ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ
( Dành cho các lớp không chuyên ngành TT HCM )
Lưu hành nội bộ
GVC : Nguyễn Đức Hùng
Chương I
KHÁI NIỆM VÀ NGUỒN GỐC
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ
I/- Khái niệm quan hệ quốc tế và tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế
1/- Khái niệm quan hệ quốc tế :
a/- Từ điển Tiếng Việt ( Nxb Khoa học xã hội- Hà Nội) cung cấp cho
chúng ta một số khái niệm sau đây, giúp chúng ta cơ sở để hiểu rõ khái
niệm quan hệ quốc tế:
- Quốc tế : Thuộc về mối quan hệ giữa các nước.
- Quan hệ : Sự gắn liền về mặt nào đó giữa những người hay những vật
với nhau hoặc giữa người và vật khiến cho mỗi chuyển biến ở mỗi bên
gây ra thay đổi ở bên kia.
- Đối ngoại : Là giao thiệp và xử lý với nước ngoài. Ví dụ : Chính sách
đối ngoại.
- Ngoại giao : Là giao thiệp với nước ngoài và giải quyết các vấn đề
quốc tế.
Như vậy có thể hiểu : Quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các nước trên
thế giới, được thể hiện ở chính sách đối ngoại và ngoại giao của các
nước.
b/- Từ điển Tiếng Việt ( Nxb Đà Nẵng ) nêu khái niệm Quan hệ quốc tế
như sau :
Các nước trên thế giới quan hệ với nhau; Thuộc về quan hệ giữa các
nước trên thế giới..
c/- Giáo trình Quan hệ quốc tế của Phân viện Hà nội viết :
1
“ Trong điều kiện xã hội có giai cấp, quan hệ quốc tế luôn xuất phát
từ lợi ích dân tộc và lợi ích của các giai cấp khác nhau. Mục đích của
quan hệ quốc tế nhằm đem lại lợi ích trước hết cho quốc gia dân tộc
mình, nhằm phát triển sự tiến bộ xã hội, nhưng đồng thời phải giải quyết
đúng đắn mối quan hệ với lợi ích của các dân tộc khác và lợi ích nhân
loại. Đây là quan điểm về quan hệ quốc tế theo quan điểm của chủ nghĩa
quốc tế vô sản chân chính”.
2/- Khái niệm Tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế :
a/- Về khái niệm tư tưởng ngoại giao HCM :
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp định nghĩa tư tưởng HCM về ngoại
giao :
“Là hệ thống quan điểm về đường lối chiến lược và sách lược ( bao
gồm mục tiêu, đối tượng, lực lượng, tổ chức và phương pháp ) đối với
các vấn đề quốc tế các chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao của
Đảng và Nhà nước ta, là bộ phận hữu cơ của tư tưởng HCM về đường lối
cách mạng Việt Nam”. ( Võ Nguyên Giáp : Tư tưởng ngoại giao HCM,
tr.130, 131 ).
- Nguyên bộ trưởng Nguyễn Dy Niên khẳng định tư tưởng ngoại giao
HCM là : “ Một bộ phận hữu cơ trong tư tưởng HCM về đường lối cách
mạng Việt Nam, là hệ thống các quan điểm lý luận về các vấn đề quốc tế,
đường lối và chính sách đối ngoại Việt Nam” ( X. Nguyễn Dy Niên :
Quán triệt tư tưởng HCM thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng trong
giai đoạn mới. NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.7 ).
b/- Khái niệm tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế .
Từ khái niệm tư tưởng HCM nói chung và các khái niệm về quan
hệ quốc tế về tư tưởng đối ngoại và ngoại giao HCM, chúng ta có thể
hiểu tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế như sau :
Tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế là một hệ thống quan điểm lý
luận của HCM về quan hệ quốc tế, về quan hệ của Việt Nam với các
nước trong thời đại mới. Đó là kết tinh của chủ nghĩa yêu nước, truyền
thống đối ngoại và ngoại giao Việt Nam, tinh hoa văn hoá phương Đông,
phương Tây và những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về quan hệ quốc tế
ở thế kỷ XX, dưới ánh sáng của thế giới quan và phương pháp luận Mác2
xít, nhằm xây đắp một thế giới hoà bình, hữu nghị , hợp tác, bình đẳng
và phát triển giữa các quốc gia dân tộc, giữa Việt Nam với các dân tộc
trên thế giới .
II/- Nguồn gốc hình thành Tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế
Tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế được hình thành chủ yếu từ ba cơ
sở sau đây :
1/ Cơ sở lịch sử xã hội :
Tư tưởng HCM trên thực tế được hình thành vào cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX và được bổ sung, phát triển đến giữa thế kỷ XX.
Đó cũng là thời gian hình thành và phát triển tư tưởng HCM về quan hệ
quốc tế. Trong thời gian đó, tình hình thế giới và trong nước có nhiều
biến chuyển tác động sâu sắc đến sự hình thành tư tưởng HCM về quan
hệ quốc tế :
a/ - Tình hình thế giới :
Từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới đã có
những chuyển biến quan trọng. Điều đó được thể hiện ở những sự kiện
lớn, nổi bật sau đây :
+ Sự ra đời của chủ nghĩa đế quốc và hệ thống thuộc địa
Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển dần sang chủ nghĩa đế
quốc. Hàng loạt nước tư bản phương Tây đua nhau xâm lược và thống trị
các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh, biến các nước
này thành thuộc địa và nửa thuộc địa, thành thị trường khai thác sức
người sức của và tiêu thụ hàng hoá thừa ế của họ.
Điều đó, dẫn tới sự ra đời hệ thống thuộc địa gắn liền với sự tồn tại của
chủ nghĩa đế quốc và mâu thuẫn gay gắt với chủ nghĩa đế quốc, tạo ra cơ
sở khách quan gắn kết ngày càng sâu sắc giữa các quốc gia dân tộc trong
bối cảnh thế giới mới mà trước đó chưa từng có.
Sự kiện này đã làm cho vấn đề dân tộc, quyền độc lập dân tộc, quyền
bình đẳng dân tộc trên thế giới nảy sinh và phát triển, tạo nên nhiều mâu
thuẫn như mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản, mâu thuẫn
giữa các đế quốc với các thuộc địa, mâu thuẫn giữa đế quốc với đế
quốc .... Các mâu thuẫn này phát triển ngày càng sâu sắc, gay gắt làm
bùng nổ nhiều sự kiện quan trọng làm biến đổi mạnh mẽ tình hình thế
3
giới như : Chiến tranh thế giới thứ nhất ( 1914-1918 ), Cách mạng Tháng
Mười Nga thắng lợi ( 7-11-1917 ), sự ra đời của Quốc tế thứ ba của
phong trào công nhân v.v…
+ Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Cuộc chiến tranh này đã khoét sâu thêm những mâu thuẫn trong chủ
nghĩa tư bản nhất là mâu thuẫn giữa tư bản với vô sản, giữa đế quốc với
thuộc địa, phơi bày những tội ác của chủ nghĩa tư bản trước loài người.
Vì những lợi ích của bọn tư bản, chúng đã kéo loài người vào cuộc chiến
tranh tàn khốc, huỷ hoại không biết bao nhiêu tiền của và sinh mạng con
người ! Những chiêu bài dân chủ, nhân quyền … bọn tư bản thường rêu
rao trở thành vô nghĩa ! Thực tế đó đặt ra cho loài người tìm đến con
đường mới, chế độ xã hội mới, xây đắp những quan hệ mới khác chủ
nghĩa tư bản.
+ Cách mạng Tháng Mười Nga thành công mở ra thời đại mới.
Từ trong cuộc chiến tranh thứ nhất, V. I. Lê nin đã lãnh đạo giai cấp
vô sản Nga đứng lên làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa tư bản Nga và
bọn Nga Hoàng, lập nên Nhà nước Xô Viết– Nhà nước công nông đầu
tiên trên thế giới xây dựng chế độ xã hội mới – chế độ xã hội chủ nghĩa,
mở ra thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. HCM nói về ý nghĩa của cách mạng
Tháng Mười Nga như sau : “ Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng
Tháng Mười chiếu sáng năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người
bị áp bức, bóc lột trên trái đất, Trong lịch sử loài người chưa từng có
cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn như thế ( HCM, tt, t.12,tr.300 ).
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, với sự ra đời của
nước Nga Xô Viết dần dần trở thành trung tâm của cách mạng thế giới,
gắn kết ngày càng sâu sắc các quốc gia dân tộc trên thế giới trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, tạo nên mối quan
hệ quốc tế ngày càng sâu sắc giữa các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì
hoà bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Quốc tế thứ III ra đời ( tháng 3-1919).
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội
từ lý thuyết đã trở thành hiện thực, tạo cơ sở niềm tin sâu sắc vào con
đường XHCN của loài người. Thắng lợi đó cũng làm cho uy tín của Lê
4
nin ngày càng nâng cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Lê nin đã thành lập Quốc tế thứ III thay thế Quốc tế thứ II đã trở nên lỗi
thời. Quốc tế thứ III ra đời với đường lối đúng đắn do Lê nin vạch ra đã
gắn kết cách mạng vô sản với cách mạng giải phóng dân tộc trong cuộc
đấu tranh chung chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, tạo nên khí
thế mới, diện mạo mới trong đấu tranh cách mạng trên thế giới, thúc đẩy
sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào đấu tranh cách mạng chống
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản nô dịch các dân tộc, gắn kết ngày
càng sâu sắc mối quan hệ giữa các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì hoà
bình, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, HCM đã sống chủ yếu ở
phương Tây, các sự kiện quan trọng của tình hình thế giới trên đây gần
như đã tác động trực tiếp tới nhận thức của HCM, tạo cơ sở góp phần
hình thành tư tưởng HCM nói chung và tư tưởng HCM về quan hệ quốc
tế nói riêng.
Trong tác phẩm Tư tưởng ngoại giao HCM, đồng chí Nguyễn Dy
Niên nhận xét : “ Trong quá trình quan sát, phân tích các diễn biến của
chính trị quốc tế và ngoại giao thế giới trong khoảng giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới nửa đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tích luỹ được
nhiều kinh nghiệm ngoại giao quý báu” ( X. Tư tưởng ngoại giao HCM,
Nxb, Chính trị quốc gia, tr.70 )
b/- Tình hình xã hội Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX
Đây là thời gian, nước Việt Nam chịu sự tác động mạnh mẽ của tình
hình thế giới. Do đó, ở Việt Nam cũng đã diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc.
Điều đó thể hiện ở các sự kiện, hiện tượng sau đây :
+ Nước Việt Nam bị đế quốc Pháp xâm lược và thống trị.
Cuối thế kỷ XIX, nhiều nước tư bản ở châu Âu đã đua nhau tìm
đường xâm lược và thống trị các nước nhược tiểu. Năm 1858, bọn tư bản
Pháp đã tiến hành vũ trang xâm lược Việt Nam. Vua quan nhà Nguyễn số
đông bạc nhược, từng bước đầu hàng giặc, dâng nước ta cho giặc, câu
kết với giặc cùng thống trị nhân dân ta.
Vào năm 1896, đế quốc Pháp đã căn bản dẹp yên các cuộc nổi dậy
của nhân dân ta, chúng đã áp đặt chính sách thống trị thực dân vơ vét bóc
lột thuộc địa vô cùng tàn bạo đối với nhân dân ta ( Kế hoạch khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp ở Đông Dương được thực hiện bắt đầu vào
5
năm 1897). Dưới ách thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp,
đất nước Việt Nam, xã hội Việt Nam biến đổi vô cùng sâu sắc.
+ Sự biến đổi của đất nước Việt Nam, xã hội Việt Nam dưới ách
thống trị của thực dân Pháp:
- Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, nước Việt Nam từ một quốc gia
phong kiến độc lập bị biến thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Về chính trị, Pháp áp đặt chính sách thống trị trực tiếp thông qua bộ
máy cai trị dựa trên súng đạn và câu kết với bọn địa chủ phong kiến tay
sai, bán nước. Chúng chia nước Việt Nam thành ba Kỳ: Bắc kỳ, Trung kỳ
và Nam kỳ, mỗi kỳ một chế độ thống trị riêng, một viên quan người Pháp
cai quản riêng. Vua quan nhà Nguyễn phải chịu sự cai quản của viên
Khâm xứ Pháp ở Trung kỳ. Ca dao của nhân ta phản ánh tình trạng chính
trị của nước ta lúc đó với hình tượng: “Vua là tượng gỗ, dân là thân
trâu”.
Về kinh tế, đế quốc Pháp, thi hành chính sách thực dân tìm mọi
cách để vơ vét tài nguyên sức người sức của của đất nước ta làm cho nền
kinh tế nước ta phát triển què quặt, lạc hậu và phụ thuộc hoàn toàn vào
kinh tế Pháp, làm cho đời sống của nhân dân ta bần cùng, cơ cực, khốn
khổ.
Về văn hoá, đế quốc Pháp thi hành chính sách nô dịch, lạc hậu để
sợ Pháp, phục Pháp để dễ bề thống trị. Mặt khác do yêu cầu phục vụ cho
chính sách trực tiếp khai thác, vơ vét thuộc địa nên chúng cũng mở mang
một số trường lớp, một số viện nghiên cứu khoa học v.v… Từ các cơ sở
văn hoá này khách quan đem lại mà thực dân Pháp không mong muốn là:
Những tư tưởng văn minh, tiến bộ phương Tây lọt vào nhận thức của
những người Việt Nam yêu nước, thức tỉnh họ tìm đến những nền văn
hoá mới, những tư tưởng tiến bộ mới để cứu nước, cứu nhà.
- Xã hội Việt Nam phân hoá sâu sắc:
Chính sách áp bức thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho
xã hội Việt Nam phân hoá ngày một sâu sắc.
Trong xã hội Việt Nam, hai giai cấp, địa chủ và nông dân phân hoá
mạnh, dẫn tới sự ra đời của các giai cấp mới như giai cấp công nhân, giai
cấp tư sản và các tầng lớp tiểu tư sản. …
Các giai cấp, các tầng lớp mới ra đời tạo cơ sở xã hội mới cho sự
tiếp thu và phát triển các trào lưu tư tưởng mới ở Việt Nam, tạo nên
6
những quan hệ mới của đất nước Việt Nam, của cách mạng Việt Nam
với thế giới.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sớm trở thành giai cấp tiên
tiến trong xã hội Việt Nam, là cơ sở xã hội để chủ nghĩa Mác Lênin dễ
dàng thâm nhập và phát triển trong xã hội Việt Nam, tạo cơ sở xã hội
mới cho mối quan hệ mới của nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới.
- Phong trào đấu tranh yêu nước diễn ra sôi nổi nhưng đều đã bị thực
dân Pháp dập tắt. Đất nước Việt Nam lâm vào tình trạng đen tối như
không có đường ra.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh
yêu nước chống Pháp đã diễn ra sôi nổi suốt từ Nam đến Bắc như: Khởi
nghĩa của Trương Công Định ( 1859-1864 ), khởi nghĩa của Nguyễn
Trung Trực (1861-1868), khởi nghĩa Hương Khê (1883-1896), khởi
nghĩa Ba Đình (1886-1887), khởi nghĩa Bãi Sậy (1885-1889), khởi nghĩa
Yên Thế (1887-1913), phong trào Cần Vương (1886-1896) v.v…
Phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta tuy diễn ra sôi
nổi nhưng lẻ tẻ ở các địa phương, không gắn kết được với nhau để tạo
nên sức mạnh. Nền tảng tư tưởng là ý thức hệ phong kiến lạc hậu, lực
lượng yếu, vũ khí thô sơ … nên đã bị thực dân Pháp đàn áp, làm cho tan
rã, thất bại.
Đầu thế kỷ XX, do chịu ảnh hưởng của các luồng tư tưởng tiến bộ
từ châu Âu tràn sang, từ Trung quốc thổi tới, từ Nhật Bản rọi vào, ở Việt
Nam đã bùng lên phong trào đấu tranh yêu nước theo tư tưởng dân chủ
tư sản . Như phong trào Đông Du (1905-1908) do Phan Bội Châu khởi
xướng và lãnh đạo, phong trào DuyTân (1906-1908) do Phan Chu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng…lãnh đạo v.v… Tuy phong trào theo ý thức hệ mới,
đã có những suy nghĩ tìm tòi những quan hệ mới vượt qua biên giới, lãnh
thổ, hướng tới mối quan hệ thế giới mới, nhưng cơ sở tư tưởng của các
phong trào này trên thực tế đã lạc hậu trước sự phát triển của tình hình
nước ta và thế giới, do đó phong trào khó tránh được những hạn chế, yếu
kém, dẫn tới thất bại.
Nhìn chung, tình hình nước ta đến đầu thế kỷ XX đang lâm vào
tình trạng bế tắc về đường lối cứu nước và khủng hoảng về giai cấp lãnh
đạo cách mạng. “ Tình hình đen tối như không có đường ra!” ( HCM )
HCM sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, Người đã trực tiếp
chứng kiến cảnh khổ đau của nhân dân ta dưới ách thống trị của thực dân
Pháp. Với lòng yêu nước thiết tha Người đã quyết chí ra đi tìm đường
cứu nước. Trong quá trình tìm đường cứu nước HCM đã từng bước đặt
7
cơ sở quan hệ quốc tế của nhân dân ta, của cách mạng nước ta trong thời
đại mới.
Tóm lại, bối cảnh tình hình thế giới và trong nước vào cuối thế kỷ
XIX đến đầu thế kỷ XX đã có những biến chuyển sâu sắc, tác động mạnh
mẽ vào nhận thức của HCM, giúp Người có những nhận thức mới mẻ
trong mối quan hệ của nhân dân ta, đất nước ta với các nước trên thế
giới, là những điều kiện quan trọng góp phần hình thành tư tưởng HCM
về quan hệ quốc tế của đất nước ta, của cách mạng nước ta trong thời đại
mới.
2/- Cơ sở tư tưởng, lý luận:
a/- Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đối ngoại của dân tộc Việt
Nam:
+ Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Trong quá trình hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam,
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã được hình thành và trở thành giá trị to
lớn, là cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong quá trình dựng
nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có đặc điểm là:
- Đề cao tinh thần độc lập tự chủ, coi độc lập, chủ quyền là thiêng
liêng bất khả xâm phạm. Bài thơ “ Thần” của Lý Thường Kiệt, “ Bài cáo
bình Ngô” của Nguyễn Trãi thể hiện rõ tinh thần đó.
- Tôn trọng độc lập chủ quyền của các dân tộc khác, sẵn sàng bang
giao lập quan hệ hữu nghị cùng chung sống trong hoà bình, cùng hướng
tới tương lai tốt đẹp trong quan hệ giữa các dân tộc, giữa các nước láng
diềng với nhau.
- Yêu nước gắn liền với yêu dân, coi trọng vai trò của nhân dân, lấy
dân làm gốc trong dựng nước và giữ nước. Độc lập dân tộc phải gắn liền
với ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
Sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, HCM đã sớm tiếp thu những
truyền thống qúi báu của dân tộc Việt Nam, chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Với HCM, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là hành trang Người đã
mang theo trong quá trình tìm đường cứu nước. Với lòng yêu nước, yêu
8
dân mình sâu sắc, HCM đã mau chóng đồng cảm với nhân dân lao động
khắp các châu lục mà Người đã đi qua. Trong tư tưởng HCM đã dần dần
nảy sinh, hình thành những tình cảm mới, những quan hệ mới mang tinh
thần quốc tế. Sau khi tiếp thu Chủ nghĩa Mác Lênin, HCM đã gắn kết
chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
vô sản hình thành quan điểm quan trọng của HCM về quan hệ quốc tế đó
là kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính Việt Nam với
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp vô sản, kết hợp sức mạnh của dân tộc Việt
Nam với sức mạnh thời đại.
+ Truyền thống đối ngoại của dân tộc Việt Nam:
Vị trí địa lý nước ta có tầm chiến lược quan trọng trong vùng Đông
Nam Á. Vì vậy, trong quá trình phát triển cha ông ta đã phải giao tiếp với
nhiêù quốc gia dân tộc khác nhau với những ý đồ, những âm mưu, những
thủ đoạn khác nhau tốt có, xấu có, lúc thì hoà hiêú, lúc thì thù địch… đủ
cả. Trong đó, đặc biệt sâu sắc là mối quan hệ của nhân dân ta với các
triều đại phong kiến Trung quốc phương Bắc. Đặc điểm của mối quan hệ
đối ngoại đó là :
- Việt Nam nêu cao và coi trọng hoà hiếu với tất cả các quốc gia dân
tộc, quan tâm đến lợi ích của nhân dân mỗi nước, phân biệt rõ nhân dân
với những kẻ thống trị phản động, hiếu chiến.
- Phương châm xử thế trong quan hệ với các đối tác là: “ Đem đại
nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, sẵn sàng bỏ qua
quá khứ, hướng tới tương lai vì hoà bình, hữu nghị, lâu dài.
- Trong quan hệ với nước lớn, trên cơ sở giữ vững độc lập chủ
quyền sẵn sàng nhân nhượng khi cần thiết, nhằm tìm kiếm sự an bình
cho dân chúng.
Trong bài Phú núi Chí Linh, có đoạn Nguyễn Trãi viết :
“ Nghĩ đến kế lâu dài của nước
Tha cho về mười vạn tù binh,
Nối hai nước tình hoà hiếu
Tắt muôn đời lửa chiến tranh
Đất nước vẹn toàn là thượng sách
Cốt sao cho dân được an ninh”.
9
Những đặc điểm trên đây cũng là những kinh nghiệm qúi báu trong
quan hệ quốc tế của dân tộc ta. HCM đã tiếp thu những truyền thống,
những kinh nghiệm qúi báu này tạo nên những quan điểm rất quan trọng
của Người về quan hệ quốc tế. Điều đó thể hiện sâu sắc trong những
quan điểm của HCM trong quan hệ quốc tế mà Người đã giải quyết ở
thời kỳ bảo vệ chính quyền non trẻ 1945-1946, thời kỳ chống Mỹ cứu
nước 1954-1969.
b/- Tinh hoa văn hoá phương Đông – phươngTây:
+ Tinh hoa văn hoá phương Đông, chủ yêú là văn hoá Trung quốc.
Ngay từ thời thơ ấu HCM đã được học chữ Hán, HCM đã tiếp thu
sâu sắc lịch sử và văn hoá Trung Hoa. Qua quá trình học tập và nghiên
cứu Khổng giáo và các nhà tư tưởng lớn của Trung quốc. Về phương
diện ngoại giao, về quan hệ quốc tế, HCM đã tiếp thu nhiều kinh nghiệm
quan trọng từ các nhà tư tưởng Trung quốc. Các quan điểm của HCM về
quan hệ ngoại giao, quan hệ quốc tế như : “ Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “
toạ sơn quan hổ đấu” “ dùng kế Câu Tiễn”, “ lấy nhu thắng cương”, sử
dụng đúng đắn “ thời” và “ thế”, coi trọng “ thiên thời, địa lợi, nhân hoà”
v.v…đều có nguồn gốc từ tư tưởng của các học giả Trung quốc. Những
tư tưởng đó đã được HCM vận dụng rất độc đáo, sáng tạo trong những
hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, ở những tình huống phức tạp khó khăn và đã
thành công.
+ Tinh hoa văn hoá phương Tây, chủ yếu là văn hoá Pháp.
HCM tiếp xúc với văn hoa phương Tây chủ yêú là văn hoá Pháp
vì ngay từ nhỏ HCM đã theo học trường Pháp-Việt ở Vinh, ở Huế. Chính
từ các lớp học này Người đã được nghe những từ bằng tiếng Pháp : Tự
do, bình đẳng, bác ái. Từ đó, HCM nảy sinh ý định làm quen với nền
văn minh Pháp. Sau này sang phương Tây Người đã sống và làm việc
chủ yếu ở Pháp. Người đã tiếp thu sâu sắc nhiều quan điểm quan trọng
của các nhà tư tưởng lớn của nền văn minh phương Tây như Rút-xô,
Mông-te-xki-ơ, Von-te…. Đó là tư tưởng dân chủ, tư tưởng nhân văn, tư
tưởng độc lập, tự do, bình đẳng giữa các dân tộc. HCM đặc biệt quan tâm
đến tinh thần độc lập trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, Người
cũng rất chú trọng và đề cao tinh thần nhân quyền và dân quyền của
Cách mạng Pháp. Đây là cơ sở tư tưởng rất quan trọng giúp HCM hình
thành những quan điểm quốc tế sâu sắc trong mối quan hệ giữa các quốc
10
gia dân tộc trong thời đại mới. Đó cũng là cơ sở để HCM mau chóng tiếp
thu những quan điểm của chủ nghĩa quốc tế vô sản sau này.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, nhiều quan điểm quan trọng đã được
cộng đồng thế giới xác lập và thừa nhận :
- Ngày 14- 8-1941, tổng thống Mỹ Rudơven và thủ tướng Anh
Sơcxin đã ký Bản tuyên bố trên chiến hạm tại Đại Tây Dương, qui định
một số nguyên tắc chung về chính sách quốc gia của các nước, thừa nhận
quyền các dân tộc được lựa chọn hình thức chính quyền mà mình mong
muốn, hứa hẹn việc tái lập lại chủ quyền và quyền tự quyết của các dân
tộc bị tước đoạt bằng bạo lực. Bản tuyên bố này được gọi là Hiến chương
Đại Tây Dương.
- Năm 1945, Hiến chương của Liên hợp quốc đã nêu lên những
nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới như sau: Bình
đẳng về chủ quyền; Tự nguyện thực hiện nghĩa vụ, giải quyết tranh chấp
bằng hoà bình, không đe doạ hoà bình, an ninh và đạo lý quốc tế; Không
đe doạ bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực với nước khác; Ngăn chặn sự đe
doạ hoà bình và an ninh quốc tế; Không can thiệp vào công việc nội bộ
nước khác.
- Năm 1955, Hội nghị 29 nước Á - Phi họp tại Băng Đung ( Inđô-nê-xi - a) nêu 5 nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình là :
1. Tôn trọng sự lựa chọn chế độ chính trị xã hội của mỗi dân
tộc;
2. Tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ;
3. Không can thiệp vào công việc nội bộ nước khác;
4. Không đe doạ và sử dụng vũ lực đối với nước khác. giải
quyết tranh chấp bằng hoà bình;
5. Hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi giữa các nước có chế độ
chính trị khác nhau.
HCM tán thành các nguyên tắc này. Người rất chú trọng khai thác,
phát huy các nguyên tắc này trong quan hệ quốc tế. Điều đó, trở thành cơ
sở tư tưởng quan trọng trong tư tưởng HCM về quan hệ quốc tế.
c/- Chủ nghĩa Mác- Lênin :
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
khoa học quan trọng trong sự hình thành tư tưởng HCM về quan hệ quốc
tế.
11
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã nêu lên một hệ thống các quan điểm
quan trọng về mối quan hệ quốc tế của giai cấp vô sản trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản. Như giai cấp công nhân là giai cấp mang
bản chất quốc tế. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, MácĂng ghen nêu rõ chủ nghĩa tư bản mang tính quốc tế, do đó, cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa tư bản của giai cấp công nhân cũng mang tính
quốc tế, cần phải xây dựng cho được được liên minh của những người vô
sản toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa tư bản.
Xuất phát từ yêu cầu đó các ông nêu cao chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
vô sản, nêu cao nêu khẩu hiệu chiến lược : “ Vô sản toàn thế giới liên
hiệp lại !”
Kế thừa tư tưởng của Mác-Ăng ghen trong điều kiện lịch sử mới,
khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lê nin
nêu rõ mối quan hệ gắn kết giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở
chính quốc với cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa. Sự gắn kết này
là cơ sở mang lại chiến thắng cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy, Lênin đã bổ sung
khẩu hiệu của Mác-Ăng ghen thành : “ Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại!”. Đó chính là điểm cốt lõi của chủ nghĩa quốc
tế của giai cấp vô sản.
Những quan điểm cốt lõi quan trọng của HCM về quan hệ quốc
tế đều có cơ sở từ lý luận Mác-Lênin. Trong tác phẩm Đường Kách
Mệnh. HCM nêu rõ: “Cách mệnh An Nam là bộ phận trong cách mệnh
thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí của dân An
Nam cả”. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng cộng sản Việt Nam ( tháng
2-1930 ). HCM chỉ rõ : Đảng phải “ thực hành liên lạc với các dân tộc bị
áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi, nhất là với vô sản giai cấp Pháp”. Đó
là những quan điểm về quan hệ quốc tế có nguồn gốc từ quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong quan điểm của HCM về các mối quan hệ quốc tế, HCM
đã luôn xem xét và giải quyết trên cơ sở của phép biện chứng Mác xít,
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế trong sáng, nên đã vừa đảm bảo được sự đúng đắn vừa tạo điều
kiện để đưa cách mạng đến thành công. Vì vậy, có thể nói, chủ nghĩa
Mác Lênin là cơ sở tư tưởng quan trọng nhất trong sự hình thành tư
tưởng HCM về quan hệ quốc tế.
3/- Cơ sở chủ quan HCM:
12
Quan điểm tư tưởng của ai là thể hiện nhân tố chủ quan của
người đó, phản ánh phẩm chất, nhân cách và tài năng của người đó.
HCM là người Việt Nam yêu nước, thương dân và là một thiên
tài của dân tộc Việt Nam. Nhân cách đó, phẩm chất đó đã làm nên một
anh hùng giải phóng dân tộc, một danh nhân văn hoá hoá kiệt xuất của
dân tộc Việt Nam và thế giới.
Là một người yêu nước nhiệt thành, chân chính, đức độ, lại
được thế giới quan Mác Lênin soi sáng đã giúp cho HCM nhìn nhận thấu
suốt nỗi đau khổ của nhân dân ta dưới sự thống trị của thực dân Pháp,
thông cảm sâu sắc nỗi đau của những người dân mất nước, những người
lao động bị áp bức, bóc lột trên khắp thế giới . Trên cơ sở đó, giúp cho
HCM dần dần hình thành những quan điểm quốc tế chân chính, gắn kết
chặt chẽ cuộc đấu tranh của nhân dân ta với cuộc đấu tranh chung của
nhân dân thế giới, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích của nhân
dân ta, của cách mạng nước ta với nhân dân thế giới, cách mạng thế
giới…
Là một thiên tài, thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo, HCM đã
sớm tiếp thu được bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa MácLênin và vận dụng sáng tạo vào thực tế, giúp cho HCM hình thành nhiều
quan điểm lớn, giải quyết thành công nhiều nhiệm vụ quan trọng trong
tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới,
trong đó có nhiều quan điểm, nhiều nhiệm vụ quan trọng trong quan hệ
quốc tế của đất nước ta, của cách mạng nước ta.
Là một nhà hoạt động thực tiễn sôi nổi, năng động, ham học hỏi
chịu khó suy nghĩ, tìm tòi và với một nghị lực hành động phi thường đã
giúp cho HCM đúc rút được nhiều kinh nghiệm thực tiễn phong phú,
khái quát, nâng cao xác lập được nhiều luận điểm quan trọng về đường
lối, chủ trương, chiến lược, sách lược, phương pháp thực hành quan hệ
đối ngoại và ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta qua các thời kỳ phát
triển của cách mạng nước ta, đưa đến những thắng lợi to lớn của cách
mạng Việt Nam.
Tóm lại, năng lực chủ quan của HCM là cơ sở quan trọng trong sự
hình thành các quan điểm của HCM về quan hệ quốc tế.
13
Chương II
NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HCM VỀ QUAN HỆ QUỐC TẾ.
I/- Những quan điểm chiến lược trong tư tưởng HCM về quan hệ
quốc tế
1/- Quan điểm : Không có gì quí hơn độc lập tự do !
Không có gì quí hơn độc lập tự do ! Đó là tư tưởng của HCM về giá
trị của độc lập tự do, là quyền thiêng liêng tối cao của các dân tộc trong
thời đại mới, hiện nay tư tưởng đó vẫn còn nguyên giá trị. HCM nêu rõ :
“ Tự do độc lập là quyền trời cho của mỗi dân tộc”. HCM đòi hỏi
các quốc gia trên thế giới phải tôn trọng quyền dân tộc tối cao đó. Trong
tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, HCM tuyên bố với thế giới : “ Nước
Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã thành một nước tự
do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực
lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”.
Trong tư tưởng HCM, quyền độc lập tự do đó là quyền dân tộc cơ bản.
Quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam bao gồm quyền độc lập dân
tộc, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nhân dân được sống trong hoà bình,
hạnh phúc.
14
Quyền độc lập tự do là tư tưởng lớn, là mục tiêu quan trọng nhất chi
phối toàn bộ quá trình đấu tranh ngoại giao của toàn Đảng toàn dân ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch HCM, cuộc đấu tranh giành độc
lập tự do và để thế giới công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt
Nam đã kéo dài suốt từ năm 1930 đến năm 1975. Nhân dân Việt Nam,
đã từng bước buộc bọn đế quốc và các nước phải công nhận và tôn trọng
quyền độc lập tự do của Việt Nam.
Tháng 8-1945, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị
của đế quốc, phong kiến giành độc lập tự do. Ngày 2-9-1945, HCM đã
đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tiếp theo đó,
HCM đã kịp thời lãnh đạo nhân dân ta xây dựng một nhà nước hợp hiến
làm cơ sở pháp lý cho một quốc gia độc lập và là cơ sở pháp lý cho quan
hệ quốc tế của nước ta, tạo vị thế của nước ta với các nước trên thế giới.
Tiếp đó , từ 1946 đến 1954, HCM lãnh đạo nhân dân Việt Nam, đấu
tranh chống thù trong giặc ngoài bảo vệ nền độc lập, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nhằm
giành độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Với chiến thắng Điện
Biên chấn động địa cầu, nhân dân Việt Nam đã buộc Pháp phải chịu thất
bại và phải công nhận quyền độc lập thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, các nước tham dự Hội nghị trong đó
có các nước lớn như Pháp, Mỹ, Liên Xô, Trung quốc... đã công nhận Việt
Nam là một nước độc lập thống nhất. Đây là văn bản pháp lý quốc tế đầu
tiên công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả của 9
năm đấu tranh gian khổ kể từ ngày nhân dân ta giành được độc lập tháng
8-1945.
Sau Hiệp định Giơ ne vơ, đế quốc Mỹ cố tình can thiệp vào nước ta,
chúng đã ngang nhiên phá hoại những điều khoản của Hiệp định thực
hiện âm mưu kéo dài chia cắt nước Việt Nam, biến miền Nam nước ta
thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của chúng. HCM đã nêu cao
tinh thần Không có gì quí hơn độc lập tự do ! lãnh đạo nhân dân ta kháng
chiến chống Mỹ cứu nước giành độc lập tự do thống nhất Tổ quốc. Với
sức mạnh đoàn kết chống đế quốc Mỹ xâm lược của đồng bào cả nước,
nhân dân ta đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri vào tháng 11973. Toàn bộ chương I của Hiệp định đã khẳng định quyền dân tộc cơ
bản của Việt Nam và điều 9 của chương IV khẳng định việc thực hiện
15
quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Đây là những điều mà
ngày 8-4-1965, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà dưới sự lãnh đạo
của Chủ tịch HCM đã nêu trong lập trường bốn điểm của mình.
Như vậy, sau gần 30 năm đấu tranh, chính thức trên phương diện
ngoại giao nhân dân ta đã buộc đế quốc Mỹ và những nước khác đã phải
thừa nhận và tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân
tộc Việt Nam. Đó là thắng lợi của tư tưởng không có gì quí hơn độc lập
tự do trên phương diện quan hệ quốc tế.
Quan điểm : “ Không có gì quý hơn độc lập tự do!” chi phối mọi
hoạt động đối nội, đối ngoại và ngoại giao của Đảng và nhân dân ta từ
khi Đảng ra đời đến nay. Các quan điểm của HCM về quan hệ quốc tế
đều thấm đượm tinh thần “ Không có gì quý hơn độc lập tự do!”.
2/- Quan điểm : Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nội dung cốt lõi của tư
tưởng HCM và là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đây là
quan điểm cốt lõi chỉ đạo công tác đối ngoại và ngoại giao của Đảng và
Nhà nước ta trong quan hệ quốc tế.
Độc lập dân tộc là quyền dân tộc, là lợi ích tối cao của dân tộc Việt
Nam. Trong tư tưởng HCM độc lập dân tộc phải là một nền độc lập thật
sự, độc lập hoàn toàn và triệt để. Điều đó có nghĩa là nước Việt Nam có
đầy đủ mọi quyền dân tộc như quyền tự quyết, quyền bình đẳng, quyền
được sống trong tự do, hạnh phúc.
Trong Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, HCM nhấn mạnh :
“ Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền
được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” ( t. 4, tr.1) .
Đó là quyền con người mà các nước tư bản Pháp, Mỹ, từng tuyên
bố. Từ những quyền con người như vậy, HCM nêu rõ : “ Suy rộng ra câu
ấy có nghĩa là : tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân
tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” (t.4,
tr.1 ).
Theo HCM muốn được sống bình đẳng, sung sướng, tự do, hạnh
phúc thì phải có một nền độc lập thật sự đầy đủ. Nước được độc lập thì
dân phải được hưởng hạnh phúc, ấm no, chứ nước được độc lập mà dân
cứ đói ,cứ rét thì độc lập cũng chả có ý nghĩa gì . Muốn cho dân được ấm
no hạnh phúc thì phải xây dựng kiến thiết đất nước, làm cho dân giàu,
16
nước mạnh, nhân dân được thực sự làm chủ , được giải phóng khỏi mọi
áp bức, bóc lột bất công. Muốn vậy, theo HCM tất yếu phải đưa đất nước
tiến lên CNXH. Vì chỉ có CNXH mới có thể giải phóng thực sự cho các
dân tộc bị áp bức, chỉ có CNXH mới làm cho nước mạnh dân giàu, mới
đem lại ấm no hạnh phúc thật sự cho các dân tộc. Vì vậy, trong tư tưởng
HCM độc lập dân tộc luôn gắn liền với CNXH, đấu tranh giành độc lập
dân tộc rồi đưa đất nước tiến lên CNXH. Trong Chính cương vắn tắt của
Đảng khi mới thành lập, HCM nêu rõ con đường phát triển của cách
mạng Việt Nam, nhiệm vụ của Đảng ta là : “ Làm tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng để đi tới hội cộng sản”. Điều đó có nghĩa là
Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta làm cách mạng dân tộc dân chủ sau đó là
đưa đất nước tiến lên CNXH. Đó là tư tưởng Độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH trong tư tưởng HCM.
Tiến lên CNXH đó là định hướng đi tới một xã hội tốt đẹp, tốt đẹp
hơn CNTB. Định hướng đó vẫn đang là mục tiêu hướng tới trong công
cuộc đổi mới hiện nay của toàn Đảng, toàn dân ta.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đó còn là sự gắn liền và thống
nhất lợi ích của dân tộc (ĐLDT) với lợi ích của giai cấp công nhân
( CNXH). Đó cũng là sự thống nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
với CNXH. Đó cũng là điểm cốt lõi của sự thống nhất giữa sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại . Do đó, theo HCM, yêu nước phải gắn liền với
yêu CNXH.
Với HCM mọi quan hệ quốc tế của cách mạng Việt Nam, của dân tộc
Việt Nam đều dựa trên cơ sở của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đó là lăng kính giúp
nhân dân ta nhìn rõ bạn thù trong đấu tranh cách mạng. Đây là điều quan
trọng bậc nhất trong đối ngoại và ngoại giao của toàn Đảng toàn dân ta.
Ai là người tán thành con đường mà Đảng và nhân dân ta lựa chọn là bạn
của ta. Ai là kẻ chống lại con đường phát triển của dân tộc ta tất sẽ là đối
tượng đấu tranh của ta tuỳ theo tính chất, mức độ chống đối cụ thể của
họ.
Đứng vững trên quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với CNXH
nên HCM đã luôn xác định rõ trong quan hệ quốc tế, ai là bạn, ai là thù
của nhân dân ta. Trong tác phẩm Đường Kách Mệnh, HCM nêu rõ : “
17
Việt Nam là bộ phận của cách mệnh thế giới. Trong thế giới ai làm cách
mệnh đều là đồng chí của dân An Nam cả”. Xuất phát từ quan điểm đó,
HCM đã chỉ rõ : Bọn đế quốc thực dân, bọn áp bức bóc lột nhân dân lao
động là đối tượng đấu tranh của nhân dân ta. Các nước XHCN anh em,
các nước dân tộc thuộc địa, các dân tộc độc lập, các lực lượng dân chủ và
hoà bình và nhân dân lao động toàn thế giới kể cả nhân dân Pháp, nhân
dân Mỹ là bạn của nhân dân ta, chúng ta cần phải tăng cường đoàn kết
với họ để đấu tranh giành độc lập tự do , để bảo vệ và xây dựng đất
nước. Đây là quan điểm rất mới trong lịch sử dân tộc. Đó chính là quan
điểm do HCM đề xuất, xuất phát từ chính nhận thức của HCM.
Trước đó, do chưa thấy rõ con đường phát triển của dân tộc trong
thời đại mới, chưa thấy rõ độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, vì vậy cha
ông ta đã có lúc phân định bạn thù thiếu chính xác, thậm chí nhầm lẫn
bạn thù. Buổi đầu chống Pháp cha ông ta có lúc đã đánh đồng đế quốc
Pháp với dân tộc Pháp là một, thậm chí có người cứ gặp ai là người Âu
mũi lõ mắt xanh da trắng là đánh, là diệt ! Cụ Phan Bội Châu đã có lúc
coi đế quốc Nhật là đồng chủng, đồng văn, là bạn tin cậy của ta !...
Để tăng thêm bạn và bớt đi lực lượng chống đối phá hoại sự nghiệp
cách mạng của toàn Đảng toàn dân ta từ lập trường độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH, trong quan hệ quốc tế chúng ta phải đấu tranh bằng các
hình thức khác nhau làm cho nhân dân thế giới và bạn bè quốc tế tán
thành và ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta .
3/- Quan điểm : Độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn
kết và hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Trong quan hệ quốc tế, HCM nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực, tự cường . Xuất phát từ thực tế hoạt động cách mạng ở nước
ngoài nhiều năm nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng loài người, HCM sớm nhận rõ sự cần thiết của tinh thần tự giác, tự
đứng lên giải phóng cho mình của các dân tộc thuộc địa. Đây là tư tưởng
có cơ sở từ quan điểm : “ Giai cấp công nhân muốn được giải phóng cần
tự đứng lên giải phóng cho mình” của Các Mác. Khi còn hoạt động ở
nước ngoài, HCM cổ vũ các dân tộc thuộc địa tự đứng lên giải phóng cho
mình. Năm 1922, trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa . HCM
nêu rõ : “ Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi phải nói với anh
em rằng: Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thuwch hiện được
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em” (t.2, tr.128 ). Năm 1941, khi về
nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng, HCM cổ vũ nhân dân ta tự đứng lên,
18
“đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Trong kháng chiến chống Pháp và
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, HCM nêu cao tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực tự cường . Đường lối kháng chiến do Đảng và Chủ tịch HCM
đề ra là : Kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là
chính. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng CNXH đứng
trước nhiều khó khăn thử thách trong quan hệ quốc tế, HCM tiếp tục nêu
cao tinh thần độc lập tự chủ với ý chí : “ Chiến tranh có thể kéo dài 5
năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải phòng và một số
thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết
không sợ ! Không có gì quí hơn độc lập tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân
dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn ! ” ( t.12,
tr.108 ).
HCM luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường
nhưng không cực đoan, không rơi vào chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, hẹp hòi
mà HCM còn sớm thấy rõ tầm quan trọng của đoàn kết, hợp tác quốc tế.
Theo HCM, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế là điều kiện làm
nên sức mạnh trong đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Có đoàn kết
mới có thắng lợi. HCM đã nhiều lần khẳng định :
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công !”
Đồng chí Tố Hữu giải thích, Bác nói ba cái đoàn kết này là
đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân và đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết và hợp tác quốc tế là yêu cầu khách quan trong quá
trình đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.
Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của dân tộc Việt Nam là bộ phận trong
cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc của các dân tộc thuộc địa
và loài người tiến bộ. Do đó trong đấu tranh cách mạng trên cơ sở phát
huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường , nhân dân ta cần phải tranh
thủ sự đồng tình ủng hộ của bạn bè quốc tế, phải thực hiện đoàn kết và
hợp tác quốc tế.
Từ trong hoạt động thực tiễn, HCM đã sớm nhận thấy sự cần thiết
phải đoàn kết quốc tế trong đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc của các
dân tộc bị áp bức. Năm 1919, trong bài Đông Dương và Triều Tiên,
HCM viết : “ Thế giới chỉ cần có nền hoà bình cuối cùng khi tất cả các
19
dân tộc tự mình thoả thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật đế quốc
chủ nghĩa ở khắp mọi nơi mà họ gặp” ( t.1, tr.11). Điều đó đòi hỏi các
nước trên thế giới phải gắn kết, phải liên hệ với nhau để cùng chống chủ
nghĩa đế quốc.
Tháng 2-1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng CSVN, HCM
nêu rõ nhiệm vụ của Đảng là phải “ Thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là với vô sản giai cấp Pháp” ( t.3,
tr.3).
Điều đó có nghĩa là, vấn đề đoàn kết quốc tế, quan hệ quốc tế
trở thành vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Sau này, trong
lãnh đạo cách mạng, HCM đã luôn coi vấn đề đoàn kết hợp tác quốc tế là
vấn đề chiến lược của Đảng, của cách mạng Việt Nam.
Trước Cách mạng Tháng 8-1945, HCM nêu quan điểm : “ Nếu
thiếu sự giúp đỡ mạnh mẽ từ bên ngoài thì công việc khó thành công”
( Viện QHQT : HCM với công tác ngoại giao, tr. 28 ).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta,,
HCM nêu rõ : “ Có sức mạnh cả nước một lòng, lại có sự ủng hộ của
nhân dân thế giới, chúng ta sẽ có một sức mạnh tổng hợp, cộng với
phương pháp cách mạng thích hợp, nhất định cách mạng nước ta sẽ đi
đến đích cuối cùng” ( Hà Bình Nhưỡng : Trái tim nhân ái. Tạp chí Nhà
Văn, Số 3-2000, tr.19 ).
Tháng 7-1969, trả lời phỏng vắn của báo Granma(Cuba), HCM nêu
rõ : “ Sức mạnh vĩ đại và sự bền bỉ của nhân dân Việt Nam cơ bản là sự
đoàn kết của nhân dân Việt Nam và sự ủng hộ của nhân dân thế giới” .
Theo HCM, đoàn kết quốc tế đồng thời phải gắn với hợp tác quốc
tế. Đó là điều kiện cần thiết để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ngay sau khi giành được chính quyền, năm 1945, HCM đã nghĩ
tới yêu cầu mở mang quan hệ quốc tế, thực hiện hợp tác quốc tế, để tạo
điều kiện xây dựng đất nước, xây dựng chế độ mới.
Tháng 10-1945, trả lời các nhà báo Việt Nam, HCM nêu rõ : “
Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào nước ta
khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác… Chúng ta sẽ
mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga, Tàu đến đây giúp
việc cho chúng ta kiến thiết quốc gia” (t.4, tr.74).
20
- Xem thêm -