Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tieu luan thực trạng và giải pháp để thực hiện tốt công tác dân vận...

Tài liệu Tieu luan thực trạng và giải pháp để thực hiện tốt công tác dân vận

.DOC
49
871
82

Mô tả:

A. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài. Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc anh hùng, bền bỉ và kiên cường chinh phục thiên nhiên, đấu tranh chống mọi kẻ thù xâm lược. Quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài đầy gian khó, quyết liệt và hào hùng đã hun đúc nên tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư tưởng của Người và đường lối sáng suốt nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò và vị trí của nhân dân lại được khái quát tầm cao mới: “Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong” “Lực lượng của Nhân dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Công tác dân vận - vận động các tầng lớp Nhân dân của Đảng trở thành nhiệm vụ chiến lược, cấp bách của Đảng ta các cuộc chiến tranh giải phóng, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chỉ những ai tắm mình trong nguồn nước tươi mát của Nhân dân thì mới chiến thắng và giữ được chính quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của Nhân dân. Thấy rõ được vai trò quan trọng của quần chúng Nhân dân, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về công tác vận động quần chúng, mà xuyên suốt là đường lối chiến lược về đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là nguồn sức mạnh và là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần đó được thể chế hóa trong các chính sách, pháp luật của Nhà nước để trở thành hiện thực cuộc sống. Công tác dân vận một lần nữa được nhấn mạnh là phải hướng về cơ sở và nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Cần gắn công tác dân vận với thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Khắc sâu lời dạy của Người: “Việc dân vận rất quan trọng”, “Dân vận kém thì việc gì cũng kém. 1 Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”. Tiếp tục đổi mới phương thức vận động, tập hợp quần chúng, triển khai có hiệu quả các hình thức dân vận, hướng mạnh về cơ sở, bám sát địa bàn, bám dân, tăng cường đối thoại với Nhân dân, nhất là những vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, môi trường, sản xuất, việc làm, thu nhập…của Nhân dân. Phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho Nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của công tác dân vận. Công tác dân vận cần tập trung vào việc kiểm tra, giám sát, đơn đốc, sở kết, tổng kết việc thi hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng đã đề ra công tác vận động quần chúng. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị phải có nhận thức sâu sắc hơn nữa về công tác dân vận, xác định công tác dân vận là một nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sạch, vững mạnh. Sơn Động là huyện vùng cao của tỉnh Bắc Giang, trong những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cán bộ và Nhân dân các dân tộc huyện Sơn Động đã phát huy truyền thống của Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, chủ động vượt qua khó khăn thách thức của điều kiện tự nhiên và xã hội, khai thác có hiệu quả tiềm năng lợi thế vốn có, nhất là lợi thế về diện tích rừng và đất lâm nghiệp rộng lớn, vươn lên đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Tuy nhiên đánh giá một cách khách quan thì công tác vận động quần chúng Nhân dân ở trên địa bàn huyện hiện nay còn có những hạn chế nhất định, do vậy chưa phát huy được hết sức mạnh tổng hợp của các tầng lớp Nhân dân trong huyện. Để công tác dân vận thực hiện ngày càng tốt hơn, cần phải phát huy những mặt mạnh và nhìn thẳng vào những hạn chế, yếu kém để sửa chữa. Chính vì vậy, việc đánh giá trực trạng về công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động năm 2015 để rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác vận động quần chúng đồng thời chỉ ra những phương hướng, giải pháp và những kiến nghị nhằm thực hiện tốt hơn công tác vận động quần chúng năm 2016 là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, thiết thực góp phần phát huy sức mạnh vốn có trong Nhân dân và thực hiện nhiệm vụ chính trị của huyện Sơn Động. 2 Xuất phát từ thực tế đó, em chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp để thực hiện tốt công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động trong năm 2015” làm Tiểu luận tốt nghiệp cuối khóa. II. Mục tiêu nghiên cứu. Nghiên cứu thực trạng công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động giai đoạn 2012-2015, để từ đó đưa ra đề xuất, những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động trong thời gian tới. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. Nghiên cứu thực trạng công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động từ năm 2012 đến nay. IV. Phương pháp nghiên cứu. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích tổng hợp tài liệu, giáo trình, văn kiện, báo cáo về công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động giai đoạn 2012-2015. Nhóm nghiên cứu thực tiễn: Điều tra xã hội học, tổng hợp báo cáo số liệu điều tra công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động giai đoạn 2012-2015 V. Kết cấu của Tiểu luận. Ngoài phần MỞ ĐẦU và KẾT LUẬN, nội dung Tiểu luận gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về công tác dân vận. Chương II: Thực trạng công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động 3 năm qua. Chương III: Phương hướng, giải pháp và kiến nghị. 3 B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN 1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác dân vận. C.Mác, Fh Ăngghen và V.I Lênin đều chỉ ra rằng: Các Đảng Cộng sản đều phải làm công tác vận động Nhân dân. Đó là công tác lâu dài và phải kiên trì thực hiện. Giai cấp công nhân phải vận động để giành lấy sự đồng tình, sự ủng hộ của đa số Nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh cách mạng của mình, mỗi thời kỳ cách mạng khác nhau phải có hình thức, nội dung công tác dân vận theo thời kỳ đó. C.Mác và Fh Ăngghen đã viết: “Đã qua rồi thời kỳ cuộc đột kích, thời kỳ những cuộc cách mạng do những nhóm tiểu số cầm đầu, những quần chúng không tự giác tiến hành. Ở nơi nào mà vấn đề đặt ra là phải cải tạo hoàn toàn chế độ xã hội thì bản than quần chúng phải tự mình tham gia công cuộc cải tạo ấu, phải tự mình hiểu rõ vì sao phải tiến hành đấu tranh, vì sao phải đổ máu hy sinh tính mạng”. Điều này đã cho thấy từ những năm cuối thế kỷ XIX trở đi, những cuộc cách mạng xã hội muốn thắng lợi phải do các chính Đảng có lý luận tiền phong của các giai cấp lãnh đạo. Các Đảng này phải biết thuyết phục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng, huấn luyện quần chúng dám xả than đấu tranh mới giành được thắng lợi. Phát triển tư tưởng C.Mác và Fh Ăngghen, V.I Lênin nhân mạnh tới lợi ích thiết than của người lao động. V.I Lênin còn căn dặn, phải lấy lợi ích kinh tế thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng nền kinh tế. Chính vì vậy muốn vận động quần chúng thì chúng ta phải quan tâm đến lợi ích của họ. Sức mạnh của quần chung Nhân dân là vô địch. Tuy nhiên quần chúng Nhân dân chỉ có thể phát huy được sức mạnh của mình khi họ được tổ chức lại. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” C.Mác và Fh Ăngghen đã viết mục đích trước mắt của những người cộng sản là mục đích trước mắt của tất cả các Đảng vô sản khác: Tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. 4 Về phương pháp công tác dân vận, Fh Ăngghen căn dặn phải dùng phương pháp nêu gương và giúp đỡ. Như vậy, chúng ta có thể nhận thức rằng, trong công tác dân vận thì những tấm gương, mô hình thực tiễn, cụ thể sẽ có tác dụng rất lớn trong công tác vận động quần chúng. Điều này cũng nhắc nhở chúng ta rằng đối với quần chúng nhân dân không được dung mệnh lệnh, áp đặt ý chí chủ quan của cá nhân lãnh đạo họ. Phát triển tư tưởng đó của C.Mác và Fh Ăngghen, V.I Lênin rất coi trọng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương đối với quần chúng Nhân dân. Người đề ra nhiệm vụ hàng đầu cho các Đảng Cộng sản là phải “Thuyết phục cho đa số Nhân dân thấy được sự đúng đắn cương lĩnh và sách lược của mình”. V.I Lênin cho rằng “Việc giáo dục và rèn luyện quần chúng lao động” là nhiệm vụ cơ bản của công tác giáo dục Đảng Cộng sản. Người yêu cầu lấy kinh nghiệm lâu dài, lấy ví dụ thực tế để chứng minh cho quần chúng thấy rõ sự cần thiết của công việc là một biện pháp có hiệu quả không nhỏ. Về vấn đề dân chủ: V.I Lênin khuyến khích mở rộng dân chủ, công khai làm cho mọi người dân biết công việc của Đảng và Nhà nước. V.I Lênin rất trân trọng ý kiến quần chúng Nhân dân. Người coi tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân là những nguồn thong tin quý báo để hình thành chính sách. V.I Lênin cũng đề nghị tìm mọi cách để duy trì phát triển và mở rộng những hội nghị công nhân, nông dân ngoài Đảng vì như vậy Đảng có thể “... nhận xét tâm trang của quần chúng, gần gũi họ, giải quyết những nhu cầu của họ, giao cho những phần tử tốt nhất trong số họ đảm nhiệm chức vụ trong bộ máy Nhà nước…”. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận. Theo Hồ chí Minh “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho”. Hồ Chí Minh luôn tin vào sức mạnh, trí tuệ của nhân dân, có nhân dân là có tất cả. Theo Bác, quần chúng rất thông minh sáng tạo “Mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. “Họ quên rằng không có lực lượng Nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong, có lực lượng Nhân dân, thì việc khó 5 mấy, to mấy làm cũng được”. Do đó “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”. Cần “đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết…. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”. Người ý thức rõ để chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống, các tổ chức, đoàn thể, cán bộ, đảng viên “Phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc khuyến khích dân” thực hiện các chủ trương, chính sách đó. Sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải chung chung trừu tượng mà rất cụ thể thiết thực “Cán bộ canh nông thì hợp tác mật thiết với cán bộ địa phương, đi sát với dân, thiết thực bày vẽ cho dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách chọn giống, ủ phân, làm cỏ”. Người đã rút ra vấn đề mang tính quy luật là cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ dân vận nói riêng phải yêu thương Nhân dân, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của Nhân dân thì mới làm công tác dân vận có hiệu quả, nếu không “họ chỉ biết đòi hỏi Nhân dân, không thiết thực giúp đỡ Nhân dân”. Do vậy, Người thường xuyên nhắc nhở các cấp ủy, cán bộ, đảng viên phải “Từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”; “Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Trong phong cách, phương thức lãnh đạo của Đảng, Người luôn canh cánh “phải đưa chính trị vào giữ dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên” để giáo dục, động viên quần chúng, “khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hóa nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng”. Hơn ai hết, cán bộ dân vận phải bám sát tâm tư và nguyện vọng trong thực tiễn sôi động của Nhân dân, nói đi đôi với làm để tuyên truyền vận động Nhân dân có hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh, họ phải thật thà nhúng tay vào việc”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, đảng viên, cán bộ dân vận “Tự mình phải làm gương mẫu, cần, kiệm, liêm, chính, để nhân dân noi theo”, “Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng 6 sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn Nhân dân mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. 3. Những quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác dân vận. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, quyết tâm đổi mới toàn diện, đưa nước ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới và rút ra Bốn bài học, trong đó có bài học quan trọng là “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, phải đặc biệt chăm lo củng cố mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân”. Đến nay, sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cùng với những thành tựu rất quan trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, công tác dân vận của Đảng cũng đổi mới một cách cơ bản, toàn diện cả về quan điểm, nhận thức, nội dung, phương thức hoạt động đến bộ máy, tổ chức, cán bộ. hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI đã ban hành Nghị quyết Trung ương 8B về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân”, cho đến nay Nghị quyết vẫn còn nguyên giá trị. Nghị quyết đã nêu lên 4 quan điểm chỉ đạo công tác vận động quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân: Thứ nhất, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đặt quan điểm này lên vị trí hàng đầu, Đảng ta muốn khẳng định lại nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân. Kế thừa và phát triển tư tưởng “dân là gốc” của cha ông ta, Đảng nhấn mạnh đến vấn đề lực lượng và phương pháp cách mạng phải luôn dựa vào Nhân dân, phát huy sức mạnh của nhân dân để tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đồng thời phê phán một số xu hướng lệch lạc đã trở nên trầm trọng, phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, như bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, không tôn trọng Nhân dân. Để thực hiện quan điểm chỉ đạo nói trên, cần thấu hiểu và thực hiện bằng được tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “việc gì có ích cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”, nghiêm khắc phê phán mọi biểu hiện quan liêu, xa rời Nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân. 7 Thứ hai, động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân, kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. Thứ ba, các hình thức tập hợp Nhân dân phải đa dạng. Có như vậy mới phát huy được khả năng sáng tạo phong phú của quần chúng Nhân dân, từ đó giải quyết tốt các lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân để đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước. Hiện nay, bên cạnh việc các đoàn thể chính trị - xã hội cần đa dạng hóa về tổ chức và hình thức tập hợp đoàn viên, hội viên, cũng cần tiếp tục đa dạng hóa, phát triển thêm nhiều tổ chức xã hội rộng rãi theo nghề nghiệp, hiệp hội, theo nhu cầu, sở thích,... Thứ tư, công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể Nhân dân. Các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác quần chúng, vì đây là công tác cơ bản của Đảng, gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Đảng cũng khẳng định: công tác quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể mà còn là trách nhiệm của các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị, thực hiện phối hợp với nhau dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải làm công tác quần chúng theo chức trách của mình. Có như vậy mới tập hợp được mọi lực lượng, đoàn kết được toàn dân, tạo thành phong trào quần chúng rộng lớn vì sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xem nhẹ công tác vận động quần chúng hoặc “khoán trắng” cho Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể cần được phê phán, khắc phục triệt để. Những quan điểm nói trên là một chỉnh thể thống nhất, toàn diện về công tác quần chúng của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Vấn đề trọng tâm có tính cơ bản và cấp bách mà Nghị quyết vạch ra là đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể Nhân dân; tăng cường công tác quần chúng của bộ máy nhà nước; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng. Với chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, 8 Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục chỉ rõ những quan điểm công tác chỉ đạo công tác dân vận của Đảng: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng khối đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội nghị Trung ương lần thứ 7 đã ban hành Nghị quyết quan trọng về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh Đây là những Nghị quyết rất quan trọng, thể hiện sự quan tâm lãnh đạo chỉ đạo sau sát, cụ thể, thiết thực đối với công tác vận động quần chúng của Đảng, đối với từng giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo theo hướng “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân” là một biện pháp quan trọng để khắc phục bệnh quan liêu, xa dân. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “Đảng phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng các thiết chế để mở rộng và phát huy dân chủ, bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của Nhân dân, phản ánh ý chí, lợi ích của Nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của Nhân dân”. Việc cụ thể hóa các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân và sinh hoạt dân chủ trong xã hội. Việc Nhà nước từng bước xây dựng, hoàn thiện một cách đồng bộ các chính sách kinh tế, xã hội đúng đắn đã phát huy mọi khả năng sáng tạo của Nhân dân. Việc không ngừng đổi mới, hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, các tôn giáo, đặc biệt là các chính sách về kinh tế - xã hội, phân phối, tiêu dung, bảo đảm quyền lợi và trách nhiệm của công dân đã góp phần rất quan trọng vào dân chủ hóa xã hội và thành công của công tác dân vận của Đảng trong những năm qua. Đặc biệt “Quy chế công tác dân vận của Hệ thống chính trị” được Bộ Chính trị ký thông qua ngày 25-2-2010, gồm 5 chương, 34 điều, nội dung xác định rõ 9 phương thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng và của từng thành viên trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương đối với công tác dân vận. Đây là văn bản quan trọng của Đảng ta về lãnh đạo và thực hiện công tác dân vận của cả hệ thống chính trị trong thời kỳ mới và xác định rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân; cơ chế, phương thức thực hiện công tác dân vận của các tổ chức trong hệ thống chính trị theo phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”. Tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI Đảng ta đã đề ra Nghị quyết về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới bao gồm các quan điểm: Thứ nhất là: Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; Nhân dân là chủ, Nhân dân làm chủ. Thứ hai là: Động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh. Thứ ba là: Phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo. Thứ tư là: Công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân, cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt. Thứ năm là: Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực 10 lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp Nhân dân phải phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA HUYỆN ỦY SƠN ĐỘNG GIAI ĐOẠN 2012-2015 1. Đặc điểm tình hình chung. Sơn Động là huyện vùng cao của tỉnh Bắc Giang, cách trung tâm tỉnh lỵ 80 km về phía Đông Bắc; diện tích tự nhiên 844,32 km 2 (chiếm 22% diện tích toàn tỉnh). Phía Bắc giáp các huyện Lộc Bình, Đình Lập tỉnh Lạng Sơn; phía Đông và phía Nam giáp các huyện Ba Chẽ, Hoành Bồ và thị xã Uông Bí tỉnh Quảng Ninh; phía Tây giáp các huyện Lục Nam, Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Diện tích đất lâm nghiệp chiếm 82,67% diện tích đất tự nhiên, độ che phủ của rừng đạt trên 61%, trong đó có Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên tử với hệ động thực vật phong phú có tiềm năng lớn về phát triển du lịch sinh thái nghỉ dưỡng gắn với du lịch văn hoá tâm linh, lễ hội Chùa Đồng - Yên Tử. Trên địa bàn huyện còn có một số tài nguyên khoáng sản như: quặng đồng ở các xã Giáo Liêm, Cẩm Đàn; quặng thiếc ở xã Vân Sơn và mỏ than Đồng Rì với trữ lượng ≈ 100 triệu tấn đang được khai thác, cung cấp than thành phẩm phục vụ hoạt động của Nhà máy Nhiệt điện Sơn Động với công suất 220MW. Toàn huyện có 21 xã và 2 thị trấn với 178 thôn, bản, khu phố; đã có 23/23 xã, thị trấn với 178 thôn bản có điện lưới Quốc gia. Dân số ≈ 7,3 vạn người và 14 dân tộc cùng chung sống (trong đó dân tộc thiểu số chiếm 47,2%). Kinh tế của huyện tăng trưởng với tốc độ khá, năm sau cao hơn năm trước; giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 12,67%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: trong đó kinh tế nông, lâm nghiệp - thủy sản năm 2015 chiếm 66,2%; Công nghiệp - xây dựng chiếm 18,9%; dịch vụ - thương mại chiếm 14,9%. Thu nhập bình quân năm 2015 ước đạt 12 triệu đồng/người, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng lên rõ rệt. 11 Việc tiếp nhận và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án đầu tư của Nhà nước thông qua chương trình 134, 135, các chương trình mục tiêu quốc gia, Dự án di dân tái định cư Trường bắn TB1, đặc biệt là Đề án giảm nghèo nhanh và bền vững dành cho 64 huyện nghèo theo tinh thần Nghị quyết 30a/2008 của Chính phủ, được triển khai thực hiện trên địa bàn huyện Sơn Động từ năm 2010 đã đầu tư xây dựng và nâng cấp hàng trăm công trình phúc lợi phục vụ đời sống dân sinh, giúp cho diện mạo nông thôn miền núi có nhiều đổi mới, khởi sắc. Các lĩnh vực văn hoá - xã hội tiếp tục có chuyển biến tiến bộ: Hệ thống mạng lưới, quy mô và loại hình trường lớp tiếp tục được củng cố và phát triển, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt trên 90%, cao hơn mức bình quân chung của tỉnh, chất lượng giáo dục toàn diện được nâng lên, số học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng tăng đều qua các năm. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, được tăng cường, Bệnh viện đa khoa Sơn Động với quy mô 150 giường bệnh đang được đầu tư mở rộng, nâng cấp, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được quan tâm đầu tư; chất lượng khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được nâng lên, đội ngũ cán bộ y tế được tăng cường cả về số lượng và chất lượng, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hàng năm bằng 1,2%. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” được các cấp, các ngành và nhân dân hưởng ứng tích cực, việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội đã được đưa vào quy ước, hương ước của bản, làng, thôn, khu phố và được nhân dân đồng tình hưởng ứng, một số Lễ hội văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc như Hội hát Soong Hao tại khu vực 6 xã Cẩm Đàn, Hội hát Then khu vực Vân Sơn, Hội bơi chải khu trung tâm huyện được khôi phục và duy trì hàng năm, tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt 95,4%, phủ sóng truyền hình đạt 90%. An ninh chính trị, TTATXH luôn ổn định và thường xuyên được giữ vững. Những thành tựu đó đã tạo thêm thế và lực mới, sức mạnh và niềm tin để nhân dân các dân tộc Sơn Động vững bước tiến lên, quyết tâm xây dựng quê 12 hương giàu mạnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 2. Kết quả đạt được trong công tác dân vận của Huyện ủy Sơn Động trong giai đoạn 2012 - 2015. 2.1. Hoạt động của hệ thống công tác dân vận. 2.1.1. Công tác tham mưu giúp cấp ủy. Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận đối với việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ giai đoạn 2012 - 2015, cấp ủy huyện và Đảng ủy cơ sở đã lập kế hoạch và các quyết định về chỉ đạo thực hiện công tác Dân vận. Ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) "về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới"; Xây dựng kế hoạch số 44-KH/HU ngày 7/01/2013 của BTV Huyện ủy về thực hiện chỉ thị số 17-CT/TW ngày 20/11/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động quần chúng. Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Quyết định số 253QĐ/HU ngày 30/01/2013 bổ xung sửa đổi Quyết định số 63-QĐ/HU ngày 29/4/2011 về việc ban hành "Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị huyện Sơn Động". Xây dựng báo cáo sơ, tổng kết các Chỉ thị, Nghị quyết: Báo cáo sơ kết 10 năm Thông báo số 160 của Ban Bí thư "Về chủ trương công tác đối với đạo Tin lành"; Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 20, 25 của Bộ Chính trị (khóa X); Sơ kết 5 năm thực hiện Thông báo số 292 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) "về viêc giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ tiến hành trong chiến tranh ở Việt Nam và công tác chăm sóc giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam"; Sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 59-NQ/TU, ngày 8/4/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bắc Giang về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giai đoạn hiện nay"; Sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 434-QĐ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh Bắc Giang"; Thành lập 5 tổ kiểm tra việc triển khai và thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW; Nghị quyết số 20-NQ/TW, Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp 13 hành Trung ương Đảng về công tác thanh niên, phụ nữ, nông dân thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 2.1.2. Công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ chuyên môn Trong giai đoạn 2012 - 2015 Ban Dân vận Huyện ủy đã phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị chỉ đạo có hiệu quả công tác dân vận trên tất cả các mặt; phối hợp với Liên đoàn lao động huyện chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tổ chức hội nghị cán bộ công chức, viên chức đầu năm; phối hợp với phòng dân tộc, công an, Ban chỉ huy quân sự, các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn nắm tâm tư nguyện vọng và tư tưởng các tầng lớp nhân dân, từ đó đã tham mưu giúp cấp ủy giải quyết có hiệu quả một số vụ tranh chấp đất đai, truyền đạo trái pháp luật trên địa bàn huyện. Hàng năm xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát chương trình công tác dân vận, từ năm 2012-2015 đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác dân vận, QCDC cho trên 500 lượt tổ trưởng, tổ phó và phó khối dân vận ở cơ sở; Tham mưu giúp cấp ủy chỉ đạo MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội (MTTQ, Hội LHPN, Hội Nông dân, Đoàn thanh niên, Hội CCB, LĐLĐ huyện) tổ chức thành công Đại hội nhiệm kỳ. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện công tác dân vận đối với 30 đơn vị. 2.1.3. Công tác dân vận của các cơ quan nhà nước Huyện ủy chỉ đạo các cơ quan chính quyền, UBND các xã, thị trấn tập trung chỉ đạo công tác tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến mọi tầng lớp nhân dân; tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo đến đời sống nhân dân, thực hiện tốt công tác chính sách an sinh xã hội trên địa bàn. Chính quyền các cấp tiếp tục chỉ đạo thực hiện chỉ thị 18/2000/CT-TTg ngày 21/9/2000 của Thủ tướng Chính phủ và Công văn số 899-CV/UBND của UBND tỉnh về "Tăng cường công tác Dân vận chính quyền", Kế hoạch số 618/KH-UBND huyện về "Chỉ đạo thực hiện công tác dân vận chính quyền"; công tác quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực được chấn chỉnh; cán bộ công chức, viên chức các cấp có chuyển biến về thái độ, trách nhiệm trong quan hệ và phục vụ nhân dân, thực hiện công khai, dân chủ, đối thoại với nhân dân; chỉ đạo giải quyết kịp thời đơn thư 14 khiếu nại, tố cáo và những vấn đề bức xúc của nhân dân. Các xã, thị trấn quan tâm thực hiện QCDC ở cơ sở; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống xã hội, đẩy mạnh phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", phong trào "Xây dựng nông thôn mới". Thực hiện phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, tạo được sự đồng thuận trong nhân dân. 5 năm qua khối dân vận các xã, thị trấn đã vận động hiến hàng chục nghìn m 2 đất, trị giá trên 13 tỷ đồng để xây dựng công trình phúc lợi công cộng. Thông qua các hoạt động trên đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội ở cơ sở. 2.1.4. Thực hiện phong trào thi đua dân vận khéo Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của phong trào thi đua "Dân vận khéo", thời gian qua Ban Dân vận Huyện ủy đã quan tâm chỉ đạo cấp ủy, chính quyền cơ sở đẩy mạnh xây dựng mô hình "dân vận khéo" trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh, xây dựng hệ thống chính trị... khối dân vận các xã, thị trấn đã lựa chọn những nội dung trọng tâm để đăng ký xây dựng mô hình "Dân vận khéo". Đến nay, toàn huyện đã xây dựng được 311 mô hình (trong đó: duy trì 129 mô hình, xây dựng mới được 182 mô hình) trong các lĩnh vực kinh tế 78 mô hình, văn hoá- xã hội 101 mô hình, quốc phòng- an ninh 38 mô hình; xây dựng hệ thống chính trị 1 mô hình, các lĩnh vực khác 93 mô hình. Qua đó đã phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo, có sức lan tỏa trong nhân dân. Nhiều mô hình điển hình đã góp phần xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Phong trào thi đua "Dân vận khéo" đã gắn với thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, nhất là việc "học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". * Tóm lại: Trong những năm qua, công tác dân vận có nhiều chuyển biến tích cực, phát huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Công tác dân vận của chính quyền được tăng cường. MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục phát huy có hiệu quả công tác dân vận.Tổ chức, bộ máy, hoạt động của công tác dân vận các cấp được quan tâm, kiện toàn, chất lượng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. 15 Với những kết quả đã đạt được của công tác dân vận trong những năm vừa qua, Ban Dân vận Huyện ủy đã được Chủ tịch UBND tỉnh tặng Bằng khen, UBND huyện công nhân tập thể lao động tiên tiến và nhiều Giấy khen của Ban Dân vận Tỉnh ủy, được Hội đồng thi đua khen thưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy đánh giá là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ xếp loại đứng tốp đầu toàn tỉnh. * Cơ cấu tổ chức của Ban Dân vận Huyện ủy: - Chức năng: Ban Dân vận Huyện ủy là cơ quan tham mưu của Huyện ủy, trực tiếp giúp Ban Thường vụ Huyện ủy về công tác Dân vận, bao gồm cả công tác tôn giáo. Nghiên cứu, cụ thể hóa những chủ trương, nghị quyết của Trung ương và Tỉnh ủy về công tác dân vận, đề xuất, chuẩn bị hoặc tham gia chuẩn bị các kế hoạch công tác và văn bản chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy về công tác dân vận. - Nhiệm vụ: Theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra các ngành, đoàn thể Huyện và các Tổ chức cơ sở Đảng thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy và Huyện ủy về công tác dân vận; Phối hợp với MTTQ và các đoàn thể Nhân dân huyện theo dõi, nắm tình hình từ trong Đảng đến mọi đối tượng trong các tầng lớp nhân dân phục vụ công tác lãnh chỉ đạo của Huyện ủy, Ban Thường vụ Huyện ủy; Phối hợp với Ban Tổ chức Huyện ủy làm công tác xây dựng Đảng trong khối dân vận; nắm tình hình đội ngũ cán bộ trong khối và có trách nhiệm tham gia ý kiến trong việc tuyển chọn, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách đối với cán bộ của Đảng bộ khi cấp ủy yêu cầu; Hướng dẫn nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ phương pháp công tác dân vận cho Đảng ủy và các tổ chức quần chún ở cơ sở. 2.2. Các kết quả đạt được. 2.2.1. Công tác tham mưu: Tham mưu giúp cấp uỷ chỉ đạo tổng kết hoạt động năm 2014 của MTTQ và các đoàn thể nhân dân; dự và chỉ đạo hội nghị tổng kết công tác Công đoàn, Hội phụ nữ, Hội CCB huyện năm 2014. 16 Tham mưu giúp Ban Thường vụ Huyện ủy quán triệt, triển khai, sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, kế hoạch, chương trình liên quan đến công tác vận động quần chúng: ban hành Kế hoạch số 120-KH/HU, ngày 07/5/2015 về sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định 290-QĐ/TW về ban hành" Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị"; ban hành Quyết định số 547-QĐ/HU, ngày 16/3/2015 về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác tôn giáo huyện Sơn Động; tổ chức hội nghị phổ biến, quán triệt triển khai thực hiện Nghị định số 04/2015/NĐ-CP, ngày 09/01/2015 của Chính phủ về “Thực hiện dân chủ trong cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công lập”; sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 66-KLTW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Cựu Chiến Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới; tổng kết thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về việc ban hành "Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị"; tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương bảy (khoá IX) về công tác dân tộc; Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 59- NQ/TU ngày 08/4/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác MTTQ và các đoàn thể CT-XH trong giai đoạn hiện nay”; Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Báo cáo Sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 48- CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Tham mưu ban hành Công văn số 08-CV/HU về việc triển khai thực hiện Quyết định số 1157-QĐ/TU ngày 09/7/2015 của Tỉnh ủy Bắc Giang về việc ban hành “Quy định trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tiếp thu ý kiến góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” và Quyết định số 1158-QĐ/TU ngày 09/7/2015 của Tỉnh ủy Bắc Giang về việc ban hành “Quy chế tiếp xúc, đối thoại trực tiếp của người đứng đầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân"; Báo cáo kết quả 02 năm thực hiện Quyết định số 217- QĐ/TW, Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị 17 (khóa X); tham mưu giúp Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết về "Tăng cường công tác dân vận chính quyền trong giai đoạn hiện nay". Tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo “Quy định trách nhiệm tiếp thu của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tiếp thu ý kiến góp ý của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội và nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. 2.2.2.Công tác hướng dẫn, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn: Xây dựng chương trình công tác, kế hoạch kiểm tra, giám sát, hướng dẫn thi đua khen thưởng công tác dân vận; xây dựng các kế hoạch phối hợp thực hiện công tác dân vận; thực hiện QCDC ở cơ sở, đăng ký 5 nhiệm vụ trọng tâm năm 2015. Tổ chức hội nghị tổng kết công tác dân vận và thực hiện QCDC ở cơ sở năm 2014, triển khai nhiệm vụ năm 2015; Hội nghị giao ban công tác dân vận quý I, II, III với khối dân vận các xã, thị trấn; giao ban công tác phối hợp quý I/2015 với các cơ quan, đơn vị phối hợp. Tổng kết Phong trào thi đua "Dân vận khéo" xây dựng mô hình, điển hình “Dân vận khéo” giai đoạn 2011-2015 ở huyện. Tham dự Hội nghị tổng kết Phong trào thi đua “Dân vận khéo”, xây dựng mô hình, điển hình “Dân vận khéo” giai đoạn 2011-2015 do tỉnh tổ chức; Hội nghị trực tuyến quán triệt Chỉ thị số 43- CT/TW ngày 14/5/2015 của Ban Bí thư Trung ương “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giải quyết hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam” và sơ kết công tác dân vận 6 tháng đầu năm; Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 290QĐ/TW ngày 25/02/2010 của Bộ Chính trị ( khóa X) về ban hành “Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị; tham dự Lễ kỷ niệm 85 năm ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930- 15/10/2015) và đón nhận huân chương lao động hạng nhì của Ban Dân vận Tỉnh ủy. Hoàn thiện hồ sơ đề nghị xét tặng kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Dân vận ” năm 2015. Chỉ đạo kiện toàn Khối Dân vận, Tổ Dân vận ở cơ sở; chỉ đạo tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn: Ngày giải phóng Miền Nam (30/4), ngày Quốc tế Lao động (01/5) và 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5), 70 năm Ngày 18 Cách mạng tháng Tám thành công và Ngày Quốc khánh (02/9/1945- 02/9/2015); 70 năm Ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam (19/8/1945- 19/8/2015); 10 năm Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ Quốc (19/8/2005- 19/8/2015); 85 năm ngày truyền thống công tác dân vận của Đảng (15/10/1930-15/10/2015)... Hướng dẫn Khối Dân vận các xã, thị trấn đăng ký thi đua- khen thưởng đầu năm và tự chấm điểm thi đua cuối năm; xây dựng các loại báo cáo; chỉ đạo rà soát, thống kê và triển khai thực hiện Phong trào thi đua “ Dân vận khéo”, xây dựng mô hình, điển hình "Dân vận khéo" trên địa bàn huyện, lựa chọn những điển hình tiên tiến để huyện và tỉnh khen thưởng; báo cáo về thực trạng công tác dân vận chính quyền tại địa phương. Hướng dẫn Khối Dân vận các xã, thị trấn sơ, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quyết định, kế hoạch, chương trình liên quan đến công tác vận động quần chúng: Báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết số 59- NQ/TU ngày 08/4/2011 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác MTTQ và các đoàn thể CT-XH trong giai đoạn hiện nay”; Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 290-QĐ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về việc ban hành "Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị"; Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương bảy (khoá IX) về công tác dân tộc; Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Kết luận số 66-KLTW của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Cựu Chiến Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới; Báo cáo tổng kết thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tham gia các tổ công tác chỉ đạo Đại hội Đảng bộ các xã, thị trấn, chi, đảng bộ trực thuộc. Tổ chức rà soát chấm điểm thi đua kết quả hoạt động của khối dân vận 23/23 xã, thị trấn, đồng thời đề nghị khen thưởng đối với tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong hoạt động công tác dân vận năm 2015. 19 2.2.3. Công tác tập huấn, bồi dưỡng; kiểm tra, giám sát: Phối hợp với Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện tổ chức lớp Tập huấn nghiệp vụ công tác dân vận và thực hiện QCDC cho 90 cán bộ Dân vận ở cơ sở năm 2015. Tổ chức tập huấn “Cầm tay chỉ việc” về công tác dân vận theo chương trình 30A cho 193 đồng chí Bí thư chi bộ, trưởng thôn bản, khu phố. Tổ chức đoàn cán bộ tham gia tập huấn nghiệp vụ công tác dân vận, QCDC năm 2015 do Ban Dân vận Tỉnh ủy tổ chức. Kiểm tra việc chỉ đạo thực hiện công tác dân vận, kế hoạch phối hợp công tác dân tộc, tôn giáo, kiểm tra thực hiện Quyết định số 253-QĐ/HU ngày 30/01/2013 của Ban Thường vụ Huyện ủy về việc ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị huyện Sơn Động, Kế hoạch số 73-KH/HU ngày 26/8/2013 của Huyện ủy Sơn Động về thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” ở 05 xã theo kế hoạch. Giám sát việc thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 về "Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội"; Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 về "Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị- xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền". Ban Dân vận Huyện uỷ đã phối hợp với Hội LHPN huyện tổ chức 01 cuộc giám sát chính sách Bảo hiểm y tế cho phụ nữ nghèo, phụ nữ nghèo là người dân tộc thiểu số tại xã Long Sơn; Ban Dân vận Huyện uỷ đã phối hợp với Phòng Dân tộc tổ chức 01 cuộc kiểm tra việc thực hiện kế hoạch phối hợp công tác dân tộc năm 2015; tham mưu Ban chỉ đạo QCDC huyện quyết định thành lập 07 tổ kiểm tra tiến hành kiểm tra QCDC ở 16 chi, đảng bộ cơ sở. 2.2.4. Công tác phối hợp: Phối hợp với HĐND- UBND huyện, Phòng dân tộc, Công an huyện, Ban Chỉ huy Quân sự và các đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch phối hợp công tác Dân vận năm 2015. Ban Dân vận Huyện uỷ thống nhất với MTTQ, các đoàn thể nhân dân huyện xây dựng Chương 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng