Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác dân vận ở huyện lạc ...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác dân vận ở huyện lạc sơn, tỉnh hòa bình trong giai đoạn hiện nay

.PDF
69
131
143

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới: Ban giám hiệu Trường Đại học Tây Bắc, phòng Đào tạo, các thầy cô trong khoa Lý luận Chính trị cùng với các phòng ban chức năng. Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo: Th.s Lại Trang Huyền đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo động viên em trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đúng thời gian và có chất lượng. Em xin chân thành cảm ơn, Huyện ủy huyện Lạc Sơn, phòng Dân vận huyện Lạc Sơn…cùng các cá nhân đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ em trong việc sưu tầm và sử lý tài liệu. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo chủ nhiệm cùng các bạn sinh viên lớp k52 Đại học Giáo dục chính trị. Mặc dù em đã có nhiều cố gắng hoàn thành khóa luận bằng tất cả sự nhiệt tình và năng lực của bản thân, tuy nhiên không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được những đóng góp quý báu của quý thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Sơn La, tháng 5 năm 2015 Người thực hiện Bùi Thị Thanh Nhàn MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................................................2 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.....................................................................................4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................... 4 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của đề tài .....................................................4 6. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................5 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ........................................................................5 8. Kết cấu của đề tài.........................................................................................................5 Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN ..........................................6 1.1. Cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh...........................................................6 1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ............................................6 1.1.1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................................6 1.1.1.2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................................................9 1.1.2. Quá trình hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận........................... 10 1.1.2.1. Thời kỳ thơ ấu đến năm 1920: tham gia hoạt động yêu nước và hình thành tư tưởng yêu nước, tư tưởng dân vận .................................................................................10 1.1.2.2. Thời kỳ từ năm 1921 đến năm 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam và tư tưởng dân vận ....................................................................12 1.1.2.3. Từ năm 1930 đến năm 1945: tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh phát huy tác dụng tích cực đối với cách mạng Việt Nam ..................................................................13 1.1.2.4. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1969: phát triển toàn diện tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh ........................................................................................................................14 1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ..............................................17 1.2.1. Quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Hồ Chí Minh ......................................17 1.2.1.1. Quan niệm về dân ............................................................................................. 17 1.2.1.2. Quan niệm về dân chủ ......................................................................................18 1.2.1.3. Quan niệm về dân vận ......................................................................................19 1.2.2. Vị trí, vai trò của công tác dân vận ......................................................................20 1.2.3. Tư tưởng và phương thức cơ bản chỉ đạo công tác dân vận .....................................21 1.2.3.1. Tư tưởng chỉ đạo công tác dân vận của Hồ Chí Minh ...........................................21 1.2.3.2. Phương thức cơ bản chỉ đạo công tác dân vận .................................................26 1.2.4. Lực lượng làm công tác dân vận .........................................................................29 1.2.5. Phong cách làm việc của người làm công tác dân vận ........................................32 Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG DÂN VẬN CỦA HỒ CHÍ MINH VÀO CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY .......................................................................................................35 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ở huyện Lạc Sơn ............................................35 2.1.1. Điều kiện tự nhiên ............................................................................................... 35 2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội.......................................................................................39 2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình .................................................................................................................42 2.2.1. Quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trên địa bàn huyện . 42 2.2.1.1. Chủ trương đảng bộ huyện Lạc Sơn về công tác dân vận .......................................... 42 2.2.1.2. Kết quả; thành tựu và hạn chế ..........................................................................43 2.2.2. Những việc làm cụ thể của khối dân vận - mặt trận và các đoàn thể; .................49 2.2.2.1. Mặt trận Tổ quốc huyện ...................................................................................49 2.2.2.2. Các tổ chức chính trị .........................................................................................50 Chương 3: NHIỆM VỤ, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN Ở HUYỆN LẠC SƠN TỈNH HÒA BÌNH .............57 3.1. Nhiệm vụ , phương hướng nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình.................................................................................................................57 3.1.1. Nhiệm vụ .............................................................................................................57 3.1.2. Phương hướng .....................................................................................................58 3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình .........................................................................................................59 3.2.1. Giải pháp chủ yếu ................................................................................................ 59 3.2.2. Giải pháp cụ thể ...................................................................................................60 3.3. Kiến nghị đề xuất ....................................................................................................61 KẾT LUẬN ..................................................................................................................63 TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và dân tộc ta. Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn luôn xác định rõ vai trò, vị trí quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ XXI, đất nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm mưu của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong 30 năm đổi mới vừa qua, công tác dân vận do Đảng tổ chức, lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần không nhỏ làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu quả âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước; đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn còn một số yếu kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng tiếc các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận thức đúng vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận, thậm chí còn xem nhẹ công tác này, không coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Tình trạng một số cán bộ, đảng viên quan liêu, ngại đi cơ sở nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, thậm chí lợi dụng chức quyền, làm trái đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để tham nhũng, trục lợi, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân còn khá phổ biến. Tình 1 trạng này là nguyên nhân chính gây ra các vụ khiếu kiện, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, yêu cầu tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục được đặt ra một cách bức thiết. Do vậy, công tác dân vận đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá IX, có ba Nghị quyết về công tác dân vận nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân và huy động tối đa nội lực, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận và tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác vận động nhân dân. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là một công việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu này được nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học quan tâm thực hiện và đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Sau đây là một số công trình tiêu biểu mà tôi đã tham khảo: Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị Cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp cách mạng của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động nông dân của Lê Hoàng Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; GS. Văn Tạo: Học tập tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 5-2000; PGS.TS Nguy- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân vận của PGS.TS Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, của TS. Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tác phẩm dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi đường cho công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng, 2 nghiệp vụ công tác dân vận của Lương Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dân vận của hệ thống chính trị của Đinh Hồng Vân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quyền hạn và lợi Ých của dân trong bài báo dân vận của Nguyễn Tri Thư: Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề trong công tác vận động quần chúng, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2000; PGS.TS Hoàng Chí Bảo: Hồ Chí Minh với quan điểm thực tiễn và phương pháp khoa học về dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2000; TS. Phạm Văn Khánh: Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh nhân dân và công tác dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2003; PGS.PTS Đức Vượng: Đầu xuân suy ngẫm về dân vận trong sự nghiệp đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 1999; PGS.TS Bùi Đình Phong: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận vào việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số 92003; GS.TS Mạch Quang Thắng: Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác phẩm "Dân vận" của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, 8-2006. Ngoài ra, rất nhiều bài viết, luận văn, cuốn sách mà nội dung đề cập đến công tác dân vận đã được công bố, như: Chính quyền và nhiệm vụ dân vận của Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 1-1995; Lại bàn về dân vận của GS. Đặng Nguyên Anh, Tạp chí Dân vận, số 1-2003; "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" của Phạm Thế Duyệt, Tạp chí Dân vận, số 10-2002; Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của công tác cách mạng của Phan Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11-2000; Cơ quan nhà nước làm công tác dân vận như thế nào của Nguyễn Khánh, Tạp chí Dân vận, số 8-2000; Dân vận - một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền của Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 8-1996; Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2002; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỉ XXI, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh Nhìn chung các công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân nêu trên đã làm sáng tỏ lý luận và một số nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Song chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Tuy nhiên, những công trình này là những tài liệu quý báu để tôi tham khảo, kế thừa nhằm nghiên cứu, trình bày một cách tương đối hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng tư tưởng đó vào việc đánh giá thực trạng công tác dân vận trong 3 giai đoạn hiện nay ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; trên cơ sở đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận của huyện trong thời gian tới. 3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng, nêu ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận hiện nay ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm đạt được mục đích nêu trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. - Phân tích thực trạng công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn hiên nay, từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm. - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay ở huyện Lạc Sơn 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận. - Quá trình quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận; nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó trong công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu của đề tài - Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận. - Cơ sở phương pháp luận của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin. 4 - Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgíc là chủ yếu, ngoài ra còn sử dụng nhiều phương pháp khác như thống kê, so sánh... 6. Đóng góp của đề tài - Đề tài nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. - Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, đề tài làm rõ thực trạng công tác dân vận hiện nay ở huyện Lạc Sơn, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về công tác này. - Đề tài mạnh dạn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay ở huyện Lạc Sơn. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài góp phần làm rõ tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận. Tính cách mạng và tính khoa học của tư tưởng này không chỉ có ý nghĩa và giá trị to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, mà cả trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy công tác dân vận và làm công tác dân vận, nhất là làm công tác dân vận đối với nông dân. 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, đề tài có 3 chương; Chương 1; Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Chương 2; Vận dụng tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh vào công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình trong giai đoạn hiện nay. Chương 3; Nhiệm vụ, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở huyện Lạc Sơn tỉnh Hòa Bình. 5 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN 1.1. Cơ sở, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh 1.1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận 1.1.1.1. Cơ sở lý luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận có nguồn gốc từ nhiều yếu tố, trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ nghĩa Mác - Lênin. * Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy tinh thần “trọng dân”, “yêu dân”, “dựa vào dân” của ông cha ta trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là lời hịch của non sông trong đấu tranh giữ nước và dựng nước, đã động viên toàn dân chống quân Tống xâm lược “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [3, tr.65]. Tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, Trần Quốc Tuấn nhận thấy rằng nguyên nhân lớn nhất của chiến thắng là “Vua tôi đồng tâm, anh em hoà thuận, cả nước góp sức”, và ông căn dặn: "Phải khoan thử sức dân để làm kế bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Những lời tâm huyết đó đã thúc giục lòng người đứng lên giết giặc lập công. Lê Lợi, Nguyễn Trãi bằng chiến lược đánh vào lòng người đã động viên toàn quân, toàn dân trên tư tưởng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân". Tổng kết chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi nhấn mạnh nguyên nhân thắng lợi là gắn bó với nhân dân,và vận động, giáo dục, phát huy sức mạnh của nhân dân. Đến đầu thế kỷ XX, các nhà yêu nước tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vượt qua hệ tư tưởng phong kiến, tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, thực hiện một bước tiến về chất trong lịch sử tư tưởng dân tộc nói chung và trong vấn đề 6 vận động quần chúng nói riêng. Tuy nhiên, các nhà yêu nước nổi tiếng này chưa có phương pháp đánh giá và công tác vận động nhân dân một cách khoa học, nên phải chịu “trăm thất bại” mà không một thành công. *Chủ nghĩa Mác - Lênin Hồ Chí Minh là nhà yêu nước Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác Lênin và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Người coi chủ nghĩa Mác Lênin không những là cái “cẩm nang thần kỳ", mà còn là "kim chỉ nam" và "là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới mục đích cuối cùng", đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là đến với tri thức tiên tiến của thời đại, là tiếp thu sức mạnh và giá trị tinh thần của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ các đảng cộng sản đều phải làm công tác vận động nhân dân. Đó là một công tác lâu dài và phải kiên trì thực hiện. Giai cấp công nhân phải làm công tác dân vận để giành lấy sự đồng tình, sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình; và phải nhận thức rằng, mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau phải có những hình thức, nội dung công tác dân vận khác nhau. Như vậy, theo C.Mác và Ph. Ăngghen, muốn thắng lợi, các cuộc cách mạng xã hội không phải do những cá nhân, những nhóm người nhỏ bé cầm đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành, mà phải do các chính đảng có lý luận tiên phong của các giai cấp lãnh đạo; các đảng đó phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng dám xả thân đấu tranh. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ rằng sức mạnh của quần chúng nhân dân là vô địch; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Tuy nhiên, quần chúng nhân dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản cũng là mục đích trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác: tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” [6, tr.615]. Phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định rằng: 1) Không một phong trào cách mạng nào mà lại vững chắc được nếu không có một tổ chức ổn định và duy trì được tính liên tục gồm những người lãnh đạo; 2) Càng có đông đảo quần chúng được thu hút tự phát vào cuộc đấu tranh, tạo thành cơ sở cho phong trào và tham gia phong trào, thì càng cấp thiết phải có một tổ chức như thế và tổ 7 chức ấy lại càng phải vững chắc (nếu không thì bọn mị dân sẽ dễ lôi cuốn được những tầng lớp lạc hậu trong quần chúng); một tổ chức như thế thì chủ yếu phải gồm những người lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp của mình [38 tr.158-159]. Vì vậy, V.I.Lênin nhấn mạnh "hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và chúng tôi sẽ đảo ngược nước Nga lên!" [38, tr.162]. Muốn có sức mạnh phải thống nhất ý chí, phải đoàn kết, phải có tổ chức. Về phương hướng công tác dân vận, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ cần phải dùng phương pháp nêu gương và giúp đỡ; trong công tác dân vận thì những tấm gương, những mô hình thực tiễn cụ thể có tác dụng cổ vũ, động viên, hướng dẫn quần chúng nhân dân rất to lớn; đối với quần chúng nhân dân không được dùng mệnh lệnh áp đặt ý chí chủ quan của cá nhân lãnh đạo đối với họ. Để vận động quần chúng, V. I. Lênin khuyến khích mở rộng dân chủ, công khai làm cho mỗi người dân biết công việc của Đảng, của Nhà nước. Đây là phương pháp vận động quần chúng có tác dụng nâng cao tính chủ động, tính tích cực sáng tạo, cách mạng của quần chúng. V. I. Lênin viết: “Một nước mạnh là nhờ ở sự giác ngộ của quần chúng. Nước mạnh là khi nào quần chúng biết rõ tất cả mọi cái quần chúng có thể phán đoán được về mọi cái, và đi vào hành động một cách có ý thức” [39, tr.23]. V. I. Lênin rất trân trọng ý kiến của quần chúng; xem tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân là những nguồn thông tin cực kỳ quý báu để hình thành chính sách. Vì vậy, Người đề nghị tìm mọi cách để duy trì, phát triển và mở rộng hội nghị công nhân, nông dân ngoài Đảng, vì thông qua những hội nghị như thế, Đảng có thể “nhận xét tâm trạng của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết những nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất, trong số họ đảm nhiệm những chức vụ trong bộ máy nhà nước..” [38, tr.39]. Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học, là cơ sở phương pháp luận giúp Hồ Chí Minh tổng kết, tiếp thu có chọn lọc các học thuyết tư tưởng của nhân loại. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở, là nguồn gốc lý luận chủ yếu nhất để Người nâng cao truyền thống yêu nước của dân tộc theo phương hướng “Giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản”, hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam nói chung, về tư tưởng dân vận nói riêng để vận động, giáo dục, tổ chức nhân dân hành động dưới ngọn cờ của Đảng nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. 8 1.1.1.2. Cơ sở thực tiễn * Thực tiễn Việt Nam Lịch sử đã chứng minh truyền thống đoàn kết, ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc ta đã được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh là người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, Khi đất nước bị giặc xâm lăng, “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thử sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”. Hội nghị Diên Hồng đời Nhà Trần là một điển hình của truyền thống đoàn kết toàn dân tộc nhằm tập hợp mọi lực lượng, thu phục tướng sĩ, nhân tài, phát huy sức mạnh của cả dân tộc để đánh đuổi kẻ thù. Truyền thống này được Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy lên một tầm cao mới, trong thời đại mới. Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu cuộc vũ trang xâm lược và áp bức của chúng đối với dân tộc ta. Chúng đã thi hành nhiều chính sách nguy hiểm và bằng mọi thủ đoạn độc ác, đê hèn để bóc lột nhân dân ta, đặc biệt là chính sách “chia để trị”. Với chính sách đó kẻ thù hòng phân biệt, tách rời giữa đồng bào miền xuôi với đồng bào miền ngược, giữa đồng bào không theo đạo với đồng bào theo đạo… Nguy hiểm hơn, chúng đã chia đất nước ta thành ba miền: Bắc Trung - Nam; mỗi miền có một chế độ cai trị khác nhau nhằm tập trung phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước Việt Nam đã diễn ra rất mạnh mẽ. Từ phong trào Cần Vương, Yên Thế cuối thế kỷ XXI, đến phong trào Đông Du, Duy Tân các thế hệ người Việt Nam yêu nước nối tiếp nhau chống giặc ngoại xâm, nhưng đều thất bại. Hồ Chí Minh nhận thấy được những hạn chế của các nhà yêu nước trong chủ trương tập hợp lực lượng và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử dân tộc trong giai đoạn này. Đây chính là lý do, điểm xuất phát để Hồ Chí Minh quyết tâm ra nước ngoài tìm chân lý cách mạng, rồi trở về nước cùng nhân dân cứu nước. *Thực tiễn thế giới Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh khảo sát nhiều nước tư bản chủ nghĩa và nhiều nước thuộc địa, phụ thuộc ở hầu khắp các châu lục. Cuộc khảo nghiệm đó đã giúp Người nhận ra một sự thật là: Giới cần lao ở các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại; song cuộc đấu tranh của họ chưa đi đến thắng lợi, bởi vì 9 các dân tộc bị áp bức chưa biết tập hợp lại, chưa biết đoàn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở “chính quốc”, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức. Đối với phong trào cách mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý tới phong trào cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có thể đem lại cho Việt Nam nhiều bài học rất bổ ích về tập hợp các lực lượng yêu nước, tiến bộ để tiến hành cách mạng, như kinh nghiệm tập hợp lực lượng của Tôn Dật Tiên trong cách mạng Tân Hợi (1919) Ở Trung Quốc và của lãnh tụ đấu tranh đòi độc lập Mahatma ganđi ở ấn Độ. Hồ Chí Minh nghiên cứu một cách thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và những bài học kinh nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đem lại cho phong trào cách mạng thế giới; đặc biệt là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần chúng công nông đông đảo để giành chính quyền cách mạng. 1.1.2. Quá trình hình thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc vận động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng làm cách mạng. Lý luận Dân vận của Hồ Chí Minh hoà làm một với thực hành công tác dân vận, một cuộc thực hành bền bỉ kéo dài trong suốt cuộc đời của Người. Tư tưởng dân vận của Người được hình thành, phát triển và hoàn thiện gắn liền với quá trình hoạt động cách mạng của Người; gắn liền với quá trình phát triển, thắng lợi của cách mạng Việt Nam. 1.1.2.1. Thời kỳ thơ ấu đến năm 1920: tham gia hoạt động yêu nước và hình thành tư tưởng yêu nước, tư tưởng dân vận Trong thời kỳ này, Nguyễn Tất Thành tiếp thu truyền thống yêu nước và lòng nhân ái từ gia đình và quê hương. Tại quê hương, Hồ Chí Minh được khai tâm bằng chữ Hán, hấp thụ tinh thần yêu nước bất khuất của phong trào chống Pháp, cách đối nhân xử thế, nhân nghĩa thuỷ chung, khí khái của các nhà nho yêu nước. Thời kỳ này, Hồ Chí Minh cũng đã chứng kiến cảnh đàn áp dã man của thực dân Pháp đối với những người yêu nước Việt Nam; cảnh sống cơ cực, đói rách của nhân dân lao động; cuộc sống xa hoa của bọn thực dân Pháp và quan lại tay sai. Hồ Chí Minh tham gia phong trào biểu tình chống thuế của nhân dân Trung Kỳ, thấy được thất bại của phong trào Đông Du (1906 - 1908) do Phan Bội Châu tổ chức, lãnh đạo và phong trào “Đông kinh Nghĩa thục”(1907). 10 Khi bị kỷ luật ở trường Quốc học Huế, người đã đi dần vào nam và dừng chân tại Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành vào dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết) (9/1910 2/1911). Trong thời gian này anh đã phổ biến cho học sinh những thơ ca yêu nước, những bài “Ca hớt tóc”: Phen này cắt tóc đi tu, Tông kinh độc lập ở chùa Duy Tân, Đêm ngày khấn vái chuyên cần, Cầu cho ích nước lợi dân mới là, Quyết tu sao phỉ chí dân nhà, Tu sao độ được nước ta phú cường, Lòng thành thắp một tuần nhang, Nam mô phật tổ hồng bàng chõng tri [2, tr.38]. Ngày 5/6/1911 anh thanh niên Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân. Khi rời bến Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành có một tâm nguyện rằng: “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [36, tr.13]. Trong thời gian làm việc trên tàu buôn của Pháp, Người gia nhập Hội viên Công hội, Hội những người thuỷ thủ Việt Nam ở nước ngoài. Năm 1917, Hồ Chí Minh trở lại Pháp - một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá lớn ở Châu Âu lúc bấy giờ, sau đó tham gia Đảng Xã hội Pháp (1918). Năm 1919, Người thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi đến Hội nghị Vecxây Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, gồm 8 điểm đòi tự do dân chủ đơn sơ, đòi có tiếng nói riêng của người bản xứ trong Quốc hội Pháp, đòi thay thế chế độ sắc lệnh bằng các đạo luật.... Mặc dù không được Hội nghị Vecxây xem xét, song bản yêu sách đã có tiếng vang lớn. Trong thời gian này, Hồ Chí Minh qua nhiều nước ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ và châu Âu, chú ý xem xét tình hình các nước, suy nghĩ về thực tế đang diễn ra ở các nước đó và nhận định rằng: trên thế giới này chỉ có hai giống người: bị bóc lột và bóc lột mà thôi. Người kết luận giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở đâu cũng là bạn; chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Từ đó đã làm nảy nở ở Người tình cảm và ý thức giai cấp cũng như tình đoàn kết quốc tế. Người cũng đã tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới, khảo sát cuộc sống, tình cảnh của nhân dân bị áp bức và ảnh hưởng về con đường Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, một cuộc cách mạng đã 11 thành công đến nơi, vì “Cách mạng rồi quyền giao cho dân chúng số nhiều”. Bằng những hoạt động tích cực ấy, Hồ Chí Minh đã đi trước một đoạn đường khá thành công của công tác dân vận. 1.1.2.2. Thời kỳ từ năm 1921 đến năm 1930: hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam và tư tưởng dân vận Thời kỳ này Hồ Chí Minh vừa tiếp tục hoạt động cách mạng, vừa đi sâu nghiên cứu tư tưởng Mác-Lênin, từng bước xây dựng tư tưởng, chiến lược, sách lược, phương pháp và lực lượng cách mạng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Năm 1921, Hồ Chí Minh cùng một số chiến sỹ cách mạng ở nhiều nước lập ra tổ chức “Hội Liên hiệp thuộc địa” . Tháng 12/1921, theo kiến nghị của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Pháp thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa. Hồ Chí Minh được cử làm trưởng Tiểu ban nghiên cứu Đông Dương. Năm 1923, trong bức "Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp” trước khi rời nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng ta phải làm gì? Chúng ta không thể đặt vấn đề ấy một cách máy móc. Điều đó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi dân tộc chúng ta. Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập” [11, tr.192]. Những lời của Người trong bức thư ngắn gọn nêu trên cho thấy tư tưởng, quan điểm của Người với những nội dung hết sức rõ ràng cụ thể về cuộc vận động quần chúng làm cách mạng, từ giáo dục, tuyên truyền, tổ chức, tập hợp lực lượng và thực hành tranh đấu. Tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh ở thời kỳ này định hướng cho cách mạng thuộc địa. Sự định hướng đó thể hiện ở chỗ: “Giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản”. Trong những năm 1925-1927, Hồ Chí Minh hoạt động Quảng Châu (Trung Quốc). Ở đây, Người vận động, tổ chức Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng, ra báo Thanh niên và viết tác phẩm “Đường Kách mệnh”, mở các lớp huấn luyện chính trị đào tạo cán bộ rồi đưa họ về nước hoạt động. Trong “Đường Kách mệnh”, Hồ Chí Minh nói rõ mục đích “Vì sao phải viết sách này”. Người viết: 5. Mục đích sách này là để nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không 12 phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? Cách mệnh thì phải làm thế nào? 6. Sách này muốn nói cho vắn tắt, dễ hiểu, dễ nhớ. Chắc có người chê rằng văn chương cụt quằn. Vâng ! Đây nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc chắn như 2 lần hai là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả. Sách này chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh. Văn chương và hy vọng sách này chỉ ở trong hai chữ “Cách mệnh! Cách mệnh!! Cách mệnh !!! [12, tr.262]. Đây là cách đặt vấn đề xuất phát từ quan điểm thực tiễn rất tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm này là nền tảng của dân vận, của khoa học chính trị vận động quần chúng. Tác phẩm “Đường Kách mệnh” là ngọn cờ chỉ đạo; là bước chuẩn bị rất cơ bản về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Hồ Chí Minh còn viết "Lời kêu gọi"; trong đó, Hồ Chí Minh phân tích tình hình thế giới, tình hình trong nước và nêu lên đường lối, mục tiêu trước mắt và lâu dài của cách mạng Việt Nam, cổ vũ các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh dưới ngọn cờ cứu nước của Đảng Cộng sản Việt Nam để giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. 1.1.2.3. Từ năm 1930 đến năm 1945: tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh phát huy tác dụng tích cực đối với cách mạng Việt Nam Trong những năm 1930 - 1940, do điều kiện khách quan, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Lúc này, toà án thực dân, phong kiến ở Việt Nam kết án tử hình vắng mặt Hồ Chí Minh. Tháng 6/1931 đế quốc Anh bắt giam trái phép Hồ Chí Minh tại Hương Cảng (Trung Quốc). Chúng bịa ra nhiều lý do để trao Người cho thực dân Pháp. Nhờ sự giúp đỡ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của những nhân sĩ dân chủ và tiến bộ, nhất là của luật sư Lô - Dơ - By và kinh nghiệm hoạt động bí mật của mình, Hồ Chí Minh đã thoát khỏi nanh vuốt của kẻ thù. Mùa xuân năm 1934, Hồ Chí Minh sang Liên Xô. Ở đây Người vào học tại trường Đại học Lênin và sau đó làm nghiên cứu sinh ở Ban sử của Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Quốc tế Cộng sản. Người tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm phong trào 13 cách mạng thế giới. Trong thời gian này, Người tiếp tục bảo vệ và phát triển những tư tưởng, quan điểm đúng đắn của mình về cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện tả khuynh và biệt phái trong phong trào cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Tháng 7/1935, Đại hội lần thứ 7 Quốc tế Cộng sản được tổ chức ở Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc tham gia đoàn đại biểu Đảng ta với tư cách là đại biểu tư vấn. Căn cứ vào tình hình quốc tế lúc này, Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản đã thay đổi sự chỉ đạo chiến lược và chủ trương mở rộng mặt trận thống nhất nhằm tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, đấu tranh chống phát xít, bảo vệ tự do, dân chủ, hoà bình. Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản đã khắc phục được một bước quan trọng xu hướng tả khuynh trong phong trào cộng sản và phong trào quốc tế, tạo điều kiện để cách mạng nhiều nước có bước tiến mới. Như vậy, thực tiễn cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam đã chứng minh những quan điểm của Hồ Chí Minh về sự cần thiết phải tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, tập trung mũi nhọn chống đế quốc là đúng đắn và sáng tạo. Năm 1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người chủ trì Hội nghị Trung ương VIII, cụ thể hoá đường lối do Người vạch ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết. Trong bài "Kính cáo đồng bào", Người chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy" [13, tr.198]. Người chủ trương thành lập Việt Minh, vận động toàn dân thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam, tiến tới già nh chính quyền, giải phóng dân tộc. Nhờ những chủ trương đúng đắn, sáng tạo đó của Người, cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi. Đó là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận của người và tư tưởng đó có sức sống mãnh liệt trong thực tiễn đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc. 1.1.2.4. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1969: phát triển toàn diện tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đưa đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ra đời từ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng ngay từ khi mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách hiểm nghèo. Ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng và sau chúng là bè lũ Việt gian phản động chống phá cách mạng quyết liệt, mưu toan bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ. Ở miền Nam, quân Anh giúp 14 Pháp quay trở lại nổ súng xâm lược nước ta lần thứ hai. Trong khi đó tình hình kinh tế - tài chính của Nhà nước mới cực kỳ khó khăn, kho bạc trống rỗng; hơn nữa, nạn đói do hậu quả của chính sách vơ vét của Pháp và Nhật trước đó vẫn diễn ra gay gắt. Đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, nguy hiểm đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh bình tĩnh, khôn khéo đề ra nhiều biện pháp linh hoạt, phát huy được sức mạnh của cả dân tộc để giải quyết những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp thiết của cách mạng; nhờ đó từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng và chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Trong lời kêu gọi lịch sử này, Hồ Chí Minh vạch ra đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn của đất nước; do đó đã vận động, tập hợp, đoàn kết và huy động cả dân tộc Việt Nam vào cuộc trường chinh vĩ đại, bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc và từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Năm 1947, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Qua tác phẩm này, Người ý thức cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân sự cần thiết phải có phương pháp và cách thức làm việc, cách thức giải quyết các vấn đề trong điều kiện kháng chiến. Hơn thế nữa, tác phẩm còn nêu lên những phẩm chất cần có của người cách mạng để tập hợp sức mạnh của quần chúng, đưa sự nghiệp kháng chiến đến thắng lợi, kiến quốc đến thành công. Năm 1949, Hồ Chí Minh viết tác phẩm: “Dân vận”. Ở tác phẩm này Người đã nêu lên những quan điểm và phương pháp chỉ đạo công tác dân vận với một tầm nhìn rộng lớn, khoáng đạt; với cách nghĩ, cách làm dân vận hết sức mới mẻ, hiện đại. Đây là một trong những tác phẩm ít chữ mà nhiều ý nghĩa. Với một lượng tối thiểu ngôn từ, Người chuyển tải và biểu cảm một cách tối đa tư tưởng và triết lý của Người về công tác dân vận. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Mặt trận Dân tộc thống nhất đòi hỏi phải được mở rộng để thu hút tối đa các thành phần dân tộc vì những lý do khác nhau không tham gia Việt Minh. Vì vậy, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam ra đời. Công tác dân vận trong thời kỳ Đảng cầm quyền không phải là nhiệm vụ riêng của Đảng như thời kỳ Đảng hoạt động bí mật, bất hợp pháp. Từ sau tác phẩm “Dân vận” của Người, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân chú tâm vào công tác dân vận, động viên nhân dân thi đua ái quốc, giết giặc lập công, tăng gia sản xuất. Tư tưởng dân vận của Người đã đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 15 đến thắng lợi và cổ vũ nhân dân giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Năm 1954, cuộc kháng chiến của nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hoà bình ở Đông Dương (20/7/1954). Theo hiệp định này đất nước ta tạm chia làm hai miền và sau hai năm sẽ tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Song đế quốc Mỹ lợi dụng sự thất bại của Pháp, nhảy vào xâm lược miền Nam, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã chỉ ra đường lối đúng đắn cho giai đoạn cách mạng mới. Đó là Cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng Dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời gian này Hồ Chí Minh có hàng trăm bài viết, bài nói chuyện để giải thích, tuyên truyền đường lối của Đảng, đồng thời cổ vũ động viên cán bộ và nhân dân ta hăng hái xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một trong những tác phẩm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn của Người trong giai đoạn này là tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Bằng những lời lẽ sâu sắc và đầy sức thuyết phục, Hồ Chí Minh chỉ ra cho cán bộ, đảng viên thấy sự cần thiết phải thường xuyên rèn luyện tu dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân. Người coi chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù hung ác của chủ nghĩa xã hội, là nguồn gốc của mọi sự sai lầm khuyết điểm. Người viết: “Do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh” [29, tr.438-439]. Theo Người, để chống chủ nghĩa cá nhân có hiệu quả. mỗi người cần ra sức trau dồi đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, gắn bó mật thiết với quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Lịch sử hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng dân vận của Người nói riêng cho chúng ta thấy tư tưởng của Người là một hệ thống lý luận gắn chặt với thực tiễn, có tác động to lớn đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam cũng như của nhân loại tiến bộ chống lại mọi hình thức áp bức, nô dịch để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người 16 1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận 1.2.1. Quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Hồ Chí Minh 1.2.1.1. Quan niệm về dân Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân Việt Nam từ thân phận người dân thuộc địa lên địa vị người làm chủ đất nước; đồng thời Người cũng suốt đời phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Khái niệm "Dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu và phát triển những quan điểm tiến bộ về dân trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, lịch sử tư tưởng phương Đông, phương Tây và khái niệm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã rút ra một hệ thống các quan niệm về dân. Cho dù xét theo cách tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về dân Việt Nam có thể khái quát trên các nội dung sau: Dân là những người chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ thống nhất, là đồng bào, là "con Rồng cháu Tiên", là "con Hồng cháu Lạc", là anh em ruột thịt, là các tầng lớp, các đoàn thể, là những người cùng giai cấp, là những người yêu nước, là lực lượng cách mạng… Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm khái niệm “dân” đến tất cả những ai thừa nhận mình là “Con dân đất Việt”. Người thường nói đến “Con Rồng cháu Tiên”, “đồng bào”, gốc tích Việt Nam, “Hồng Bàng là tổ tiên ta”, “người chung một nước”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng, không phân biệt “Già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý, tiện”. Dân là toàn bộ đồng bào trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Dân là “Toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu, nghèo, giai cấp, tôn giáo” (27, tr.8). Dân ở đây trừ bọn phản bội, làm tay sai cho đế quốc thực dân đi ngược lại quyền lợi, nguyện vọng của toàn dân, dân tộc. Nói đến dân cũng là nói đến tuyệt đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác. Với quan niệm đó, Người cho rằng giai cấp tư sản dân tộc - những người có lòng yêu nước, cũng là dân; họ cũng có đóng góp nhất định trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích một cách sâu sắc và khoa học lực lượng quần chúng ở nước ta và chỉ rõ: “Nhân dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, và tư sản dân tộc. Dưới sự 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất