch là công ty sẵn sàng tiến hành
mua, bán chứng khoán cho tài khoản riêng của công ty. Công ty này khác với các
tổ chức trung gian giao dịch ở chỗ nó đóng vai là một trong hai phía mua hoặc bán
khi thực hiện giao dịch. Có nghĩa là công ty giao dịch sẽ thực sự phải mua bán
chứng khoán và chịu những rủi ro, hưởng lợi nhuận đối với chứng khoán nằm
trong tài khoản (hay “trong kho”) của mình, còn những tổ chức trung gian (như
các nhà môi giới hay đại lý) chỉ đứng ra thay mặt khách hàng thực hiện giao dịch.
Như thế một nhà nhà tạo lập thị trường có thể đứng trên cả hai phía của thị trường
để chào mua và chào bán. Khoảng chênh lệch giữa mức giá chào mua và chào bán
được gọi là chênh lệch mua - bán.
KIL
O
BOO
Tóm lại, nhà tạo lập thị trường là các thành viên tham gia trên các thị trường mua
bán các công cụ tài chính hoạt động theo phương thức khớp giá, thực hiện chức
năng đặt các lệnh chào mua, chào bán. Những nhà tạo lập thị trường tạo ra thị
trường có tính thanh khoản cao bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào
mua, chào bán, qua đó đảm bảo một thị trường hai chiều, mua bán liên tục. Nhà
tạo lập thị trường khác với nhà môi giới và nhà đầu tư chỉ đơn thuần là kiếm lời từ
việc đóng vai trò trung gian và đối tác trong giao dịch. Nhà tạo lập thị trường
ngoài việc đóng vai trò là nhà môi giới, nhà đầu tư họ còn đóng vai trò là nhà cân
bằng giá, tạo ra ra sự cân bằng, trật tự trong giao dịch chứng khoán trong giai
đoạn ngắn hạn. Tuy nhiên, chức năng này sẽ không có tác dụng nếu TTCK có yếu
tố rủi ro hệ thống.
1.1.2.2. Phân loại nhà tạo lập thị trường
Trên thực tế thuật ngữ “nhà tạo lập thị trường” dùng để chỉ chung cho các tổ chức
thực hiện các chức năng như trong định nghĩa. Ở mỗi thị trường khác nhau và đối
với những loại chứng khoán khác nhau, tên gọi đối với các tổ chức thực hiện vai
trò này là khác nhau. Lấy định nghĩa trên làm cơ sở, ta có thể tiến hành phân loại
nhà tạo lập thị trường như sau:
Nhà tạo lập thị trường với hệ thống tạo lập thị trường trên sàn giao dịch điện tử,
đấu giá theo giá:
Trong thị trường này nhà đầu tư công chúng hầu như sẽ không thể giao dịch trực
tiếp với nhau. Để có thể tiến hành mua hay bán chứng khoán, nhà đầu tư phải liên
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
6
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
hệ trực tiếp với nhà tạo lập thị trường (các công ty giao dịch), những công ty giao
dịch sẽ sử dụng những chứng khoán trong kho của mình để tiến hành giao dịch
với khách hàng. Với một hệ thống đấu giá theo giá, thường có nhiều nhà tạo lập
thị trường cùng một lúc thực hiện tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán
nhất định, những nhà tạo lập thị trường này liên tục báo các chào mua và chào bán
với một khối lượng chứng khoán tại các mức giá xác định. Trong hệ thống này,
nhà tạo lập thị trường chính là bộ phận tạo lên gần như toàn bộ tính thanh khoản
của thị trường thông qua việc yết các mức giá và khối lượng sẵn sàng giao dịch ở
một phía mua hoặc bán. Để thực hiện giao dịch với khách hàng, các nhà tạo lập
thị trường phải cạnh tranh lẫn nhau yết các mức chào mua/chào bán cạnh tranh
nhất để có thể thu hút các lệnh đặt giao dịch từ phía khách hàng.
BOO
KS.
Nhà tạo lập thị trường có trách nhiệm liên tục yết các chào mua và chào bán với
khoảng chênh lệch thích hợp và tiến hành giao dịch với đồng thời những lệnh thị
trường và lệnh giới hạn của nhà tạo lập thị trường khác và nhà đầu tư. Giá đặt mua
(đặt bán) của một nhà tạo lập thị trường không được cao hơn (thấp hơn) giá đặt
bán (đặt mua) của tất cả các công ty giao dịch khác trên thị trường. Các nhà tạo
lập thị trường không phải trả bất kỳ loại phí giao dịch nào, hơn nữa họ có quyền
chỉ đặt chào mua hoặc chào bán trên một phía của thị trường để thu hút khách
hàng. Điều này cũng giúp cho nhà tạo lập thị trường có thể hạn chế được các rủi
ro khi rơi vào các tình trạng mất cân bằng chứng khoán trong kho một cách bị
động. Một lợi thế rất lớn cho nhà tạo lập thị trường là khi tham gia vào cơ chế thị
trường này là họ luôn có một nguồn ổn định các lệnh đặt đến từ phía khách hàng
để tiến hành cạnh tranh. Điểm tạo ra lợi thế này là ở các lệnh đặt ra trên thị trường
này chủ yếu là các lệnh thị trường, còn đối với các thị trường khớp lệnh, các lệnh
đặt ra chủ yếu là lệnh giới hạn – loại lệnh này thường không tạo được tính cạnh
tranh cao và do đó ít tạo được tính thanh khoản.
KIL
O
Ví dụ điển hình của mô hình thị trường loại này là thị trường chứng khoán tại
NASDAQ và LSE. Tại đây nhà tạo lập thị trường được gọi tên chính thức là
“market maker” tức là nhà tạo lập thị trường. Cơ bản, nhà tạo lập thị trường trên
NASDAQ thường thực hiện tạo lập thị trường cho nhiều loại chứng khoán và thực
hiện hoàn toàn chủ động, ít chịu tác động từ bên ngoài ngoại trừ các qui định, luật
lệ.
Nhà tạo lập thị trường với hệ thống tạo lập thị trường tập trung trên sàn giao dịch
cổ điển đấu giá theo lệnh (khớp lệnh)
Điển hình là thị trường NYSE. Đối với những thị trường như NYSE, chức năng
tạo lập thị trường do một người gọi là chuyên gia thị trường (specialist). Tất
nhiên, đứng sau một chuyên gia thị trường bao giờ cũng là cả một tổ chức, thực
hiện các hoạt động phân tích, đánh giá, nghiên cứu thị trường, hỗ trợ chuyên gia
trong việc ra quyết định. Chuyên gia chỉ thực hiện chức năng tạo lập thị trường
với một loại chứng khoán duy nhất và công việc chính là kết nối các lệnh đối ứng
chứ không phải là tham gia trực tiếp vào mua bán (có tham gia nhưng chỉ khi
cần).
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
7
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Nhà tạo lập thị trường với hệ thống tạo lập thị trường trên sàn giao dịch điện tử
khớp lệnh
COM
Với hệ thống này, có hai hình thức là hệ thống tạo lập thị trường tập trung và phi
tập trung. Hệ thống tạo lập thị trường tập trung có cơ chế hoạt động giống với hệ
thống tạo lập thị trường tập trung tại sàn giao dịch cổ điển, điểm khác biệt là hệ
thống này dùng sàn điện tử.
Hệ thống này được áp dụng ở Sàn giao dịch Amsterdam cho đến năm 2001, nhà
tạo lập thị trường gọi tên là “Hoekman” với vai trò là người trung gian đáp ứng lại
các lệnh điện tử được chuyển đến. Hiện nay, sàn AMS đã không còn hoạt động,
hoạt động của thị trường chứng khoán Hà Lan, Pháp, Bỉ và Bồ Đào Nha đã được
hợp nhất thành thị trường Euronext
BOO
KS.
Hệ thống tạo lập thị trường phi tập trung là hệ thống mới nhất, hiện đang được áp
dụng khá rộng rãi và linh hoạt, tên gọi với nhà tạo lập thị trường trong mô hình
này ở mỗi nước có áp dụng là khác nhau với các cấp độ ưu tiên về thông tin khác
nhau. Thường mỗi nhà tạo lập thị trường sẽ đảm trách một số công ty niêm yết
nhất định. Cách thức tổ chức thị trường này một mặt đảm bảo được tính công
bằng trên thị trường, nhưng mặt khác những tác động của nhà tạo lập thị trường
hầu như chỉ có hiệu quả với những chứng khoán có khối lượng giao dịch nhỏ.
Hơn nữa, nếu nhà tạo lập thị trường không có động lực, những lệnh mà họ đặt ra
có thể hạn chế tính cạnh tranh của thị trường.
Mô hình tương tự được sử dụng tại Euronext với tên gọi của nhà tạo lập thị trường
ở đây là “tổ chức cung cấp thanh khoản”, ở Ý với tên gọi là “Chuyên gia”, Ở
Athens với tên là “Nhà tạo lập thị trường”.
KIL
O
Theo đối tượng ta có thể phân loại nhà tạo lập thị trường cho cổ phiếu và tạo lập
thị trường cho trái phiếu. Tuy nhiên một nhà tạo lập thị trường có thể tiến hành
tạo lập thị trường đồng thời cho cả trái phiếu và cổ phiếu.
Với thị trường trái phiếu, tuy xét trên phương diện rủi ro là ít hơn so với cổ phiếu.
Tuy nhiên, nhà tạo lập thị trường tham gia trên thị trường này thường có những
yêu cầu đặc thù liên quan trực tiếp đến đặc tính của trái phiếu. Tổ chức tham gia
tạo lập thị trường trên thị trường trái phiếu có hai cấp độ: cấp độ thứ nhất là các
công ty giao dịch giống như bình thường; cấp độ thứ hai, có một tên riêng là môi
giới giao dịch nội bộ (Inter-dealer broker). Bản thân tên gọi đã phản ánh hoạt
động của tổ chức loại này. Các hoạt động cơ bản của một nhà tạo lập thị trường
trái phiếu không có nhiều khác biệt, tuy nhiên do các giao dịch trái phiếu thường
có khối lượng và giá trị lớn nên thời gian tiến hành thường lâu hơn, bên cạnh đó
một nhà tạo lập thị trường thông thường dù có vốn lớn đến đâu cũng rất khó có
thể đảm bảo tiến hành được tất cả các giao dịch bằng lượng chứng khoán “trong
kho” của mình, và cũng không thể đảm bảo luôn tìm kiếm được các lệnh đặt đối
ứng cần thiết của khách hàng. Thực tế này cho thấy cần có một dạng tạo lập thị
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
8
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
trường thứ hai, đó là các nhà môi giới - giao dịch nội bộ. Đây là một hình thức tổ
chức tồn tại trong các thị trường trái phiếu và các thị trường OTC sản phNm phái
sinh, những tổ chức này đóng vai trò như những trung gian giữa các công ty môi
giới chính trên thị trường với mục đích hỗ trợ, thúc đNy các giao dịch nội bộ giữa
các tổ chức này. Đối tượng giao dịch của họ là các công ty môi giới khác, các nhà
môi giới khác, các tổ chức nhận quản lý danh mục đầu tư, tín thác, …
1.1.2.3. Hoạt động của nhà tạo lập thị trường, vai trò của các chuyên gia và nhà
tạo lập thị trường đối với thị trường chứng khoán
KS.
1.1.2.3.1. Hoạt động của nhà tạo lập thị trường
Thị trường trong đó tồn tại các nhà tạo lập thị trường có tên tiếng Anh là “Dealer
Market”. Đối với thị trường này, các giao dịch tiến hành trên thị trường chủ yếu là
giao dịch giữa nhà tạo lập thị trường với nhau, với các tổ chức trung gian và với
nhà đầu tư bình thường (ta sẽ gọi tên chung cho nhà đầu tư loại này là nhà đầu tư
công chúng, bao gồm cả các cá nhân và các tổ chức tham gia vào nhưng không
đóng vai trò nhà tạo lập thị trường hay một tổ chức trung gian). Nhà đầu tư hầu
như sẽ không trực tiếp giao dịch với nhau.
BOO
Nhà tạo lập thị trường thường thực hiện hai công việc để đáp ứng các lệnh từ phía
nhà đầu tư. Do yêu cầu phải liên tục chào mua và chào bán, với những thị trường
mà có nhiều nhà tạo lập thị trường cùng tham gia, việc cạnh tranh để thu hút
khách hàng đặt lệnh, như trong định nghĩa, khi đã nhận được lệnh từ phía nhà đầu
tư, các nhà tạo lập thị trường sẽ thực hiện một trong hai việc:
KIL
O
Thứ nhất, nhà tạo lập thị trường có thể đóng vai trò đối tác trong giao dịch, có
nghĩa là nếu lệnh đặt đến là lệnh mua, nhà tạo lập thị trường sẽ bán các chứng
khoán tương ứng có “trong kho” của mình. Còn nếu lệnh đặt đến là lệnh bán, nhà
tạo lập thị trường sẽ tiến hành mua khối lượng chứng khoán mà nhà đầu tư muốn
bán. Lệnh mua hay bán mà nhà tạo lập thị trường nhận được chính là lệnh đáp lại
các chào mua, chào bán mà nhà tạo lập thị trường đã yết ra trên thị trường. Ở
Dealer Market, trong các chào mua, chào bán của nhà tạo lập thị trường, giá yết ra
do yêu cầu cạnh tranh nên sẽ thường phải bám sát với tình hình thị trường, khối
lượng yết, ngoài ra do nhà tạo lập thị trường quyết định tuỳ theo các phân tích của
mình còn phải chịu thêm tác động của luật định về khối lượng nhỏ nhất phải đảm
bảo giao dịch đối với mỗi lệnh yết ra. Thông thường để có thể chuyển sang yết
mức giá khác, hay tham gia với một loại chứng khoán khác, nhà tạo lập thị trường
phải thực hiện một giao dịch với số lượng tối thiểu theo qui định, điều này đảm
bảo tính thanh khoản mà mỗi giao dịch tạo ra.
Thứ hai, trong trường hợp lệnh đặt mua đến nhưng nhà tạo lập thị trường không
có đủ số chứng khoán đặt mua trong tài khoản của mình, hoặc lệnh đặt bán đến
nhưng nhà tạo lập thị trường không đủ khả năng để mua toàn bộ số chứng khoán
đặt bán của khách hàng thì để đảm bảo giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ phải
tìm một lệnh đối ứng khác thoả mãn toàn bộ hoặc một phần khối lượng của khách
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
9
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
hàng đặt ra. Để tìm lệnh đối ứng này, nhà tạo lập thị trường này sẽ phải tìm đến
một nhà tạo lập thị trường khác. Nhà tạo lập thị trường kia có thể trực tiếp mua
hoặc bán hoặc cũng có thể chuyển tiếp một lệnh mua hoặc bán của một nhà đầu tư
khác mà họ nhận được sang để đối ứng. Cơ chế này được thực hiện rất nhanh
thông qua hệ thống công nghệ cơ sở của toàn thị trường.
Giải quyết vấn đề yết giá như thế nào, khối lượng bao nhiêu, khi nào thì tự mua,
tự bán, khi nào tìm lệnh đối ứng, khả năng kiếm được lệnh đối ứng nhanh nhất và
rẻ nhất là bao nhiêu (vì khi đã phải thông qua một nhà tạo lập thị trường khác thì
nhà tạo lập thị trường hiện tại cũng sẽ phải mất phí) là một bài toán hàng đầu cần
giải quyết đối với một nhà tạo lập thị trường.
KS.
1.1.2.3.2. Vai trò của các chuyên gia và nhà tạo lập thị trường đối với thị
trường chứng khoán
Khi đề cập đến các hình thức tổ chức thị trường không thể không nhắc đến vai trò
của các chuyên gia và các nhà tạo tập thị trường trong việc tạo lập sự công bằng,
hiệu quả và trật tự trên mỗi thị trường này.
BOO
Trải qua hàng trăm năm lịch sử hình thành, thị trường chứng khoán (TTCK) đến
nay vẫn không ngừng phát triển và ngày càng khẳng định là một kênh huy động
vốn hữu hiệu của nền kinh tế. Cùng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và
yêu cầu về sự đa dạng trong các hoạt động đầu tư, đến nay nhiều loại thị trường đã
ra đời với các hình thức tổ chức thị trường từ đơn giản (thị trường chứng khoán
phi tập trung) đến hiện đại và hết sức chặt chẽ (thị trường chứng khoán tập trung).
Khi đề cập đến các hình thức tổ chức thị trường nói trên không thể không nhắc
đến vai trò của các chuyên gia và các nhà tạo tập thị trường trong việc tạo lập sự
công bằng, hiệu quả và trật tự trên mỗi thị trường này. Chúng ta lần lượt tìm hiểu
chi tiết vai trò của họ đối với TTCK xét ở hai thị trường, đó là TTCK tập trung và
phi tập trung như sau:
Một là, vai trò của chuyên gia chứng khoán trên TTCK giao dịch tập trung
KIL
O
Mục tiêu của các Sở giao dịch là tạo lập một môi trường giao dịch chứng khoán
an toàn và hiệu quả, trong đó các nhà đầu tư phải được đối xử công bằng, được
cung cấp thông tin tương xứng nhằm hỗ trợ kịp thời cho các quyết định đầu tư.
Trên TTCK giao dịch tập trung, chuyên gia CK là những người hoạt động chuyên
môn nhằm duy trì sự công bằng, cạnh tranh và hiệu quả về một loại CK đã niêm
yết. Ngoài ra, các chuyên gia còn là sự kết nối giữa các nhà môi giới với các lệnh
đặt mua và bán trên TTCK, hỗ trợ cho các giao dịch được thực hiện an toàn và
hiệu quả.
Một giao dịch được thực hiện khi giá cả đã hợp lý, để đạt được mức giá hợp lý thì
các lệnh đều phải chuyển qua các chuyên gia phụ trách. Vai trò của các chuyên
gia được thể hiện qua các hoạt động sau:
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
10
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
KS.
COM
Vai trò là đại lý của các nhà môi giới: Công việc của chuyên gia là thực hiện
lệnh cho các nhà môi giới đối với loại CK mà họ phụ trách. Nếu một khách
hàng tiến hành đặt lệnh thông qua nhà môi giới, trong trường hợp lệnh giới
hạn không thể thực hiện được, nhà môi giới sẽ chuyển lệnh này sang các
chuyên gia, các chuyên gia sẽ trở thành người đại diện cho nhà môi giới đối
với lệnh đó tại sàn giao dịch.
Vai trò là nhà đấu giá: Trong toàn bộ phiên giao dịch, các chuyên gia sẽ đưa
ra một mức giá chào mua - chào bán tốt nhất, trên cơ sở đó đến đầu mỗi phiên
giao dịch họ thiết lập một mức giá giao dịch hợp lý đối với từng loại CK trên
cơ sở cung - cầu về loại CK đó. Hoạt động này nhằm bảo đảm trật tự thị
trường đối với từng loại CK mà họ phụ trách, đồng thời hạn chế sự dao động
về giá cả của CK đó.
Vai trò là nhà kinh doanh: Các chuyên gia thực hiện giao dịch tại một mức giá
nằm trong khoảng giá chào mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất. Họ là
người chịu trách nhiệm giảm thiểu sự chênh lệch giữa lệnh mua và lệnh bán.
Việc mua và bán này được thực hiện theo hướng của thị trường cho đến khi sự
chênh lệch được cân bằng trở lại.
Trong trường hợp xảy ra biến cố về lệnh, về giá cả... tại thị trường giao dịch tập
trung, vai trò của các chuyên gia trở nên rất quan trọng trong việc chủ động điều
chỉnh các biến cố về trạng thái cân bằng và ổn định.
BOO
Hai là, vai trò của các nhà tạo lập thị trường trên TTCK phi tập trung
Như đã trình bày ở phần trên thì nhà tạo lập thị trường là người thực hiện chức
năng duy trì thị trường cho một loại chứng khoán. Chẳng hạn, đối với chứng
khoán A là chứng khoán không niêm yết và được mua bán trên thị trường phi tập
trung. Nhà tạo lập thị trường là người đặt ra mức giá bán chứng khoán A cho bên
mua với sự thách giá trên cơ sở tương ứng với mức giá mà bên bán (khách hàng
của họ) yêu cầu.
KIL
O
Sau khi nhà đầu tư đặt lệnh mua bán chứng khoán A trên thị trường OTC, nhà môi
giới sẽ chuyển lệnh này tới nhà kinh doanh (thuộc bộ phận kinh doanh của công ty
môi giới). Nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm người có thể bán số chứng khoán A (nhà
môi giới bên bán). Lúc này, nhà môi giới bên bán đóng vai trò là người tạo lập thị
trường cho chứng khoán A.
Thực tế là có nhiều nhà môi giới sẵn sàng bán chứng khoán A và như vậy sẽ có rất
nhiều nhà tạo lập thị trường đối với chứng khoán A tương đương với các mức
"thách giá" khác nhau. Nhà kinh doanh bắt đầu tiến hành thương lượng về giá cả
của chứng khoán A với các nhà tạo lập thị trường để có thể đạt được mức giá tối
ưu. Giao dịch sẽ được thực hiện khi nhà kinh doanh tìm được nhà tạo lập thị
trường bán số chứng khoán A với mức giá thấp nhất.
Thông thường các nhà tạo lập thị trường là những nhà môi giới đã được đăng ký.
Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà môi giới đã đăng ký đều là những nhà tạo
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
11
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
lập thị trường. Để có thể trở thành một nhà tạo lập thị trường thì người môi giới
phải thực sự quan tâm đến việc tạo dựng thị trường cho một loại chứng khoán.
KS.
COM
Vai trò của các nhà tạo lập thị trường được thể hiện thông qua các hoạt động sau:
Tăng khả năng thực hiện giao dịch một loại chứng khoán có thể sinh lời do
sự cạnh tranh về giá cả đặt ra giữa các nhà tạo lập thị trường khác nhau đối
với cùng loại chứng khoán đó.
Thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tới một loại chứng khoán không
niêm yết trên thị trường.
Tăng tính linh hoạt của thị trường đối với một loại chứng khoán khi tăng số
lượng các nhà tạo lập thị trường.
Bên cạnh đó, các nhà tạo lập thị trường có xu hướng cạnh tranh với nhau
do luôn có nhiều nhà tạo lập thị trường đối với một chứng khoán, do đó thị
trường OTC được đánh giá là có khả năng tự điều chỉnh tốt hơn thị trường
giao dịch chứng khoán tập trung.
Như vậy, các chuyên gia cũng có thể trở thành "nhà tạo lập thị trường" đối với
một loại chứng khoán cụ thể trong điều kiện phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Sự
kiểm soát này sẽ hạn chế được các sai phạm nếu họ lạm dụng quyền hành độc
quyền của mình tại Sở giao dịch.
BOO
Cả chuyên gia chứng khoán và nhà tạo lập thị trường đều được tiếp cận với các
thông tin đặc biệt do họ thường xuyên tiếp cận trực tiếp với các thông tin trên sổ
lệnh, vì vậy họ có nhiều khả năng bị "rò rỉ" thông tin khi có sự biến động thị
trường. Nếu không bị cấm, các chuyên gia và các nhà tạo lập thị trường có thể sử
dụng các thông tin này (bao gồm các thông tin nội bộ) để thực hiện kinh doanh
cho chính họ nhằm thu lợi nhuận. Đó cũng chính là lý do tại sao những đối tượng
này bị kiểm soát chặt chẽ. Một yêu cầu khác nữa là họ phải công bằng với tất cả
các nhà đầu tư, không được phép thiên vị bất cứ bên nào.
KIL
O
Ngày nay, trên thế giới có nhiều loại thị trường mới ra đời như thị trường cổ
phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường tương lai, thị trường quyền chọn... cùng với
sự hỗ trợ của các phương thức giao dịch đa dạng đã không ngừng thúc đNy sự phát
triển của hệ thống TTCK, góp phần vào sự công bằng, hiệu quả và trật tự đối với
các giao dịch tại các thị trường này... Vì vậy vai trò của các nhà tạo lập thị trường
luôn luôn được khẳng định.
1.2. Mối quan hệ giữa một tổ chức và nhà tạo lập thị trường
1.2.1. Lợi ích đối với tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường
Lợi ích đối với tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường có thể được chỉ ra trên
hai khía cạnh chính, đó là lợi ích thu được trực tiếp từ việc tiến hành các giao dịch
trên thị trường và lợi ích do là một nhà tạo lập thị trường thu được từ những hỗ trợ
của nhà nước (được qui định trong các điều luật về hoạt động của nhà nhà tạo lập
thị trường), chẳng hạn như những ưu đãi trong cho vay vốn, ưu đãi về khả năng
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
12
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
tiếp cận thông tin, các quyền của nhà tạo lập thị trường liên quan đến điều chỉnh
thị trường, ở trên một khía cạnh nào đó mang tính chất “thao túng thị trường”.
COM
1.2.1.1. Lợi ích trực tiếp từ các giao dịch trên thị trường
Lợi ích này phản ánh rõ ràng ở doanh thu mà nhà tạo lập thị trường nhận được.
Như đã trình bày ở phần trước nhà tạo lập thị trường sẽ tiến hành giao dịch với
khách hàng, đóng vai trò đối ứng hoặc tìm một lệnh đối ứng. Khi trực tiếp giao
dịch, khoản lợi mà một nhà tạo lập thị trường nhận được chính là khoảng chênh
lệch giữa mức giá chào mua và chào bán. Độ lớn của khoảng chênh lệch thường
chịu ảnh hưởng bởi ba yếu tố: chi phí của lựa chọn đối nghịch, chi phí lưu kho
(lưu giữ chứng khoán) và chi phí thực hiện giao dịch.
KS.
Khi tìm lệnh đối ứng cho giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ đóng vai trò môi giới
và nhận hoa hồng từ giao dịch. Số lượng giao dịch mà nhà tạo lập thị trường thực
hiện càng lớn, khả năng tạo chênh lệch càng cao thì lợi nhuận của nhà tạo lập thị
trường sẽ càng lớn. Tất nhiên, thực hiện được điều này hoàn toàn không dễ dàng
do những áp lực cạnh tranh cũng như áp lực lựa chọn từ phía khách hàng.
KIL
O
BOO
1.2.1.2. Lợi ích thu từ sự hỗ trợ của Nhà nước
Lợi ích từ những ưu đãi và hỗ trợ của nhà nước thường xuất phát từ những ưu tiên
đối với một tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường. Năng lực về vốn của các tổ
chức khi tham gia thị trường luôn là một hạn chế, đặc biệt đối với thị trường trái
phiếu. Các nhà tạo lập thị trường luôn có nhu cầu huy động vốn để đáp ứng cho
các giao dịch, nhu cầu vốn thường tuỳ thuộc vào khối lượng giao dịch trung bình
thị trường, thời gian thì lại thường là ngắn hạn do bản chất giao dịch thường
xuyên nhưng lại cần có những đảm bảo chắc chắn về khả năng có thể vay vốn.
Đây là những tiêu chí rất khó đối với một tổ chức thông thường. Tuy nhiên với
một nhà tạo lập thị trường, nhà nước thường có các ưu đãi về nguồn huy động, về
lãi suất – đây rõ ràng là một lợi thế rất lớn đối với các nhà tạo lập thị trường. Bên
cạnh đó, chứng khoán nói riêng và các tài sản tài chính nói chung đều có đặc tính
rủi ro cao, thông tin do đó là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho yêu cầu giảm thiểu rủi
ro.
Với một số hình thức tổ chức như hình thức chuyên gia trên sàn NYSE, chuyên
gia được quyền tiếp cận với những thông tin về toàn bộ tình hình cung cầu trên thị
trường, về các chủ sở hữu đang nắm giữ chứng khoán. Do đó, khả năng dự báo
tình hình thị trường của các chuyên gia này rất cao. Đối với các nhà tạo lập thị
trường tại NASDAQ, họ cũng có quyền truy cập vào những hệ thống tin riêng hạn
chế trong phạm vi nhất định. Những nguồn thông tin này cho phép nhà tạo lập thị
trường có thể dự báo tốt nhất tình hình thị trường, từ đó có những phương án điều
chỉnh giá, khối lượng chào mua, chào bán, điều chỉnh lượng chứng khoán “trong
kho”, ước lượng vốn cần thiết, … Đây rõ ràng là những lợi thế rất lớn khi tham
gia vào giao dịch trên thị trường.
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
13
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
Tuy có thể phân tích nhiều lợi ích khác nhau đối với một tổ chức đóng vai trò một
nhà tạo lập thị trường, rõ ràng lợi ích chung nhất và lớn nhất bao hàm các lợi ích
khác là quyền - khả năng truy cập vào những nguồn thông tin mà không phải bất
kỳ thành viên nào tham gia trên thị trường cũng có thể tiếp cận được. Có được
thông tin, mỗi nhà tạo lập thị trường sẽ biết cách sử dụng tốt nhất để tối đa hoá lợi
ích của mình.
KS.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập thị trường của công ty chứng
khoán
Do đặc tính ngành kinh doanh chứng khoán, hoạt động của công ty chứng khoán
luôn chịu ảnh hưởng từ các điều kiện kinh tế tài chính bên ngoài Đồng thời do
phải phản ứng với những biến đổi môi trường nên bản thân mỗi công ty cũng luôn
cần điều chỉnh. Như thế, công ty luôn đối mặt với những vấn đề khách quan cũng
như chủ quan khi thực hiện các hoạt động của mình.
BOO
1.2.2.1. Những yếu tố nội tại – chủ quan
Đối với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, có một số vấn đề chủ quan mà một
công ty khi muốn thực hiện nghiệp cụ sẽ phải đối mặt, đó là những vấn đề về khả
năng tài chính, khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng phân tích nhu cầu
thị trường, kĩ thuật hoạt động và vấn đề về các công cụ phòng vệ.
Khả năng tài chính luôn là yếu tố hàng đầu khi một công ty chứng khoán muốn
trở thành một nhà tạo lập thị trường cho trái phiếu. Hỗ trợ từ phía nhà nước chỉ
đảm bảo được một phần hoạt động về sau, công ty khi muốn bắt đầu thực hiện
hoạt động này sẽ luôn phải chứng minh về khả năng tài chính của mình. Do đặc
tính trái phiếu, giá trị của mỗi lần giao dịch thường rất lớn, khả năng tài chính
mạnh sẽ tạo cho công ty một cơ sở chắc chắn để tham gia.
KIL
O
Xét về khía cạnh luật pháp, mỗi thị trường có tồn tại hình thức nhà tạo lập thị
trường đều có những qui định rất rõ ràng về yêu cầu tài chính đối với mỗi công ty
khi muốn đăng ký làm nhà tạo lập thị trường. Việc đáp ứng các điều kiện ban đầu
mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là công ty khi đã được chấp nhận là một nhà
tạo lập thị trường thì phải luôn đảm bảo những tiêu chí nhất định được qui định
trong luật pháp. Điều này rất quan trọng. Rủi ro được nói đến ở đây là rủi ro vỡ nợ
(default risk). Rủi ro vỡ nợ có thể hiểu trên hai phương diện. Nếu như tổ chức
phát hành trái phiếu vỡ nợ, nhà tạo lập thị trường đối với trái phiếu đó không chỉ
chịu tác động trực tiếp đến số trái phiếu còn nằm “trong kho” của mình mà còn
phải chịu trách nhiệm với những trái phiếu đã bán cho khách hàng và những trái
phiếu đã mua vào trong danh mục đầu tư mà khách hàng nhờ quản lý. Rõ ràng
trong những tình huống như thế, khả năng tài chính tốt hoặc có một chỗ dựa tài
chính vững chắc là rất cần thiết.
Khía cạnh thứ hai liên quan trực tiếp đến hoạt động của nhà tạo lập thị trường.
Bản thân nhà tạo lập thị trường khi muốn tiến hành họat động tạo lập thị trường
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
14
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
trái phiếu sẽ luôn phải đi vay vốn để tiến hành giao dịch. Tuy việc vay vốn này
nhận được sự ưu tiên với những hoạt động mang tính tạo lập thị trường, nhưng
nếu như công ty không giải quyết tốt bài toán “lưu kho”, không ước lượng và dự
báo tốt nhu cầu thị trường thì khả năng nó không thể thực hiện các giao dịch cần
thiết để cân bằng cán cân tài chính là rất cao và rủi ro vỡ nợ là không tránh khỏi.
Tất nhiên, các cơ quan quản lý thị trường luôn yêu cầu nhà tạo lập thị trường phải
có một khoản đặt cọc nhất định nhưng rõ ràng khoản đặt cọc này sẽ khó có thể
cứu vãn nếu như công ty rơi vào tình trạng vỡ nợ. Đây là vấn đề mà một công ty
khi muốn tiến hành tạo lập thị trường trái phiếu cần phân tích và lập kế hoạch chi
tiết.
KIL
O
BOO
KS.
Từ vấn đề trên, có thể thấy khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng phân
tích nhu cầu thị trường là cơ sở đảm bảo cho một nhà tạo lập thị trường thành
công. Nắm bắt và phân tích tốt tình hình thị trường, mô hình hóa bài toán “lưu
kho”, ước lượng nhu cầu tài chính cần thiết theo đặc tính thị trường là hai bài toán
mà công ty chứng khoán buộc phải giải quyết trước khi muốn thực hiện hoạt động
tạo lập thị trường. Hai bài toán này trên thực tế có thể coi là một. Với bài toán
“lưu kho”, vấn đề cần giải quyết không chỉ dừng lại ở việc tính toán với một loại
trái phiếu bất kỳ trong kho khi muốn tiến hành giao dịch loại trái phiếu đó, “kho”
của một nhà nhà tạo lập thị trường bao gồm rất nhiều loại trái phiếu nói riêng và
nhiều loại công cụ tài chính nói chung. Tối ưu với loại trái phiếu đó không chắc sẽ
đảm bảo tối ưu cho toàn kho – lúc này có thể coi “kho” là một danh mục đầu tư,
các công cụ tài chính đều có những tương quan về rủi ro và lợi nhuận, tiến hành
thành công giao dịch đối với loại trái phiếu này nhưng gây ảnh hưởng đến toàn bộ
cấu trúc của “kho” rõ ràng chưa chắc đã là một quyết định đúng. Với những nhà
tạo lập thị trường có tổ chức lớn, thường có nhiều đơn vị nhỏ chịu trách nhiệm tạo
lập thị trường với các loại trái phiếu khác nhau. Trong trường hợp đó, khả năng
đảm bảo được tính tối ưu của danh mục sẽ khó hơn. Điều này sẽ dễ dàng hơn với
những công ty và thị trường có qui mô nhỏ. Khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này
đã được thực hiện, chẳng hạn như Ho, T.và Stoll, H (Journal of Finance - 1983) ;
Froot K.và Stein, J. (Journal of Financial Economics - 1998) và nghiên cứu của
Narayan Y. Naik và Pradeep K. Yadav đối với sàn giao dịch chứng khoán London
(2002). Kết quả của mỗi nghiên cứu là khác nhau, tuy nhiên điểm cơ bản làm cho
các kết quả này khác nhau là đối tượng nghiên cứu: mỗi loại hình nhà tạo lập thị
trường sẽ có những phương án khác nhau để giải quyết bài toán. Vấn đề vẫn là lựa
chọn mô hình nhà tạo lập thị trường thích hợp.
Khi muốn đăng ký làm chức năng tạo lập thị trường, ngoài việc chứng minh khả
năng tài chính, công ty chứng khoán còn phải chứng minh về nhân sự thực hiện và
khả năng tiến hành. Đây là vấn đề liên quan đến kĩ thuật hoạt động. Hoạt động để
tiến hành chức năng tạo lập thị trường bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như đã
phân tích ở trên. Công ty chứng khoán khi thực hiện chức năng tạo lập thị trường
sẽ phải phối hợp các hoạt động hiện có tại công ty. Để có thể tham gia vào giao
dịch với vai trò đối tác với nhà đầu tư, công ty cần phát huy các bộ phận phân
tích, đưa vào hoạt động tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Để có thể mở rộng
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
15
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
phạm vi khách hàng, công ty cần phối hợp tốt các bộ phận môi giới và tư vấn.
KS.
COM
Kĩ thuật hoạt động tốt không chỉ thể hiện ở việc thực hiện tốt các hoạt động hiện
có tại công ty mà còn thể hiện ở các công cụ phòng vệ. Đặc tính của công việc tạo
lập thị trường là vừa phải phân tích ước lượng, dự báo tình hình thị trường, đưa ra
các điều chỉnh về phương pháp và chiến lược, đồng thời phải tiến hành áp dụng
các công cụ phòng vệ. Các công cụ phòng vệ có chức năng giúp nhà tạo lập thị
trường phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra. Các công cụ phòng vệ bao gồm cả các
dạng hợp đồng phái sinh, các sản phNm tài chính, kĩ thuật ứng dụng trong kinh
doanh chứng khoán nói chung và trái phiếu nói riêng. Việc áp dụng các công cụ
này có hai chức năng là (i) đáp ứng tốt hơn với nhu cầu khách hàng thông qua các
kĩ thuật xử lý với kỳ hạn và lãi suất của các loại trái phiếu, các kĩ thuật này giúp
tăng tính thanh khoản đối với trái phiếu; và (ii) phòng ngừa rủi ro, ứng dụng điển
hình là các hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn đối với trái phiếu.
1.2.2.2. Những yếu tố bên ngoài – khách quan
Bên cạnh điều chỉnh các yếu tố nội tại, nhà tạo lập thị trường cũng đối mặt với rất
nhiều tác động khách quan. Những tác động này có thể được phân thành hai loại
cụ thể là các yếu tố vĩ mô và các yếu tố vi mô.
BOO
Thứ nhất, là những yếu tố vĩ mô:
Các yếu tố vĩ mô có thể gây tác động với một nhà tạo lập thị trường bao gồm
những vấn đề liên quan đến tình hình thế giới, các thị trường chứng khoán trong
khu vực; tình hình kinh tế trong nước; mô hình thị trường; quy định pháp luật: hạn
chế đối tượng tham gia, yêu cầu về vốn, nhân sự,...; các ưu đãi và rủi ro: đặc biệt
là rủi ro lãi suất và rủi ro thông tin không cân xứng.
KIL
O
Thị trường chứng khoán là một bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường tài
chính, là kênh huy động vốn lớn của nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng
khoán, vốn được tích tụ, tập trung và phân phối hiệu quả. Rõ ràng, thị trường
chứng khoán có những tác động rất lớn đến toàn nền kinh tế. Điều này có nghĩa là
nó cũng sẽ chịu những ảnh hưởng từ thị trường chứng khoán thế giới và khu vực.
Tác động này sẽ còn rất mạnh nếu như có những chứng khoán được niêm yết tại
nhiều quốc gia. Trong chuỗi các mắt xích này có cả những tổ chức hoạt động trên
thị trường chứng khoán. Một nhà tạo lập thị trường, xét trên một khía cạnh nào đó
là một tổ chức chịu trách nhiệm với tình hình thị trường, những phản ứng và điều
chỉnh của nhà tạo lập thị trường đối với các tác động này không chỉ có ý nghĩa với
bản thân nó mà còn có ý nghĩa với toàn thị trường. Biến động về tỉ giá có thể tăng
lợi nhuận hoặc cũng có thể đe doạ đến những trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ
mà nhà tạo lập thị trường đang nắm giữ, biến động về một loại hàng hoá bất kỳ
trên thị trường thế giới, chẳng hạn như giá dầu, chắc chắn sẽ có tác động tới giá
trái phiếu mà các tập đoàn dầu khí lớn phát hành…
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
16
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
COM
Tồn tại như một cột trụ trong nền kinh tế, thị trường chứng khoán ở những nước
phát triển luôn chiếm tỉ trọng rất lớn trong đóng góp vào GDP, hơn thế nữa còn là
động lực thúc đNy nền kinh tế. Tác động này không phải là tác động một chiều mà
là tương tác hai chiều. Nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến thị
trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Đặc tính của trái
phiếu là những công cụ tài chính trung và dài hạn, chịu tác động của biến động lãi
suất trên thị trường. Những thông tin trên thị trường có thể làm thay đổi lãi suất
thị trường hoặc ảnh hưởng đến tính ổn định trong nền kinh tế sẽ đồng thời gây ảnh
hưởng rất lớn đến các loại trái phiếu, phản ánh vào rủi ro vỡ nợ và rủi ro cấu trúc
thời gian (kỳ hạn). Phản ứng trước những tác động này một cách nhanh nhạy và
có chuNn bị sẽ đảm bảo cho nhà tạo lập thị trường hoạt động hiệu quả.
BOO
KS.
Như trong phần trên đã trình bày, với mỗi hình thức tổ chức thị trường khác nhau
sẽ có những hình thức hoạt động tương ứng của nhà tạo lập thị trường, theo đó là
các quyền lợi và nghĩa vụ nhất định. Đây là những điều được thể hiện trong luật
pháp và nhà tạo lập thị trường phải tuân theo. Đối với những thị trường chưa từng
có sự tồn tại chính thức của nhà tạo lập thị trường, việc hợp thức hóa vai trò nhà
tạo lập thị trường hoàn toàn không đơn giản. Công việc ấy bao gồm cả lựa chọn
một mô hình, cơ chế hoạt động phù hợp, xây dựng khung pháp lý qui định các
tiêu chí hoạt động, các yêu cầu và thước đo đối với hoạt động của nhà tạo lập thị
trường. Việc lựa chọn một mô hình tạo lập thị trường phù hợp không chỉ là tìm và
chọn hay xây dựng mới mà bao gồm cả việc điều chỉnh bản thân thị trường hiện
tại thành mô hình thích ứng với sự tồn tại của nhà tạo lập thị trường, do đó mỗi
công ty chứng khoán khi có chiến lược trở thành một nhà tạo lập thị trường cần
đánh giá và dự kiến những khả năng có thể xảy ra với cấu trúc thị trường, một mặt
để điều chỉnh các hoạt động hiện đang tiến hành cho phù hợp, mặt khác để có
chiến lược phù hợp mục tiêu.
KIL
O
Luật định trên thị trường chứng khoán luôn là cơ sở cho mọi hoạt động diễn ra
trên thị trường. Đặc biệt với hoạt động tạo lập thị trường là hoạt động có đặc tính
điều phối có thể dẫn đến thao túng thị trường do đó các điều luật qui định thường
rất chặt chẽ, một mặt đảm bảo hiệu quả hoạt động, một mặt đảm bảo tránh được
các hoạt động tiêu cực. Do đó, các điều luật một mặt hỗ trợ cho hoạt động của các
nhà tạo lập thị trường, nhưng mặt khác cũng sẽ gây ra những cản trở nhất định đối
với hoạt động tạo lập thị trường.
Yếu tố ảnh hưởng rõ nhất và trực tiếp đến hoạt động của nhà tạo lập thị trường là
các rủi ro, đặc biệt là rủi ro về thông tin không cân xứng, rủi ro lãi suất. Như ở
trên đã trình bày, lợi nhuận mà nhà tạo lập thị trường thu được chủ yếu từ khoảng
chênh lệch giá mua - bán mà nhà tạo lập thị trường yết lên, khoảng chênh lệch này
chịu tác động của ba yếu tố, hai trong số đó là rủi ro lựa chọn đối nghịch, rủi ro
cầm giữ chứng khoán - rủi ro lãi suất. Với những thị trường như NASDAQ, nhà
tạo lập thị trường tuy có quyền truy cập vào những nguồn thông tin tốt hơn so với
các nhà đầu tư công chúng nhưng điều đó không đảm bảo cho nhà tạo lập thị
trường có những thông tin hoàn toàn vượt trội. Thông tin mà nhà tạo lập thị
trường trên NASDAQ tiếp cận được thường chỉ là những thông tin chi tiết hơn về
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
17
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
Thứ hai, là những yếu tố vi mô:
COM
các đối tượng tham gia yết giá trên thị trường. Khi nhà tạo lập thị trường tiến hành
giao dịch với những nhà đầu tư nắm thông tin nội gián, hầu như không thể phân
biệt đâu là người có thông tin nội gián và ai không có. Tiến hành giao dịch với
những nhà đầu tư có thông tin nội gián, nhà tạo lập thị trường khó có thể kiếm lời,
hay thậm chí có thể bị lỗ. Mỗi phiên giao dịch phải tiếp cận với số lượng rất lớn
nhà đầu tư do đó rủi ro này có tác động không nhỏ tới nhà tạo lập thị trường. Mặt
khác để tiến hành giao dịch, nhà tạo lập thị trường luôn cần cân nhắc khối lượng
chào mua, chào bán. Khi xác định khối lượng chứng khoán yết lên, điều này có
nghĩa là nhà tạo lập thị trường sẽ phải đảm bảo khả năng tiến hành giao dịch với
khối lượng chứng khoán đã yết. Trong đa số các trường hợp, nhà tạo lập thị
trường sẽ phải đối mặt với việc nắm giữ chứng khoán trong kho của mình và đối
mặt với những rủi ro có thể xảy ra đối với loại chứng khoán đó.
KS.
Có hai tác nhân vi mô có thể gây tác động đến hoạt động của nhà tạo lập thị
trường là:
Cạnh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường và từ phía các tổ chức tài chínhngân hàng khác.
Ảnh hưởng từ phía khách hàng.
KIL
O
BOO
Các công ty chứng khoán khác, các tổ chức tài chính ngân hàng khi đáp ứng đủ
các yêu cầu trong luật khi đề xuất đều có thể được cho phép làm chức năng tạo
lập thị trường. Áp lực cạnh tranh, đặc biệt với những thị trường được tổ chức theo
mô hình NASDAQ, là rất lớn. Các nhà tạo lập thị trường phải luôn phân tích để
có các quyết định hợp lý về qui mô, về các mức giá chào mua, chào bán. Cạnh
tranh càng mạnh thì giá yết sẽ càng phải bám sát với giá thị trường và lợi nhuận
do đó cũng sẽ giảm xuống. Tuy nhiên đối với những thị trường tổ chức theo mô
hình của NYSE, nơi mà mỗi chuyên gia đều chịu trách nhiệm hoàn toàn với một
loại chứng khoán nhất định thì áp lưc cạnh tranh hầu như không có. Nhà tạo lập
thị trường chỉ chịu duy nhất tác động của các luật lệ yêu cầu phải tạo ra những
điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư tham gia trên thị trường.
Khách hàng cũng là một yếu tố tác động đến hoạt động tạo lập thị trường. Khách
hàng luôn muốn tìm đến những mức giá tốt nhất với mức rủi ro mà theo họ là thấp
nhất, điều này càng làm gia tăng áp lực lên các tổ chức này.
1.3. Mô hình thị trường chứng khoán phi tập trung nổi tiếng trên thế giới và bài học
kinh nghiệm
Để minh họa thêm về mô hình thị trường chứng khoán phi tập trung chúng ta sẽ
tìm hiểu thực tế về mô hình thị trường chứng khoán loại này nổi tiếng trên thế
giới. Mô hình này được tổ chức dưới dạng một thị trường báo giá điện tử với
phương thức giao dịch truyền thống trên thị trường là phương thức giao dịch thỏa
thuận với hệ thống các nhà tạo lập thị trường. Hiện nay, trên thế giới các thị
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
18
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
trường chứng khoán phi tập trung nổi tiếng như: NASDAQ thị trường chứng
khoán của MỸ, KOSDAQ thị trường chứng khoán của Hàn Quốc, JASDAQ thị
trường chứng khoán Nhật Bản…
COM
NASDAQ là mô hình thị trường OTC điển hình, tên gọi thị trường “phi tập trung”
xuất phát từ điểm khác biệt với vai trò của các chuyên gia trên sàn NYSE, nơi mà
tất cả các giao dịch đều tập trung vào thông qua người chuyên gia. Trên thị trường
này có những nhà tạo lập thị trường, họ không ở tập trung một chỗ, và cũng không
có yêu cầu họ phải cố định. Những nhà tạo lập thị trường có thể tham gia thị
trường thông qua hệ thống giao dịch điện tử từ bất kỳ máy tính nào, đồng thời họ
cũng có thể can thiệp ngay lập tức vào lệnh mà những công ty giao dịch vừa đặt.
KS.
NASDAQ được hình thành vào năm 1968 khi những nhà quản lý thị trường cố
gắng thống nhất và tăng cường vai trò của thị trường OTC. NASDAQ bên cạnh
nhiệm vụ quản lý nhân viên hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán và giám sát
các công ty môi giới, còn được giao thêm chức năng theo dõi và thúc đNy hoạt
động giao dịch dần tự động hóa. Đến năm 1980, bước ngoặt lớn nhất trong điều
chỉnh đối với thị trường này diễn ra, đối với mỗi loại chứng khoán mỗi nhà tạo lập
thị trường được phép đặt các mức giá chào bán thấp nhất và giá đặt mua cao nhất
của riêng mình.
BOO
Với hình thức này, các công ty giao dịch sẽ tham khảo các mức giá mà nhà tạo lập
thị trường đặt, các lệnh này hiện ra trên màn hình máy tính, lựa chọn và đặt lệnh
khi họ chọn được mức giá cạnh tranh nhất đáp ứng nhu cầu mua hay bán của
mình. Như thế NASDAQ là một hệ thống vi tính tinh vi có thể tự động đưa ra các
mức giá của các nhà tạo lập thị trường. Bản thân NASDAQ không đóng bất cứ
một vai trò nào giống như một nhà chuyên gia trên sàn giao dịch, việc đáp ứng và
thực hiện các lệnh hoàn toàn do các nhà tạo lập thị trường tiến hành.
KIL
O
NASDAQ phát triển đặc biệt nhanh vào những năm 80 cùng với sự gia tăng
nhanh chóng của các công ty công nghệ cao. Nhìn chung, các yêu cầu đặt ra để
được niêm yết trên NASDAQ là tương đối thấp do đó NASDAQ là lựa chọn trước
tiên của các công ty nhỏ họat động trong các ngành công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học chứ không phải là NYSE. Từ năm 1984 đến 1995, doanh số giao
dịch trên NASDAQ tăng từ 153 tỉ đô la với 4,097 công ty niêm yết lên 2,400 tỉ đô
la với 5,122 công ty, với mức giao dịch bình quân mỗi ngày là hơn 400 triệu cổ
phần. Giá trị thị trường của NASDAQ vào tháng 6 năm 1994 chỉ đạt 738.4 tỉ đô
la, chưa bằng một phần năm giá trị 4.3 nghìn tỉ đô la của NYSE cùng thời điểm,
chứng tỏ đa số các công ty trên NASDAQ đều là các công ty nhỏ. Do các yêu cầu
niêm yết thấp, qui mô NASDAQ gia tăng nhanh chóng. Năm 1989, NASD buộc
phải thắt chặt hơn các qui định, bao gồm cả việc quản lý các công ty tham gia làm
môi giới và tạo lập thị trường. Đến 1995, NASD đã cấp 510,000 giấy phép môi
giới, đồng thời SEC cũng thông qua NASD để quản lý chặt chẽ NASDAQ hơn.
Tuy nhiên, NASD luôn cố gắng tạo sự chủ động cho hoạt động của NASDAQ.
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
19
http://kilobooks.com
THÖ VIEÄN ÑIEÄN TÖÛ TRÖÏC TUYEÁN
Luận văn tốt nghiệp cao học
GVHD: TS. Nguyễn Thị Uyên Uyên
KS.
COM
Sự khác biệt lớn nhất giữa thị trường đấu giá và thị trường giao dịch là ở số lựợng
nhà tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán. Rõ ràng, nếu như số lượng nhà
tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán lớn thì tính thanh khoản của nó sẽ cao
hơn rất nhiều so với việc chứng khoán đó chỉ được một nhà tạo lập thị trường duy
nhất thực hiện – nhà chuyên gia – trên sàn NYSE. Tuy nhiên, điều này chưa hẳn
là đã có lợi. Trong khi NYSE và AMEX là các thị trường khớp lệnh, NASDAQ
lại là dạng thị trường khớp giá. Lợi nhuận của những công ty giao dịch trên thị
trường OTC phụ thuộc vào khoảng chênh lệch giữa mức giá chào mua và mức giá
chào bán hay còn gọi là chênh lệch mua - bán. Chênh lệch mua - bán được coi là
khoản đền bù cho các công ty này khi họ tạo được thị trường cho loại chứng
khoán đó và đền bù cho rủi ro mà họ chấp nhận trong thời gian cầm giữ chứng
khoán trước khi bán ra. Chênh lệch mua - bán còn được gọi là “chênh lệch bên
trong”, khoản chênh lệch này thể hiện mức lợi nhuận lớn nhất mà một công ty tiến
hành tạo lập thị trường có thể thu được. Mặt khác, trong khi trên thị trường đấu
giá, các lệnh giới hạn hầu như chiếm vị trí tuyệt đối, thì trên NASDAQ hầu như
rất ít có các lệnh giới hạn.
KIL
O
BOO
NASDAQ thiếu một cơ chế tập trung để xử lý các lệnh giới hạn, do đó các lệnh
giới hạn chỉ có thể xuất hiện trên hệ thống máy tính của NASDAQ hoặc là trong
hệ thống máy nội bộ của mỗi nhà tạo lập thị trường. Kết quả là những nhà tạo lập
thị trường trên NASDAQ có thể giao dịch với các mức giá họ đã chào ra, bỏ qua
các mức giá do các lệnh giới hạn đặt, cho dù các lệnh này có lợi hơn đối với nhà
đầu tư. Hệ thống của NASDAQ được xác lập tương đối khác thường: nó coi các
lệnh giới hạn là những lệnh gây cản trở cho quá trình xác định đúng giá trị của các
chứng khoán đang giao dịch. Những giá được hiện ra trên màn hình giao dịch
cũng không phản ánh hoàn toàn chính xác tất cả các lệnh mà tất cả các thành viên
tham gia trên thị trường sẵn sàng chấp nhận giao dịch. Hơn nữa, NASDAQ duy trì
hai cơ chế khác nhau cho việc giao dịch các lệnh khối lượng lớn (hơn 1 triệu cổ
phiếu) và các lệnh nhỏ: các giao dịch khối lượng lớn được thực hiện thông qua
thương lượng trực tiếp giữa nhà tạo lập thị trường và người môi giới đại diện cho
nhà đầu tư; các lệnh nhỏ được thực hiện qua hệ thống “Giao dịch lệnh nhỏ”
(Small Order Execution System-SOES).
Việc tham gia của nhà tạo lập thị trường vào thị trường chứng khoán ở các nước
trên thế giới đã trở nên phổ biến và là một nhu cầu thiết thực. Chúng ta, thử khảo
sát thêm các bảng số liệu về sự tham gia của các nhà tạo lập thị trường ở các thị
trường chứng khoán nổi tiếng trên thế giới.
Trong bảng 1.1 ở phần phụ lục, ta có 30 thị trường chứng khoán ở 29 nước (cột
1). Trong đó bao gồm 20 nước phát triển ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á, và 10
nước đang phát triển, hầu hết là các nước ở Châu Âu. Trong bảng có thể hiện hệ
thống giao dịch được áp dụng ở mỗi nước và cho thấy ở thị trường chứng khoán
đó có sự tồn tại của nhà tạo lập thị trường hay không, số lượng nhà tạo lập thị
trường trung bình đối với mỗi loại chứng khoán. Trong bảng bảng 1.1 có thể thấy
hầu hết các thị trường đều có tồn tại hình thức nhà tạo lập thị trường. Sở Giao
Người thực hiện: Đỗ Xuân Lộc – TCDN/K15 Khoa sau ĐH/ĐH Kinh Tế Tp. HCM
20
- Xem thêm -