Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận di chúc của chủ tích hồ chí minh...

Tài liệu Tiểu luận di chúc của chủ tích hồ chí minh

.DOC
20
11744
114

Mô tả:

những vấn đề chiến lược trong di chúc của chủ tích hồ chí minh
Chuyên đề 3 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM: Tháng 9 năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cùng với những hình ảnh ghi lại tình cảm của toàn dân khắp bốn phương, bản Di chúc của Bác Hồ kính yêu được công bố. Theo đó, năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Bản Di chúc đầu tiên gồm 4 trang, do tự tay Người đánh máy ở cuối trang đề ngày 15-5-1965. Bản Di chúc Người viết năm 1965 là bản duy nhất hoàn chỉnh, dưới có chữ ký của Người và bên cạnh có chữ ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ. Năm 1968 Người viết bổ sung thêm một số đoạn gồm 6 trang viết tay. Ngày 10-5-1969 Người viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc gồm một trang viết tay (những năm 1966, 1967 không có bản viết riêng). Bản Di chúc công bố năm 1969 chủ yếu dựa vào bản Người viết năm 1965 (trong đó đoạn mở đầu là bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là phần đầu bản viết năm 1968). Đến năm 1989, Bộ Chính trị cho phép công bố các Bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Căn cứ theo tài liệu công bố của Bộ Chính trị (trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 12) các Bản thảo Di chúc được sắp xếp theo thứ tự thời gian Người viết, các bản bút tích được in trước, sau đó các bản đánh máy và bản in được in tiếp sau đó. Cuối cùng là bản Di chúc công bố chính thức năm 1969 HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM: Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75 Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo “Ai dám biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm tháng nữa”. Rõ ràng Hồ Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình. Từ dự cảm đó, Người viết: “Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Vì vậy, Người đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, toàn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và với cách mạng thế giới. NỘI DUNG CHÍNH: Phần đầu: Về sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định giải phóng miền Nam và qua đó, giải phóng hoàn toàn và thống nhất đất nước như một tất yếu, dù phải kéo dài, đặc biệt ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Người đã nói: "Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay". Sự thật đã diễn ra như Người đoán. Bác mất năm 1969, sáu năm sau, dân tộc Việt Nam giành đại thắng tháng 4/1975. 1 Phần thứ hai: Nói về Đảng, về Đoàn viên và thanh niên. Về Nhân dân lao động, cuộc kháng chiến chống Mỹ, về phong trào cộng sản thế giới, cuối cùng là về việc riêng. Trước hết nói về Đảng: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Như chúng ta đã biết, từ những ngày đầu mới thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong mỗi thời kỳ cụ thể của Cách mạng. Bác Hồ chính là nhà chiến lược và sách lược tài tình, nhà tổ chức lực lượng thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người có công rèn luyện, giáo dục bao lớp cán bộ ưu tú của Đảng, Người đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong những điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ một Đảng Cộng sản cầm quyền, sau Lênin, đã nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền cùng những lo lắng, răn đe. Không phải chỉ trong Di chúc, mà hầu hết những tác phẩm của Hồ Chí Minh từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản bắt đầu cầm quyền sau Cách mạng tháng Tám, ngay sự cầm quyền ấy chưa hoàn toàn trong phạm vi cả nước, vừa xây dựng chính quyền vừa kháng chiến, Người đã luôn luôn nhắc đến việc chính quyền do Đảng Cộng sản phải là chính quyền vì dân, do dân, gắn bó với dân, trung thành với dân, người đầy tớ trung thành của dân. Bức thư đầu tiên Người gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, khi kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu vài tháng và khi mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa ai cảnh giác con đường hiểm nguy của Đảng Cộng sản cầm quyền mà thoát ly nguyên lý cộng sản cơ bản - tức phục vụ dân, lấy dân làm gốc - thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo động với ý thức và lời lẽ vừa thiết tha vừa nghiêm khắc, lấy sự việc ngay trong đời sống hằng ngày. Cho nên, bài học lớn nhất mà chúng ta rút ra từ Di chúc của Người chính là phần cốt lõi này. Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, đoàn kết, gắn bó với nhân dân, đại diện cho quyền lợi của giai cấp và của dân tộc, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, ủng hộ, giúp đỡ. Điều này làm chúng ta càng thấm thía lời cǎn dặn của Bác trước lúc đi xa: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho 2 nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân hǎng hái đấu tranh từ thắng lợi này đến thắng lợi khác" và "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau..." Muốn có được sự đoàn kết nhất trí đó, như Bác đã nói là ngay trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Là một người theo chủ nghĩa cộng sản, là người phương Đông đồng thời cũng là người con của đất Việt, lịch sử hàng ngàn năm đã đặt cho trí tuệ của Người sự suy nghĩ có chiều sâu, bao quát bởi bao nhiêu triều đại ngả nghiêng khi không hiểu lời của Nguyễn Trãi: Dân nâng thuyền và dân có thể lật thuyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần lời dạy của người xưa: Tu thân, tề gia, trị quốc. Đảng Cộng sản cầm quyền mà không coi trọng tu thân thì khó tề gia, càng khó trị quốc. Đảng lãnh đạo gồm năng lực tiên phong và đạo đức tiên phong. Bài học này đâu cũng có, lúc nào cũng có. Đảng không gương mẫu, nặng tư lợi, nặng chức quyền thì Đảng chỉ còn là một hàng hội. Đảng viên háo danh, tự ca ngợi mình mà tham lam, lợi dụng chức quyền, dung túng cho vợ con thân thuộc phạm các tội lừa đảo, ăn hối lộ, buôn lậu... tức vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội thì còn tệ hơn một tội phạm thường dân. Tiên phong là làm gương, lãnh đạo là dẫn đường - không làm gương thì chẳng thể dẫn đường đúng. Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Theo Bác Hồ: Người có nhân là người có tấm lòng nhân hậu, tình thương yêu, giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Nhân là tâm và tâm là nhân. Người có nghĩa là người có chí khí, lòng dạ ngay thẳng, không có tư tâm, tà tâm, không lắt léo, không uốn công cuộc đời, không luồn cúi, xu nịnh, xu thời. Trọng nghĩa là đức tính của con người. Người có trí là người có đầu óc sáng suốt, trong sạch, biết xem người, biết xét việc, biết nhân tình thế thái mà liệu bề ứng xử. Người có dũng là người dũng cảm, gan góc, có gan bảo vệ lẽ phải, có gan đấu tranh với những việc làm sai trái, không sợ khó, không sợ khổ, có gan chịu đựng để mưu cầu việc lớn. Người có liêm là người không tham địa vị, tiền tài, sự quyến rũ mềm yếu, quan minh chính đại, sống cuộc đời liêm khiết, tử tế, đàng hoàng. Cần là cần cù, cần mẫn trong công việc, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương, lao động vì lợi ích chung và lợi ích riêng mình. Kiệm là tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, không tiêu xài bừa bãi, không lấy của công làm của riêng; tiết kiệm nhưng không bủn xỉn, cái gì đáng tiêu dù phải mất số tiền lớn cũng phải tiêu, cái gì không đáng tiêu dù chỉ là một đồng cũng không được tiêu. 3 Bác căn dặn cho cán bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng như sau: “Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, “Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”... Bác Hồ có nhắc nhở rằng trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và cộng đồng thì đó là “kẻ thù nội xâm” nguy hiểm khôn lường. Như Bác đã dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết, mình phải làm gương. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được ta phải: quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất cả các đồng chí phải thành công”. Mục đích xây dựng một xã hội đạo đức, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ là lý tưởng sống của Hồ Chí Minh. Người lo sợ về một xã hội vô đạo đức, lo sợ cho một đội ngũ cán bộ vô đạo đức, thoái hóa, biến chất, vì vộ đạo đức sẽ đẻ ra biết bao tai họa mà chính Người đã được chứng kiến nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức con người là một vấn đề mà Người suốt đời quan tâm. Tiếp theo trong di chúc, mối quan tâm thứ hai sau khi nói về Đảng, là giới trẻ, trong di chúc Bác căn dặn: Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Người chỉ ra rằng muốn giáo dục cộng sản cho đoàn viên thanh niên phải gắn liền việc học tập, rèn luyện của họ với cuộc đấu tranh chung của xã hội. Người nói: "Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu biết gắn từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh chung của những người lao động chống lại bọn bóc lột". Cũng với quan điểm ấy, Bác Hồ đã dạy: "Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội". Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành rất nhiều tình cảm lớn lao cho thế hệ trẻ, thế hệ mà Người khẳng định sẽ là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà. Điều đó thể hiện rất rõ qua các cuộc gặp gỡ và qua nhiều bài viết của Người dành cho thế hệ trẻ (theo Người, thế hệ trẻ bao gồm: thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là lực lượng quan trọng nhất), đồng thời chính Người tổ chức huấn luyện, lãnh đạo và rèn luyện phát triển lực lượng thanh niên cách mạng Việt Nam. 4 Ngay từ thời niên thiếu, được trực tiếp chứng kiến các phong trào yêu nước của nhân dân dân ta đầu thế kỷ XX như: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Người đã thấy rõ sự đóng góp của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển bền vững của dân tộc. Họ là lực lượng tham gia đông đảo và nhiệt tình nhất, hùng hậu nhất, dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lăng, là những con người có lý tưởng, giàu đức hy sinh, sẵn sàng xả thân và trở thành một lực lượng chủ yếu của cách mạng. Tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận ra rằng cách mạng muốn thành công, trước hết phải tập hợp lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng này giác ngộ cách mạng, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vai trò của lực lượng thanh niên được Người khẳng định là rất quan trọng. Tháng 6/1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, qui tụ tất cả những thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết vào trong một tổ chức thống nhất. Từ đây, những hoạt động của Hội chính là nhân tố quan trọng và ảnh hưởng đến việc ra đời các tổ chức cộng sản và việc thành lập Đảng sau này. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ trong cách mạng mà Người còn chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết xây dựng nước nhà. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Người gửi gắm niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Năm 1947, Ngư khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên”. Hồ Chí Minh xem xét thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị trí, vai trò của thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”, vì vậy, Người yêu cầu, đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập, xung phong gương mẫu trong công việc. Gắn yêu cầu đặt ra đối với thanh niên, hiểu rõ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên và chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho Đảng đối với công tác giáo dục thanh niên và xem đây là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan giáo dục, đến các đoàn thể quần chúng: “Đoàn viên, thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp lâu dài khó khăn và là trách nhiệm của nhiều thế hệ. Vì vậy, việc bàn giao thế hệ không chỉ là trao lại những gì đã có mà điều quan trọng và khó khăn hơn nhiều là chuẩn bị và trang bị cho thế hệ sau những điều cần thiết, định hướng cho thanh niên những công việc phải làm để họ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chính vì vậy, vấn đề quan tâm, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ chính là thực hiện theo quy luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước không ngừng phát triển. 5 Vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người căn dặn thanh niên phải: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và yêu kỷ luật”. Việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức công phu và bền bỉ, vì vậy, Người quan niệm việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện cho thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người” và Người nêu tư tưởng chiến lược: “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người”. Công tác giáo dục phải tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù hợp với sự phát triển của xã hội; đồng thời phải có đạo đức cách mạng, phải trở thành là lực lượng “vừa hồng, vừa chuyên”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”, và “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ phải “vừa hồng vừa chuyên”. “Hồng” là phẩm chất đạo đức cách mạng. Người răn dạy cán bộ phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân” thì mới xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đặt chữ “Đức” lên hàng đầu, nhưng Hồ Chí Minh vẫn luôn coi trọng cái “Tài”. Người nhìn nhận “Đức” và “Tài” trong mối quan hệ biện chứng, như hai mặt không thể tách rời trong một nhân cách hoàn thiện: “Có tài mà không có đức là người vô dụng” nhưng “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Có “Tài” mà thiếu cái “Đức”, thì “Tài” đó không có ý nghĩa. Không những thế, cái “Tài” thiếu “Đức” còn có thể gây hại cho chính bản thân và cả cộng đồng. Cái “Đức” làm người ta thanh thản. Cái “Tài” làm con người nở hoa. Thiếu “Tài” con người vẫn còn có thể sống trong an ủi. Thiếu “Đức”, cuộc đời luôn là những bi kịch. Người có “Đức” tức là người luôn ý thức được việc hoàn thiện mình. Điều ấy cũng có nghĩa, cái “Đức” trở thành động lực để hoàn thiện cái “Tài”. Vì thế, bắt đầu việc học làm người từ cái “Đức”, sẽ nhận được sự hoàn thiện. Bắt đầu chỉ từ cái “Tài”, số phận sẽ ẩn chứa những bi kịch khó lường. Đặt “Đức” ở vị trí gốc rễ luôn đúng với mọi thời đại. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi những yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường đang hằng ngày tác động vào suy nghĩ, nhận thức của từng cá nhân trong xã hội. Trong một xã hội ngày càng đòi hỏi nhiều tri thức như hiện nay, chữ “Tài” đang chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nhiều con người tài năng sẽ góp phần dựng xây đất nước Việt Nam giàu đẹp. Thế nhưng, đôi khi vì quá chú trọng cái “Tài”, có một số người đã thiếu tu dưỡng chữ “Đức”. Từ ấy đã nảy sinh ra những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ quyết tâm leo lên con đường quan chức bằng mọi giá để rồi quay lại nhũng nhiễu nhân dân, tham ô tài sản nhà nước. 6 Tham nhũng đã bị Đảng ta coi là một trong những “nguy cơ” lớn. Mà bản chất của tham nhũng chính là đạo đức xuống cấp. Do đó, đấu tranh chống tham nhũng cũng chính là việc đấu tranh chống lại tệ sùng bái cá nhân chủ nghĩa, chống lại nạn suy thoái đạo đức. Rõ ràng, các tiêu chuẩn mà Hồ Chí Minh nêu ra về đức - tài của người cán bộ cách mạng là yêu cầu cụ thể đối với mỗi người cán bộ, chứ không phải chỉ là điều mong muốn, là lời nói suông. Đức – Tài là hai nhân tố làm cho cán bộ nói riêng, con người nói chung trở lên hữu ích đối với xã hội, không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia. Tóm lại, những quan điểm của Hồ Chí Minh về “vừa Hồng vừa Chuyên”, Đức - Tài của người cán bộ cách mạng cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thực tiễn. Nó càng có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Chúng ta đang có nhiều tấm gương đảng viên, đoàn viên và cán bộ được dân tin, dân yêu, được như vậy là do các đồng chí đã tự mình rèn luyện và thực hiện tốt lẽ sống mình vì mọi người, trong đó lời nói luôn đi đôi với việc làm, lấy việc mình làm để cổ vũ người khác. Về việc riêng – Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân Đây là phần di chúc ngắn nhất trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Toàn bản di chúc là để lại cho “đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi” Ở phần này chúng ta có thể thấy rằng nếu “Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác…” thì Bác Hồ “sẽ không có điều gì phải hối hận…” tuy nhiên Người chỉ tiếc một điều đó là: “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.” Qua đây thể hiện tấm lòng hết mình tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc của Người. Bản thân Bác suốt đời là một tấm gương trong sáng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh vác việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm, ngày, nhẫn nhục, cố gắng vì mục đích đó...". Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định đều phải thật sự vì dân. Cán bộ, nhân viên phải thật sự gương mẫu; Phải nêu cao tinh thần "Cần, kiệm, liêm, chính". Ngay trong buổi đầu xây dựng Nhà nước cách mạng non trẻ, Người đã xác định mục tiêu hoạt động của Nhà nước là: "1. Làm cho dân có ăn 2. Làm cho dân có mặc 3. Làm cho dân có chỗ ở 4. Làm cho dân có học hành" 7 Người giải thích: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu, để giành độc lập... chúng ta tranh được độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập, cũng không làm gì". Người khuyên cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, phải thật sự là người đầy tớ của nhân dân. Bác đã làm gương trước, sống giản dị, thanh bạch, khiêm tốn để làm đúng điều người dạy: “Cán bộ Đảng, chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính”. Vào dịp ngày sinh của mình, Người thường tìm cách vắng nhà để tránh việc mọi người đến chúc thọ, tặng quà. Bác làm việc này để thực hiện điều Người dặn các cơ quan, các địa phương là đến ngày sinh của Người không tổ chức kỷ niệm chúc thọ để tránh lãng phí thời giờ, tiền bạc. Khi đi vào cõi trường sinh, Người dặn không tổ chức điếu phúng linh đình để tiết kiệm tiền của nhân dân... Bác căn dặn cán bộ, đảng viên sống trong sạch, không cậy quyền thế mà đục khoét, nhất là những người có chức, có quyền phải gương mẫu. Đồng bào Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng hưởng: “Hôm chủ nhật đồng bào Thái Bình có cho tôi 2 chai nước mắm làm bằng tôm. “Vật khinh tình trọng”, từ chối không được, tôi phải nhận lấy cho bằng lòng anh em. Nay tôi xin gửi biếu Cụ 1 chai (cụ Bùi Bằng Đoàn) và xin chúc Cụ mạnh khỏe”. Trong dịp Bác sang thăm Liên Xô, ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Xô Viết gửi cho Bác 4000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1000 rúp. Trước khi rời Matxcova , Bác đã gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Xô Viết 5000 rúp đó... Nói đi đôi với làm, những việc Bác làm đều là “mực thước” cho mỗi chúng ta, đó chính là lẽ sống “Thật” và “Thật sự”. Vì “Thật” đối lập với giả, với dối. “Thật sự” đối lập với qua loa, nửa vời. Đó là “Thuốc hay đắng miệng chữa được bệnh; lời thẳng trái tai lợi cho việc làm” (Khổng Tử) - là thứ vũ khí hữu hiệu để chống lại những kẻ gian giảo, xảo quyệt nói không đúng với làm, nói một đằng làm một nẻo, dùng lời nói để giấu giiếm tội lỗi, làm trắng đen lẫn lộn, chính tà bất phân, như Bác đã chỉ cho chúng ta: “Có những kẻ miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến tổ quốc, nhân dân”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Ðảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ. Ðó là một cách thiết thực để học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ðó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. 8 Chuyên đề 3 GIỚI THIỆU TÁC PHẨM DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀI NÉT VỀ TÁC PHẨM: Tháng 9 năm 1969 Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, cùng với những hình ảnh ghi lại tình cảm của toàn dân khắp bốn phương, bản Di chúc của Bác Hồ kính yêu được công bố. Theo đó, năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Bản Di chúc đầu tiên gồm 4 trang, do tự tay Người đánh máy ở cuối trang đề ngày 15-5-1965. Bản Di chúc Người viết năm 1965 là bản duy nhất hoàn chỉnh, dưới có chữ ký của Người và bên cạnh có chữ ký chứng kiến của đồng chí Lê Duẩn – Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng lúc bấy giờ. Năm 1968 Người viết bổ sung thêm một số đoạn gồm 6 trang viết tay. Ngày 10-5-1969 Người viết lại toàn bộ phần mở đầu Di chúc gồm một trang viết tay (những năm 1966, 1967 không có bản viết riêng). Bản Di chúc công bố năm 1969 chủ yếu dựa vào bản Người viết năm 1965 (trong đó đoạn mở đầu là bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là phần đầu bản viết năm 1968). Đến năm 1989, Bộ Chính trị cho phép công bố các Bản thảo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Căn cứ theo tài liệu công bố của Bộ Chính trị (trong tác phẩm Hồ Chí Minh toàn tập – Tập 12) các Bản thảo Di chúc được sắp xếp theo thứ tự thời gian Người viết, các bản bút tích được in trước, sau đó các bản đánh máy và bản in được in tiếp sau đó. Cuối cùng là bản Di chúc công bố chính thức năm 1969 HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM: Đến năm 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tự cảm nhận được sức khỏe của Người giảm sút so với những năm trước đó. Người cho rằng, ở tuổi 75 Người thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Tuy cảm thấy “tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng Người dự báo “Ai dám biết tôi sẽ sống và phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng được mấy năm tháng nữa”. Rõ ràng Hồ Chí Minh đã dự cảm được thời khắc quan trọng của thời gian còn lại ở cuối cuộc đời mình. Từ dự cảm đó, Người viết: “Vì vậy, tôi để lại mấy lời này, chỉ nói tóm tắt vài việc thôi. Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước và đồng chí trong Đảng khỏi cảm thấy đột ngột”. Vì vậy, Người đã chủ động viết Di chúc, để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, toàn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và với cách mạng thế giới. NỘI DUNG CHÍNH: Phần đầu: Về sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Người khẳng định giải phóng miền Nam và qua đó, giải phóng hoàn toàn và thống nhất đất nước như một tất yếu, dù phải kéo dài, đặc biệt ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Người đã nói: "Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay". Sự thật đã diễn ra như Người đoán. Bác mất năm 1969, sáu năm sau, dân tộc Việt Nam giành đại thắng tháng 4/1975. 9 Phần thứ hai: Nói về Đảng, về Đoàn viên và thanh niên. Về Nhân dân lao động, cuộc kháng chiến chống Mỹ, về phong trào cộng sản thế giới, cuối cùng là về việc riêng. Trước hết nói về Đảng: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Như chúng ta đã biết, từ những ngày đầu mới thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam trong mỗi thời kỳ cụ thể của Cách mạng. Bác Hồ chính là nhà chiến lược và sách lược tài tình, nhà tổ chức lực lượng thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người có công rèn luyện, giáo dục bao lớp cán bộ ưu tú của Đảng, Người đã đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong những điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ một Đảng Cộng sản cầm quyền, sau Lênin, đã nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền cùng những lo lắng, răn đe. Không phải chỉ trong Di chúc, mà hầu hết những tác phẩm của Hồ Chí Minh từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản bắt đầu cầm quyền sau Cách mạng tháng Tám, ngay sự cầm quyền ấy chưa hoàn toàn trong phạm vi cả nước, vừa xây dựng chính quyền vừa kháng chiến, Người đã luôn luôn nhắc đến việc chính quyền do Đảng Cộng sản phải là chính quyền vì dân, do dân, gắn bó với dân, trung thành với dân, người đầy tớ trung thành của dân. Bức thư đầu tiên Người gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, khi kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu vài tháng và khi mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa ai cảnh giác con đường hiểm nguy của Đảng Cộng sản cầm quyền mà thoát ly nguyên lý cộng sản cơ bản - tức phục vụ dân, lấy dân làm gốc - thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo động với ý thức và lời lẽ vừa thiết tha vừa nghiêm khắc, lấy sự việc ngay trong đời sống hằng ngày. Cho nên, bài học lớn nhất mà chúng ta rút ra từ Di chúc của Người chính là phần cốt lõi này. Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, đoàn kết, gắn bó với nhân dân, đại diện cho quyền lợi của giai cấp và của dân tộc, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, ủng hộ, giúp đỡ. Điều này làm chúng ta càng thấm thía lời cǎn dặn của Bác trước lúc đi xa: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho 10 nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân hǎng hái đấu tranh từ thắng lợi này đến thắng lợi khác" và "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau..." Muốn có được sự đoàn kết nhất trí đó, như Bác đã nói là ngay trong Đảng cần phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình. Là một người theo chủ nghĩa cộng sản, là người phương Đông đồng thời cũng là người con của đất Việt, lịch sử hàng ngàn năm đã đặt cho trí tuệ của Người sự suy nghĩ có chiều sâu, bao quát bởi bao nhiêu triều đại ngả nghiêng khi không hiểu lời của Nguyễn Trãi: Dân nâng thuyền và dân có thể lật thuyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần lời dạy của người xưa: Tu thân, tề gia, trị quốc. Đảng Cộng sản cầm quyền mà không coi trọng tu thân thì khó tề gia, càng khó trị quốc. Đảng lãnh đạo gồm năng lực tiên phong và đạo đức tiên phong. Bài học này đâu cũng có, lúc nào cũng có. Đảng không gương mẫu, nặng tư lợi, nặng chức quyền thì Đảng chỉ còn là một hàng hội. Đảng viên háo danh, tự ca ngợi mình mà tham lam, lợi dụng chức quyền, dung túng cho vợ con thân thuộc phạm các tội lừa đảo, ăn hối lộ, buôn lậu... tức vi phạm pháp luật và đạo đức xã hội thì còn tệ hơn một tội phạm thường dân. Tiên phong là làm gương, lãnh đạo là dẫn đường - không làm gương thì chẳng thể dẫn đường đúng. Chúng ta luôn ghi nhớ rằng, tư cách, phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Theo Bác Hồ: Người có nhân là người có tấm lòng nhân hậu, tình thương yêu, giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Nhân là tâm và tâm là nhân. Người có nghĩa là người có chí khí, lòng dạ ngay thẳng, không có tư tâm, tà tâm, không lắt léo, không uốn công cuộc đời, không luồn cúi, xu nịnh, xu thời. Trọng nghĩa là đức tính của con người. Người có trí là người có đầu óc sáng suốt, trong sạch, biết xem người, biết xét việc, biết nhân tình thế thái mà liệu bề ứng xử. Người có dũng là người dũng cảm, gan góc, có gan bảo vệ lẽ phải, có gan đấu tranh với những việc làm sai trái, không sợ khó, không sợ khổ, có gan chịu đựng để mưu cầu việc lớn. Người có liêm là người không tham địa vị, tiền tài, sự quyến rũ mềm yếu, quan minh chính đại, sống cuộc đời liêm khiết, tử tế, đàng hoàng. Cần là cần cù, cần mẫn trong công việc, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương, lao động vì lợi ích chung và lợi ích riêng mình. Kiệm là tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, không tiêu xài bừa bãi, không lấy của công làm của riêng; tiết kiệm nhưng không bủn xỉn, cái gì đáng tiêu dù phải mất số tiền lớn cũng phải tiêu, cái gì không đáng tiêu dù chỉ là một đồng cũng không được tiêu. 11 Bác căn dặn cho cán bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng như sau: “Trước mặt quần chúng không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”, “Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được”... Bác Hồ có nhắc nhở rằng trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và cộng đồng thì đó là “kẻ thù nội xâm” nguy hiểm khôn lường. Như Bác đã dạy: “Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết, mình phải làm gương. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được ta phải: quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất cả các đồng chí phải thành công”. Mục đích xây dựng một xã hội đạo đức, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ là lý tưởng sống của Hồ Chí Minh. Người lo sợ về một xã hội vô đạo đức, lo sợ cho một đội ngũ cán bộ vô đạo đức, thoái hóa, biến chất, vì vộ đạo đức sẽ đẻ ra biết bao tai họa mà chính Người đã được chứng kiến nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức con người là một vấn đề mà Người suốt đời quan tâm. Tiếp theo trong di chúc, mối quan tâm thứ hai sau khi nói về Đảng, là giới trẻ, trong di chúc Bác căn dặn: Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết. Người chỉ ra rằng muốn giáo dục cộng sản cho đoàn viên thanh niên phải gắn liền việc học tập, rèn luyện của họ với cuộc đấu tranh chung của xã hội. Người nói: "Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu biết gắn từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh chung của những người lao động chống lại bọn bóc lột". Cũng với quan điểm ấy, Bác Hồ đã dạy: "Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội". Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành rất nhiều tình cảm lớn lao cho thế hệ trẻ, thế hệ mà Người khẳng định sẽ là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà. Điều đó thể hiện rất rõ qua các cuộc gặp gỡ và qua nhiều bài viết của Người dành cho thế hệ trẻ (theo Người, thế hệ trẻ bao gồm: thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là lực lượng quan trọng nhất), đồng thời chính Người tổ chức huấn luyện, lãnh đạo và rèn luyện phát triển lực lượng thanh niên cách mạng Việt Nam. 12 Ngay từ thời niên thiếu, được trực tiếp chứng kiến các phong trào yêu nước của nhân dân dân ta đầu thế kỷ XX như: phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân, phong trào chống thuế ở Trung Kỳ… Người đã thấy rõ sự đóng góp của tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển bền vững của dân tộc. Họ là lực lượng tham gia đông đảo và nhiệt tình nhất, hùng hậu nhất, dũng cảm nhất trong các cuộc chống xâm lăng, là những con người có lý tưởng, giàu đức hy sinh, sẵn sàng xả thân và trở thành một lực lượng chủ yếu của cách mạng. Tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người nhận ra rằng cách mạng muốn thành công, trước hết phải tập hợp lực lượng cách mạng, làm cho lực lượng này giác ngộ cách mạng, giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó vai trò của lực lượng thanh niên được Người khẳng định là rất quan trọng. Tháng 6/1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, qui tụ tất cả những thanh niên Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết vào trong một tổ chức thống nhất. Từ đây, những hoạt động của Hội chính là nhân tố quan trọng và ảnh hưởng đến việc ra đời các tổ chức cộng sản và việc thành lập Đảng sau này. Chủ tịch Hồ Chí Minh không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ trong cách mạng mà Người còn chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết xây dựng nước nhà. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Người gửi gắm niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Năm 1947, Ngư khẳng định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên”. Hồ Chí Minh xem xét thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị trí, vai trò của thanh niên: “Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”, vì vậy, Người yêu cầu, đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập, xung phong gương mẫu trong công việc. Gắn yêu cầu đặt ra đối với thanh niên, hiểu rõ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên và chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho Đảng đối với công tác giáo dục thanh niên và xem đây là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan giáo dục, đến các đoàn thể quần chúng: “Đoàn viên, thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Theo Người, cách mạng là sự nghiệp lâu dài khó khăn và là trách nhiệm của nhiều thế hệ. Vì vậy, việc bàn giao thế hệ không chỉ là trao lại những gì đã có mà điều quan trọng và khó khăn hơn nhiều là chuẩn bị và trang bị cho thế hệ sau những điều cần thiết, định hướng cho thanh niên những công việc phải làm để họ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Chính vì vậy, vấn đề quan tâm, giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ chính là thực hiện theo quy luật khách quan nhằm đưa sự nghiệp cách mạng của đất nước không ngừng phát triển. 13 Vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người căn dặn thanh niên phải: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và yêu kỷ luật”. Việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức công phu và bền bỉ, vì vậy, Người quan niệm việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện cho thế hệ trẻ là sự nghiệp “trồng người” và Người nêu tư tưởng chiến lược: “Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người”. Công tác giáo dục phải tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù hợp với sự phát triển của xã hội; đồng thời phải có đạo đức cách mạng, phải trở thành là lực lượng “vừa hồng, vừa chuyên”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”, và “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ phải “vừa hồng vừa chuyên”. “Hồng” là phẩm chất đạo đức cách mạng. Người răn dạy cán bộ phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân” thì mới xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đặt chữ “Đức” lên hàng đầu, nhưng Hồ Chí Minh vẫn luôn coi trọng cái “Tài”. Người nhìn nhận “Đức” và “Tài” trong mối quan hệ biện chứng, như hai mặt không thể tách rời trong một nhân cách hoàn thiện: “Có tài mà không có đức là người vô dụng” nhưng “có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Có “Tài” mà thiếu cái “Đức”, thì “Tài” đó không có ý nghĩa. Không những thế, cái “Tài” thiếu “Đức” còn có thể gây hại cho chính bản thân và cả cộng đồng. Cái “Đức” làm người ta thanh thản. Cái “Tài” làm con người nở hoa. Thiếu “Tài” con người vẫn còn có thể sống trong an ủi. Thiếu “Đức”, cuộc đời luôn là những bi kịch. Người có “Đức” tức là người luôn ý thức được việc hoàn thiện mình. Điều ấy cũng có nghĩa, cái “Đức” trở thành động lực để hoàn thiện cái “Tài”. Vì thế, bắt đầu việc học làm người từ cái “Đức”, sẽ nhận được sự hoàn thiện. Bắt đầu chỉ từ cái “Tài”, số phận sẽ ẩn chứa những bi kịch khó lường. Đặt “Đức” ở vị trí gốc rễ luôn đúng với mọi thời đại. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi những yếu tố tiêu cực của nền kinh tế thị trường đang hằng ngày tác động vào suy nghĩ, nhận thức của từng cá nhân trong xã hội. Trong một xã hội ngày càng đòi hỏi nhiều tri thức như hiện nay, chữ “Tài” đang chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nhiều con người tài năng sẽ góp phần dựng xây đất nước Việt Nam giàu đẹp. Thế nhưng, đôi khi vì quá chú trọng cái “Tài”, có một số người đã thiếu tu dưỡng chữ “Đức”. Từ ấy đã nảy sinh ra những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ quyết tâm leo lên con đường quan chức bằng mọi giá để rồi quay lại nhũng nhiễu nhân dân, tham ô tài sản nhà nước. 14 Tham nhũng đã bị Đảng ta coi là một trong những “nguy cơ” lớn. Mà bản chất của tham nhũng chính là đạo đức xuống cấp. Do đó, đấu tranh chống tham nhũng cũng chính là việc đấu tranh chống lại tệ sùng bái cá nhân chủ nghĩa, chống lại nạn suy thoái đạo đức. Rõ ràng, các tiêu chuẩn mà Hồ Chí Minh nêu ra về đức - tài của người cán bộ cách mạng là yêu cầu cụ thể đối với mỗi người cán bộ, chứ không phải chỉ là điều mong muốn, là lời nói suông. Đức – Tài là hai nhân tố làm cho cán bộ nói riêng, con người nói chung trở lên hữu ích đối với xã hội, không thể tách rời cũng không thể tuyệt đối hoá mặt này mà phủ nhận hay xem nhẹ mặt kia. Tóm lại, những quan điểm của Hồ Chí Minh về “vừa Hồng vừa Chuyên”, Đức - Tài của người cán bộ cách mạng cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị và sức sống trong thực tiễn. Nó càng có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Chúng ta đang có nhiều tấm gương đảng viên, đoàn viên và cán bộ được dân tin, dân yêu, được như vậy là do các đồng chí đã tự mình rèn luyện và thực hiện tốt lẽ sống mình vì mọi người, trong đó lời nói luôn đi đôi với việc làm, lấy việc mình làm để cổ vũ người khác. Về việc riêng – Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân Đây là phần di chúc ngắn nhất trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Toàn bản di chúc là để lại cho “đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi” Ở phần này chúng ta có thể thấy rằng nếu “Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác…” thì Bác Hồ “sẽ không có điều gì phải hối hận…” tuy nhiên Người chỉ tiếc một điều đó là: “chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.” Qua đây thể hiện tấm lòng hết mình tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc của Người. Bản thân Bác suốt đời là một tấm gương trong sáng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi gánh vác việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm, ngày, nhẫn nhục, cố gắng vì mục đích đó...". Hồ Chí Minh yêu cầu mọi chủ trương, chính sách, mọi quy định đều phải thật sự vì dân. Cán bộ, nhân viên phải thật sự gương mẫu; Phải nêu cao tinh thần "Cần, kiệm, liêm, chính". Ngay trong buổi đầu xây dựng Nhà nước cách mạng non trẻ, Người đã xác định mục tiêu hoạt động của Nhà nước là: "1. Làm cho dân có ăn 2. Làm cho dân có mặc 3. Làm cho dân có chỗ ở 4. Làm cho dân có học hành" 15 Người giải thích: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu, để giành độc lập... chúng ta tranh được độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập, cũng không làm gì". Người khuyên cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, phải thật sự là người đầy tớ của nhân dân. Bác đã làm gương trước, sống giản dị, thanh bạch, khiêm tốn để làm đúng điều người dạy: “Cán bộ Đảng, chính quyền, ngay cả Bác là cán bộ cao nhất đều là đầy tớ của nhân dân, phải hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, phải cần, kiệm, liêm, chính”. Vào dịp ngày sinh của mình, Người thường tìm cách vắng nhà để tránh việc mọi người đến chúc thọ, tặng quà. Bác làm việc này để thực hiện điều Người dặn các cơ quan, các địa phương là đến ngày sinh của Người không tổ chức kỷ niệm chúc thọ để tránh lãng phí thời giờ, tiền bạc. Khi đi vào cõi trường sinh, Người dặn không tổ chức điếu phúng linh đình để tiết kiệm tiền của nhân dân... Bác căn dặn cán bộ, đảng viên sống trong sạch, không cậy quyền thế mà đục khoét, nhất là những người có chức, có quyền phải gương mẫu. Đồng bào Thái Bình gửi biếu Bác 2 chai nước mắm, Bác san sẻ quà đó với người khác cùng hưởng: “Hôm chủ nhật đồng bào Thái Bình có cho tôi 2 chai nước mắm làm bằng tôm. “Vật khinh tình trọng”, từ chối không được, tôi phải nhận lấy cho bằng lòng anh em. Nay tôi xin gửi biếu Cụ 1 chai (cụ Bùi Bằng Đoàn) và xin chúc Cụ mạnh khỏe”. Trong dịp Bác sang thăm Liên Xô, ủy ban Trung ương Đảng cộng sản Xô Viết gửi cho Bác 4000 rúp, đồng chí thư ký của Bác 1000 rúp. Trước khi rời Matxcova , Bác đã gửi lại Ủy ban Trung ương Đảng Xô Viết 5000 rúp đó... Nói đi đôi với làm, những việc Bác làm đều là “mực thước” cho mỗi chúng ta, đó chính là lẽ sống “Thật” và “Thật sự”. Vì “Thật” đối lập với giả, với dối. “Thật sự” đối lập với qua loa, nửa vời. Đó là “Thuốc hay đắng miệng chữa được bệnh; lời thẳng trái tai lợi cho việc làm” (Khổng Tử) - là thứ vũ khí hữu hiệu để chống lại những kẻ gian giảo, xảo quyệt nói không đúng với làm, nói một đằng làm một nẻo, dùng lời nói để giấu giiếm tội lỗi, làm trắng đen lẫn lộn, chính tà bất phân, như Bác đã chỉ cho chúng ta: “Có những kẻ miệng thì nói phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, nhưng bị vật chất dỗ dành mà phạm vào tham ô, lãng phí, hại đến tổ quốc, nhân dân”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Ðảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ. Ðó là một cách thiết thực để học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Ðó cũng là một việc làm cần thiết để giúp tất cả cán bộ, đảng viên đều tiến bộ, góp sức nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ mới. 16 Đề cương tuyên truyền 40 năm thực hiện Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh ( 2/9/1969 – 2/9/2009) I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ, Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA DI CHÚC. 1. Hoàn cảnh lịch sử: Tháng 5/1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu khởi thảo viết Di chúc. Lúc bấy giờ, đất nước ta đang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đầy cam go, khốc liệt và sức khoẻ của Người đã yếu. Năm 1968, Bác viết thêm 6 trang. Tháng 5/1969, Bác viết lại đoạn mở đầu Di chúc. Di chúc được công bố một phần trong lễ tang Bác. Thông báo số 151-TB/TW ngày 19/8/1989 của Bộ Chính trị về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định bản Di chúc công bố tháng 9/1969 là “bảo đảm trung thành với bản gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Một số vấn đề như những việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi, miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, cho bà con nông dân cũng như đề nghị của Người về hoả táng thi hài chưa được công bố. Thông báo của Trung ương đã giải thích rõ lý do việc này. Vào dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản Di chúc của Người viết. 2. Ý nghĩa: Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, những quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, vạch ra phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai. 3. Những giá trị cơ bản của Di chúc: a. Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng. Di chúc thể hiện sự tự nhận thức sâu sắc về bản thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đón nhận quy luật cuộc sống bằng phong thái ung dung, tự tại, chuẩn bị việc ra đi của mình bằng những lời tâm huyết dặn lại. Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ quốc, phụng vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước, ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di chúc là tâm sự của một người đã hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với “các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”. b. Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền. - Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân, không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó là: giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cầm quyền. - Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên”, có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, đó là công việc: bồi dưỡng lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. - Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về 17 phong trào cộng sản thế giới” là định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. c. Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam. - Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. - Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ dẫn về đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; phát triển kinh tế và văn hoá, nâng cao đời sống nhân dân. - Di chúc có giá trị văn hoá rất lớn. Đó là tinh thần nhân văn sâu sắc thể hiện trong ứng xử với nhân dân, đồng chí, bè bạn. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí. II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM QUA 40 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC: 1. Hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chuẩn bị điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975 là điểm mốc quan trọng, là bước ngoặt lịch sử đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mỹ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta, hoàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành tựu của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện điều mong mỏi trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 2. Từng bước thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện Di chúc của Bác, Đảng đã tập trung sức lực và trí tuệ lãnh đạo nhân dân ta tiến hành sự nghiệp cách mạng đưa cả nước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Mặc dù tình hình quốc tế có nhiều biến động phức tạp, vừa phải thường xuyên đối phó với những âm mưu chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, vừa phải xây dựng cuộc sống mới từ một nền kinh tế lạc hậu, bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên trì phấn đấu và đã thu được những kết quả đáng khích lệ: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh; xây dựng một số cơ sở vật chất; phát triển được một số ngành kinh tế quan trọng; thiết lập và củng cố chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước; phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế; tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới. Tuy vậy, trong xây dựng kinh tế, chúng ta cũng đã từng phạm những sai lầm, khuyết điểm trong chủ trương, chính sách cũng như trong quá trình chỉ đạo thực tiễn. Nhưng Đảng sớm nhận thức tình hình đất nước, bối cảnh quốc tế, trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, kiên định mục tiêu, con đường Bác đã chọn, thẳng thắn phân tích những nguyên nhân của sự vấp váp, sai lầm, tin tưởng vững chắc vào sức mạnh của nhân dân và dân tộc, Đảng ta đã khởi xướng đường lối Đổi mới và quyết tâm tiến hành sự nghiệp “Đổi mới” vì hạnh phúc của nhân dân. Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử: về kinh tế, đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện; thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành; cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, giữa tiến bộ và công bằng xã hội; công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt; sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hoá về loại 18 hình trường lớp; khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ có bước phát triển nhất định; công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ; những giá trị văn hoá đặc sắc của các dân tộc được kế thừa và phát triển, giao lưu hợp tác văn hoá với nước ngoài được mở rộng, các tài năng văn hoá - nghệ thuật được khuyến khích; chính sách phát triển nguồn nhân lực được chú trọng; quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ, vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao... 3. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định sự lãnh đạo của Đảng - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam; thực hiện công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà chiến lược và sách lược tài tình, nhà tổ chức thiên tài, nhà cổ động chính trị vĩ đại, người có công rèn luyện, giáo dục bao lớp cán bộ ưu tú của Đảng. Người đã đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ VII của Đảng, Đảng ta đã khẳng định cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Người, trong tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới rất nặng nề, các thế lực tấn công toàn diện vào Đảng, vào chế độ, Đảng ta vẫn vững vàng, thể hiện rõ bản chất cách mạng và khoa học, kiên định về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới đạt nhiều thành tựu to lớn, quan trọng, đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Công tác xây dựng Đảng đã được đặt ra trong nhiều nghị quyết của Đảng. Tiếp theo Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Đảng ta đã phát động Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Cuộc vận động đã góp phần tạo nên sự chuyển biến trong thực hiện nhiệm vụ chính trị và ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến cơ sở; góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; các cấp uỷ đã quan tâm nhiều hơn đến việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm; tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo tấm gương của Bác Hồ đã có chuyển biến rõ nét; tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm với công việc được giao của cán bộ được nâng lên. Công tác xây dựng Nhà nước đã quán triệt nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thực hành dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân dân; tham khảo và vận dụng có chọn lọc lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân loại vào điều kiện cụ thể Việt Nam, đảm bảo phù hợp với dân tộc, thời đại và hoàn cảnh thực tiễn của đất nước. Kết quả của công tác xây dựng Đảng nói riêng, xây dựng hệ thống chính trị nói chung là nhân tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam và của sự nghiệp đổi mới đất nước hơn 20 năm qua. 4. Phát huy tình cảm quốc tế trong sáng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước trong hội nhập quốc tế. Đảng ta do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi ra đời đã gương cao ngọn cờ của chủ nghĩa quốc tế vô sản, đề ra nhiệm vụ đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới, với các dân tộc bị áp bức, coi đó là một nguyên tắc, một trong những nhân tố quyết định thành công của cách mạng nước ta. Bằng những việc làm vô tư trong sáng trong việc giúp đỡ bạn bè, cùng với việc không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác, hữu nghị với tất cả các nước, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, vai trò, uy tín của nước ta ngày càng được nâng cao trong cộng đồng quốc tế. Từ sau khi phá bỏ chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và các lực lượng thù địch nước ngoài, Việt Nam đã tham gia hợp tác ngày càng sâu, toàn diện vào nền kinh tế thế giới. Trong các lĩnh vực kinh tế then chốt, như: thương mại, dịch vụ, lao động, đầu tư, khoa học và công nghệ, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đã không ngừng mở rộng các quan hệ kinh tế song phương, tiểu vùng, vùng, liên vùng và toàn cầu. Đến năm 2005, nước ta đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó nổi bật là Hiệp định Thương mại với Mỹ, tạo điều kiện mở rộng giao lưu hàng hoá với nước ngoài, gia nhập AFTA, APEC, WTO, thiết lập được quan hệ 19 tài chính với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, như: WB, IMF, ADB. Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; trở thành Uỷ viên không thường trực Hội đồng bảo an LHQ; tham gia giải quyết những vấn đề của khu vực và thế giới; xác định quan hệ ổn định với các nước láng giềng, nước lớn; giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan, góp phần giữ vững môi trường hoà bình khu vực. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng