I. LỜI MỞ ĐẦU
1.1.
Lý do chọn đề tài.
Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền từ sau thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng Tám 1945. Trong lịch sử hơn 60 năm cầm quyền, Đảng ta đã
nhiều lần vượt qua những thách thức lớn, giữ vững vị trí của một Đảng cầm quyền,
xứng đáng là đội tiền phong của giai cấp công nhân và của dân tộc.
Thực tế cho thấy, để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, một trong những nội
dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng là phải thực hành tiết kiệm, và đi liền
cùng đó là cuộc đấu tranh chống những nguy cơ dẫn đến sự suy yếu của Đảng, đó là
tham ô, tham nhũng và bệnh quan liêu.
Tham ô, tham nhũng và bệnh quan liêu vốn là những căn bệnh của quyền lực.
Nhận thức sâu sắc rằng “giành chính quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền còn khó
hơn nhiều”, ngay từ những ngày đầu cách mạng mới thành công, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã rất quan tâm đến những tệ nạn này. Dù mới giữ cương vị Chủ tịch nước
một thời gian ngắn, song trước những tồn tại, những khuyết điểm của đội ngũ cán
bộ đảng viên trong các cơ quan công quyền, trước ra những thói hư, tật xấu, nạn
tham ô, sự lãng phí của công, bệnh quan liêu, cửa quyền, lên mặt của những “ông
quan cách mạng”, Người đã nhận trách nhiệm trước quốc dân.
Cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra ngày càng quyết liệt, đòi hỏi sự tập
trung trí lực, sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc, đặc biệt là sự nêu gương của
đội ngũ cán bộ đảng viên. Bởi vậy, năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Cần
kiệm liêm chính và Người là một mẫu mực tuyệt vời của cần, kiệm, liêm, chính.
Tác phẩm ra đời đã gây tiếng vang lớn đối với toàn thể nhân dân Việt Nam cũng
như các dân tộc khác trên thế giới. Đây chính là kim chỉ nam về giáo dục đạo đức cho các
nhà cách mạng nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung. Tác phẩm này đã đem lại nhiều
động lực cho các nhà lãnh đạo cũng như tạo được lòng tin sâu sắc của nhân dân đối với
Đảng.
1
Nhờ tác phẩm này, về cơ bản, Đảng ta đã xây dựng được một Đảng trong sạch
vững mạnh, đáp ứng yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng hiện tại và kéo dài
đến nay.
Hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, một đất nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất đang tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập cùng bạn bè quốc tế cũng gặp
không ít những khó khăn, thử thách. Trước những nguy cơ của lạm phát, của sự suy
thoái nghiêm trọng về lối sống, về đạo đức cách mạng, về tệ nạn quan liêu, tham
nhũng, chạy chức chạy quyền, ham hư danh, v.v.. đe dọa sự tồn vong của một Đảng
cầm quyền, những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tấm gương thực hành
Cần kiêm liêm chính, chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu của Người càng trở
nên có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thiết thực góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thiết
thực triển khai giai đoạn II của Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, chúng ta cùng ôn lại, suy ngẫm, thấm nhuần những tâm nguyện
và chỉ dẫn của Người lúc sinh thời, để nhân nguồn sức mạnh nội lực của toàn Đảng,
toàn dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng một đất nước Việt
Nam XHCN dân chủ, giàu mạnh.
1.2.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Nghiên cứu tác phẩm Cần Kiệm Liêm Chính của Hồ Chí Minh sẽ đem lại cho ta
những hiểu biết sâu sắc, về định nghĩa, thế nào là Cần, Kiệm, Liêm và Chính. Giúp chúng
ta hiểu sâu sắc hơn về con người Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Giúp chúng ta biết được, nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất giúp Đảng ta vượt qua những
khó khăn và thử thách trong hơn 60 năm cầm quyền, bên cạnh đó, đây là một cơ hội tốt
nhất để chúng ta hiểu, và thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về Cần, Kiệm, Liêm, Chính,
tạo cơ sở để bản thân mỗi cá nhân áp dụng nó vào đời sống hàng ngày. Đặc biệt, hiểu được
bản chất của giai cấp cầm quyền ngày nay, để có thể đề xuất những giải pháp giúp cải
thiện tình trạng tham ô, tham nhũng, lãng phí hiện nay còn đang như nhối ở các bộ phận
lãnh đạo ở nước ta. Sau bài nghiên cứu này, bản thân mỗi sinh viên sẽ tự rút ra cho mình
những bài học quan trọng trong suy nghĩ, lối sống, nhân cách và trong học tập cũng như
công việc sau này, tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên đến gần hơn với tư tưởng Hồ Chí
Minh, củng cố lòng yêu nước, sự kính trọng đối với Bác, Hồ Chí Minh, nhà cách mạng và
2
vị lãnh tụ vĩ đạo, đem lại cho bản thân mỗi sinh viên khát khao được thay đổi cuộc sống,
thay đổi những gì xấu xa đang diễn ra trong xã hội, kìm chế những gì tốt đẹp hiện hữu và
phát triển.
1.3.
Kết cấu đề tài
Bố cục của bài tiểu luận gồm 3 phần:
I.
Mở đầu
I.1.
Lý do chọn đề tài
I.2.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu
I.3.
Kết cấu đề tài
II.
Nội dung
II.1.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực của đạo đức cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân;
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư;
Yêu thương con người;
Tinh thần Quốc tế trong sang;
II.2.
Liên hệ trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân.
III.
Kết luận.
Nhóm chúng em xin chân thành cám ơn sự hướng dẫn tận tình của Giảng viên Lê
Thị Ngọc để nhóm chúng em hoàn thành tốt bài tiểu luận. Cám ơn đề tài mà Cô giáo đã
giao cho nhóm chúng em, tạo điều kiện cho nhóm chúng em mở rộng hiểu biết, cũng như
thay đổi cách suy nghĩ, cách sống, ứng xử hàng ngày.
3
II. NỘI DUNG
I.1.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực của đạo đức
cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân
dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng
nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt
Nam và phương Đông, xong có nội dung hạn hẹp. Trung với vua, hiếu với cha mẹ, phản
ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ. Hồ Chí Minh đã vận dụng và đưa
vào nội dung, mới đạo đức cách mạng: Trung với nước hiếu với dân, đồng thời người đã
loại bỏ đi những yếu tố hạn chế của đạo đức cũ.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của
dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi
ích đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Trung với nước, hiếu với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ
quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng. Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trị- đạo đức
cho mỗi người Việt Nam.
Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là
điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải
tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của
dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lòng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất
nước.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là:
- Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết.
- Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng.
- Thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
4
Nội dung của hiếu với dân là:
- Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân.
- Tin dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
- Mọi đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân
Phân tích Cần, Kiệm, Liêm, chính
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người”.
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tr.5, Tr.631)
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức
cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của Hồ Chí
Minh trong sự nghiệp cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đạo đức cách mạng phải qua đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ mới thành. Người viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ tên trời rơi xuống.
Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phải phát triển củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
1)
Cần:
Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần (trong cần, kiệm, liêm, chính) là một trong
những phẩm chất trung tâm của đạo đức cách mạng, là mối quan hệ “với tự mình” của mỗi người.
Trước hết, cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất
cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Cần
còn có nghĩa là làm việc có phương pháp, có khoa học và có trí tuệ. Cần mà không có trí tuệ thì
cũng chỉ là bán thân bất toại. Phải thấy rõ "lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống,
nguồn hạnh phúc của chúng ta". Lời dạy của Người từ thế kỷ trước, đến nay vẫn còn nguyên giá
5
trị. Dẫu khoa học kỹ thuật đã phát triển tạo ra những thành tựu mới, giải phóng đáng kể sức lao
động, nhưng đức tính cần cù siêng năng ở lĩnh vực nào cũng là đòi hỏi không thể thiếu.
Người nhắc nhở chúng ta về công tác tổ chức khi nói đến chữ “Cần” , đó là “phải theo
nguyên tắc là có việc mới cần đến người, chứ khoog phải là có sẵn người nên phải tìm việc cho
làm”. Đã có nhiều trường hợp chúng ta vì người mà bố trí việc khiến cho bộ máy cồng kềnh, trở
nên kém hiệu quả.
Không dừng lại ở cá nhân, người còn mở rộng đến tập thể, cộng đòng va cả nước. Người
nói:
“ Siêng năng thì mau tiến bộ
Cả nhà thương nhau thì chắc ấm no
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu”.
Như vậy, chữ “Cần” không chỉ mang ý nghĩa đạo đức của con người, mà nó còn là vấn đề
kinh tế, nếu lao đông siêng năng thì sẽ tăng năng suất lao động, làm giàu cho đất nước : “Năng
suất lao động là nguồn của cải lớn nhất”. Để có năng suất lao động cao, Người nhắc nhở:
Cần phải đi liền với kế hoạch.
Ví dụ: Một người thợ mộc muốn đóng một cái tủ. Trước hết, anh ta mài sẵn cưa, bào,
tràng, đục … và làm sao có thứ tự hẳn hoi. Rồi anh lấy gỗ vừa đủ làm cái tủ. Khi các thứ đều sẵn
sàng, anh ta bắt tay vào việc đóng tủ. Như thế là thợ mộc ấy làm việc có kế hoạch, anh ấy sẽ
không hao thì giờ, tốn lực lượng, mà việc lại mau thành.
“ Phải cố gắng học tập dùng kĩ thuật mới, xây dựng cơ sở kĩ thuật mới, kiên quyết từ bỏ
lối làm ăn lạc hậu”.
Phải tuyên truyền mọi người hăng say lao động, coi lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là
nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi người.
“Phải tổ chức lao động cho tốt, đồng thời phải “củng cố và phát triển các HTX nông
nghiệp, phải tiến tục cải tiến quản lý các xí nghiệp”.
Người cũng lên án tính lười biếng:
“Lười biến là kẻ địch của chữ cần
Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc”.
Những tấm gương nêu lên đức tính cần cù:
Đồng chí Võ Ngọc Châu, tấm gương thi đua của cơ quan Ban Dân vận Thành
uỷ.
Vào năm 2000, anh Võ Ngọc Châu là Phó trưởng Phòng Đoàn thể, chưa được học
qua lớp vi tính, tin học văn phòng! Anh phát huy cái tính cần cù, tận tụy, chịu khó của
6
anh đến cao độ bằng cách tự học, tự khắc phục những điểm yếu của mình để hoàn thiện
mình! Mỗi buổi chiều hết giờ làm việc thấy anh vẫn miệt mài với công việc, xử lý hồ sơ,
công văn! Ở anh Võ Ngọc Châu có đức tính thật tốt. Đó là sự tận tụy với công việc của
cấp trên giao. Anh thường nói, khi đã nhận nhiệm vụ, nếu thấy có khó khăn thì phải báo
cáo với lãnh đạo để được chia sẻ, hỗ trợ. Còn đã nhận nhiệm vụ rồi thì phải quyết tâm
hoàn thành. Mỗi năm, vào dịp phân tích chất lượng đảng viên anh đều được cả chi bộ bỏ
phiếu đảng viên xuất sắc 100%. Đến năm 2007, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng phát động thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”, tinh thần tận tụy, hết lòng vì công việc của anh càng phát huy hơn
nữa. Anh được bầu vào chức danh bí thư chi bộ. Từ Từ tấm gương của anh Võ Ngọc
Châu, nghiệm ra một điều tâm đắc: Mỗi người, trong học tập, làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, không cứ phải làm được những điều gì cao xa, to lớn. Cái quý nhất là
trong học tập, làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ, phải xuất phát từ cái tâm thật
của mình đối với mọi người, mọi việc; không phải làm là để cho lãnh đạo, cấp trên thấy
chấm điểm, ghi công, mà phải làm với trách nhiệm cao nhất, với lòng tự trọng của người
cán bộ, đảng viên.
2)
Kiệm:
KIỆM trong lời dạy của Bác có ý nghĩa hết sức sâu rộng.Trước hết, kiệm là tiết kiệm sức
lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ
cái to đến cái nhỏ.
Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là một nét nổi bật trong tư duy kinh tế
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo quan đẻm của Người, sản xuất và tiết kiệm luôn gắn liền với
nhau. Đảy mạnh gia tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm là trách nhiệm và là nghĩa vụ thiêng
liêng của của mỗi người công dân đối với đất nước. Chúng ta phải hiểu rằng thực hành tiết kiệm
góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà tức là yêu nước.
Về vấn đề tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn,
không phải là xem đồng tiền to bằng cái nong” mà là “khi không nên tiêu xài thì một đồng xu
cũng không nên tiêu, khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc thì dù bao
nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm”.
Tiết kiệm với mục đích giúp sản xuất phát triển, là để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân, phục vụ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Người phê phán cách thức tiết kiệm
cứng nhắc, nặng nề như: “ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc”. Như vậy, quan điểm
về tiết kiệm của Người mang nội dung khoa học, đó là tích lũy, được coi như một nguyên tắc cơ
7
bản để tái sản xuất mở rộng XHCN. Tiết kiệm là để có được nhiều sản phẩm và để được tiêu dùng
nhiều hơn. Tiết kiệm để sử dụng thời gian, nhân lực, tài lực, trí tuệ của con người đạt hiệu quả
hơn. Tiết kiệm là hình thức giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng và huy động nguồn lực để
xây dựng cơ sỏ vật chất của CNXH. Người thường xuyên nhắc nhở: “Chúng ta chỉ có thể xây
dựng bằng cách gia tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không có tiết kiệm thì khác
nào gió vào nhà trống”.
CẦN với KIỆM phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. CẦN mà không KIỆM,
“thì làm chưng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng
nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. KIỆM mà không CẦN, thì không tăng thêm,
không phát triển được. Cũng Như cái thùng chỉ đựng một ít nước, mà không tiếp tục đổ thêm vào,
lâu ngày chắc chắn nước đó sẽ hao bớt dần, cho dến khi khô kiệt.
Nếu toàn dân ta “thi đua tiết kiệm”:
Các cơ quan tiết kiệm tiền công và của công, để đỡ tốn ngân quỹ;
Chiến sĩ thi đua tiết kiệm thuốc đạn, bằng cách bắn phát nào trúng phát ấy;
Công nhân thi đua tiết kiệm nguyên liệu;
Học sinh thi đua tiết kiệm giấy bút;
Đồng bào hậu phương thi đua tiết kiệm tiền bạc và lương thực, để giúp đỡ bộ
Mỗi người, thi đua tiết kiệm thời giờ;
đội;
Thì kết quả thi đua tiết kiệm cũng bằng kết quả thi đua gia tăng sản xuất.
Một mặt, chúng ta thi đua KIỆM.
Một mặt, chúng ta thi đua CẦN.
Kết quả CẦN cộng với KIỆM là bộ đội sẽ đầy đủ, nhân dân sẽ no ấm, kháng chiến sẽ mau
thắng lợi, kiến quốc sẽ mau thành công, nước ta sẽ mau giàu mạnh ngang hàng với các nước tiên
tiến trên thế giới.
Những tấm gương nêu lên đức tính tiết kiệm
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh được thừa hưởng truyền thống một gia đình xứ Nghệ, rất
coi trọng việc rèn luyện đạo đức cần, kiệm, liêm, chính. Thân sinh Người – Cụ Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc khi vinh danh khoa bảng, được làng xóm đề nghị dựng cho ngôi nhà to như thông lệ với
người hiển vinh, nhưng Cụ chỉ xin 2 gian nhà tranh nhỏ. Ấy là kiệm! Bà ngoại Người – Cụ Hoàng
Xuân Đường dạy con cháu ăn cơm phải ăn hết mọi hạt trong bát, hạt rơi phải nhặt, bữa bữa
nhường con, nhường cháu… Ấy là kiệm! Thân mẫu Người – Bà Hoàng Thị Loan trong ngày giỗ
8
cha ở kinh thành Huế đã nhịn ăn để gói ghém thức ăn cho con mang biếu hàng xóm. Ấy là kiệm,
để nuôi tình bằng hữu, để giáo dục con ý thức nhường nhịn người khác…
Câu chuyện phong bì của Hồ Chủ tịch:
Hồ Chủ tịch dùng một cái phong bì hơn 2,3 lần. Người nói: “Trung bình, cái phong bì là
180 phân vuông giấy (0,018 m2). Mỗi ngày các cơ quan, đoàn thể và tư nhân trong nước ta ít nhất
cũng dùng hết một vạn cái phong bì, tức là 180 thước vuông giấy. Mỗi tháng là 5400 thước. Mỗi
năm là 64800 thước vuông giấy. Nếu ai cũng tiết kiệm, dùng một cái phong bì 2 lần, thì mỗi năm
chỉ tốn một nửa giấy, tức là 32400 thước vuông. Còn 32400 thước thì để dùng cho các lớp bình
dân học vụ, thì chẳng tốt sao? Hơn nữa, nhờ sự tiết kiệm giấy, mà tiền bạc, công phu làm giấy có
thể thêm vào việc kiến thiết khác, thì càng lợi ích hơn nữa…”
Cái thí dụ ấy rất rõ rệt, dễ hiểu. Đối với mọi thứ vật liệu khác đều như thế.
Mấy xã Liên Khu I có sáng kiến làm “Hũ gạo kháng chiến”. Mỗi nhà mỗi ngày cứ bỏ vào
hũ một vốc gạo. Chỉ thế thôi, mà số gạo đủ nuôi anh em dân quân du kích trong xã.
3)
Liêm:
Liêm là liêm khiết, trong sáng, không tham của cải vật chất, không tham địa vị,
không tham sung sướng; không nịnh hót kẻ trên và cũng không thích người khác tâng bốc
mình.Chữ Liêm, theo Bác, còn phải hiểu theo nghĩa rộng là trung với Tổ quốc, hiếu với
nhân dân. Có như thế thì không bao giờ vụ lợi. Tất cả vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc,
Chữ Liêm theo tinh thần, đạo đức của người cách mạng cao cả là thế!
Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm. Cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ Cần.
Có Kiệm mới Liệm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam.
Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là Bất
Liêm.
Người cán bộ, cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm
của tư.
Người buôn bán, mua 1 bán 10, hoặc mua gian bán lậu chợ đen chợ đỏ,tích trữ đầu
cơ.
Người có tiền, cho vay cắt cổ, bóp hầu bóp họng đồng bào.
Người cày ruộng, không ra công đào mương mà lấy cắp nước ruông của láng giềng.
Người làm nghề (bất cứ nghề gì) nhân lúc khó khăn mà bắt chẹt đồng bào.
Người cờ bạc, chỉ mong xoay của người làm cho mình. Đều là tham lam, dều là Bất
Liêm.
Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm).
9
Gặp việc phải, ,mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật úy lạo.
Gặp giặc mà rút ra, không dám đánh là tham sinh úy tử.
Đều làm trái với chữ Liêm.
Do Bất Liêm mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khia hay bí mật, trực tiếp hay gián
tiếp, Bất Liêm tức là trộm cắp.
Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to,cấp thấp thì
quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của
đút, có dịp “dĩ công vi tư”.Vì vậy, cán bộ phải thực hành chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu
cho dân.”Quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót ,thì “quan” dù
không liêm cũng phải hóa ra Liêm.Vì vậy dân phải biết quyền hạn của mình, phải biết
kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện được chữ Liêm. Nhưng trên thực tế thì dân mà
không đưa cái gọi là “hoa hồng”, “quà”… thì chỉ có dân chịu thiệt mà thôi. Khi dân đi làm
giấy tờ thì phải ngồi đợi lâu, phải đi qua nhiều khâu, nhiều quy trình, nhưng rồi cũng được
nghe một câu trả lời là “ chờ”!
Hay vụ PMU 18 vụ tham ô tại dự án cầu Bãi Cháy và sai phạm trong quản lý,do
Bất Liêm nên để lại những hậu quả nhiêm trọng cho ngân sách nhà nước và sự thiệt hại về
vật chất.
Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ Bất Liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì.
4) Chính:
Nội dung của Chính, theo Bác là “không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì
không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà”.Hiểu rộng ra là phải làm theo chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; không làm sai, không vì lợi ích cá nhân để ngày
phát huy điều chính, giảm và tiêu diệt điều tà.
Cần, Kiệm, Liêm, Chính, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần
có ngành, lá, hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải
Chính mới là người hoàn toàn.
Trên quả đất có hàng trăm triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng:
người Thiện và người Ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công
việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc Chính và việc tà.
Làm việc Chính, là người Thiện.
10
Làm việc tà , là người ác.
Siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), Chính là Thiện.
Lười biếng, xa xỉ, tham lam, là tà, là ác.
Đối với mình: không tự cao,tự đại,luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm
điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ
thái độ chân thành, khiêm tốn,đoàn kết thật thà, không dối trá, lừa lộc.
Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Được giao nhiệm vụ
gì quyết làm cho kì được “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng
tránh”.
Bác còn dặn: “Mình là người làm việc phải có công tâm, công đức.Chớ nên của
công dùng vào việc tư, chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh,
chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì
phải dùng những người có tài năng, làm được việc.Chớ vì bà con, bầu bạn mà bổ họ vào
chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình. Phải trung thành
với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng” .Người còn nhấn mạnh,
cán bộ, công chức phải tự mình “chính” trước mới giúp được người khác “chính”, nếu
mình không “chính” mà muốn người khác “chính” là vô lý.
Một sử gia người Mỹ - bà Stenson - nhận định về Hồ Chí Minh: "Một số đông
người đã bị tha hoá chạy theo đời sống vật chất, bất chấp cả nhân phẩm đạo đức, coi sự
hưởng thụ là mục đích của cuộc sống thì nhân loại lại tìm về tấm gương sáng ngời nhân
cách Hồ Chí Minh - một tấm gương cho mọi thế hệ tiếp theo". Đó chính là nền tảng, là
đạo đức thuộc về thì quá khứ, hiện tại và tương lai - Đạo đức Hồ Chí Minh.
5) Chí công vô tư :
Chí công vô tư, là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị ; là làm bất cứ việc
gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi ích của
cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức
cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên
hạ chi lạc nhi lạc). Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó
là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc,
một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định
11
hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu
sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Hồ Chí Minh cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá
nhân. Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng qua mọi thử
thách : Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất
phục.
Chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân.
Người nói : "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc ”. " Khi làm bất
cứ chuyện gì cũng đừng nghỉ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau” ; "phải
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ ”.
Đây là một yêu cầu nửa đối với đạo đức của người cách mạng, nó trái ngược với
chủ nghĩa cá nhân mà Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân như là " Bệnh mẹ ” đẻ ra hàng
loạt các căn bệnh khác. Nếu cuộc sống bị chủ nghĩa cá nhân hoành hành thì đạo đức bị
xuống cấp một cách nghiêm trọng.Do đó, nhiều người bị sa vào tham ô, lãng phí, xa hoa,
tham danh, trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh
quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, xa rời thực tế, quan liêu.
Những nơi bị chủ nghĩa cá nhân xâm hại thì xảy ra mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức,
kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước.
Hồ Chí Minh cho rằng, có chí công vô tư thì lòng dạ mới trong sáng, đầu ốc mới
sáng suốt để chăm làm những việc ích quốc lợi cho dân. Người giải thích : Lòng mình chỉ
biết vì Tổ quốc, vì đồng bào thì sẻ tiến đến chổ chí công vô tư ; có chí công vô tư thì mới
có năm đức tính tốt là Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm – là những phẩm chất đạo đức của
người cách mạng.
Nhìn trở lên bên trên, đến đây chúng ta thấy rỏ hơn cái triết lý phát triển trong hành
động của Hồ Chí Minh ở 8 chữ : "Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí, Công, Vô, Tư ”.
Yêu thương con người
Kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp truyền thống nhân nghĩa với
chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, tiếp thu tinh thần nhân văn của nhân loại qua nhiều thế kỷ,
qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là phẩm
chất đạo đức cao đẹp nhất.
12
Tình yêu rộng lớn dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp
bức, bóc lột. Hồ Chí Minh chỉ ham muốn cho đất nước được hoàn toàn độc lập, dân được
tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chỉ có tình yêu
thương con người bao la đến như vậy mới có cách mạng, mới nói đến chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người khác. Phải có tình nhân ái với cả những
ai có sai lầm, đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, đánh thức những gì tốt đẹp trong mỗi con
người. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, trên nguyên tắc tự
phê bình và phê bình chân thành.
Tình yêu thương con người còn là tình yêu bạn bè, đồng chí, có thái độ tôn trọng
con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Đó là tinh thần quốc tế vô sản, bốn phương vô sản đều là anh em. Đó là tinh thần
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước. Đó là tinh thần đoàn
kết của nhân dân Việt Nam với tất cả những người tiến bộ trên thế giới vì hoà bình, công
lý và tiến bộ xã hội. Sự đoàn kết là nhằm vào mục tiêu lớn của thời đại hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
I.2.
Liên hệ trách nhiệm và nghĩa vụ cảu bản thân - những suy nghĩ về
đạo đức của người lãnh đạo hiện nay.
I.2.1. Đạo đức của cán bộ lãnh đaọ hiện nay – thực trạng và nguyên
nhân.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó được bắt nguồn từ tồn tại xã hội và phản
ánh tồn tại xã hội.Đạo đức có vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia, dân tộc.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra sâu sắc và
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu,
nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước, tiến đến mục tiêu "Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Từ đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở các cấp có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng.
Bác Hồ đã dạy: "Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém ". Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có
đạo đức cách mạng thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Đạo đức là nền
tảng là gốc của mọi cán bộ, đảng viên. Có đạo đức cách mạng, có lối sống giản dị trong
13
sạch, lành mạnh, cán bộ đảng viên sẽ có uy tín, có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
Tuy nhiên, đứng trước sự thay đổi to lớn của nền kinh tế thị trường một bộ phận
cán bộ, đảng viên đã thoái hoá biến chất, làm suy giảm lòng tin của quần chúng nhân dân
với Đảng, với chế độ.
Tại Đại hội lần thứ VII, Đảng ta đã nhận định: "Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức
của một bộ phận cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng".
Đại hội lần thứ VIII đánh giá sự sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống diễn
ra nghiêm trọng hơn: "Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân,
phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đoạ về
đạo đức lối sống" và "Điều đáng lo ngại không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng
cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức".
Đảng ta đã đưa ra nhiều biện pháp để khắc phục tình trạng tiêu cực nêu trên.Song
đến nay tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta đã nhận định: "Tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo
thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, công chức còn diễn ra nghiêm trọng" [17, Tr.80-81].
Đại hội Đảng lần thứ X nhấn mạnh: "Đấu tranh phòng chống tham nhũng
lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp,
thường xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội" [20, Tr.286-287].
Thứ nhất, suy thoái về đạo đức, lối sống trong cán bộ, Đảng viên có xu hướng tăng
cả về số lượng và phạm vi.
Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lý tưởng,
lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của
công, chăm lo lợi ích của tập thể, của nhà nước, với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn
bám, chạy theo đồng tiền.
Đến nay, tình trạng đó đã, đang diễn ra ngay trong Đảng. Từ chỗ chỉ có ở “một bộ
phận” thì nay đã diễn ra ở “một bộ phận không nhỏ”. Trong đó có cả cán bộ Đảng viên có
chức, có quyền.
14
Suy thoái về đạo đức, lối sống làm nảy sinh lãng phí, tham nhũng, nhũng nhiều
dân, trước kia diễn ra ở một số cán bộ, Đảng viên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế, thì nay
xảy ra tất cả các ngành, các lĩnh vực: y tế, giáo dục, văn hóa, thực hiện chính sách xã hội,
tổ chức cán bộ, công tác tham mưu, hoạch địch chính sách cụ thể…
Thứ hai, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng.
Việc này không chỉ có ở Đảng viên trẻ mà còn biểu hiện cả trong một bộ phận cán
bộ, Đảng viên nói chung, nhất là những cán bộ nắm quyền, tiền, và tài sản công. Lối sống
này trái với đạo đức, phẩm chất của người cộng sản “cần kiệm liên chính, chí công vô tư”
như sinh thời Bác Hồ đã dạy.
Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị trung ương VI (lần 2) khóa VIII đã đề cập
đến 5 kiểu “chạy”. Đó là “chạy chức”, trước khi bầu cử; “chạy quyền” trước khi bổ nhiệm,
thuyên chuyển công tác cán bộ; “chạy chỗ”, tìm “chỗ thơm”, “chỗ ngon”, chỗ kiếm được
nhiều lợi (chẳng những cho bản thân mà còn cho cả người thân, người nhà); “chạy lợi” khi
phân chia ngân sách, xét duyệt dự án đầu tư, giao thầu, tính thuế, xét duyệt đề tài nghiên
cứu….; “chạy tội” cho bản thân cho người thân, có trường hợp cho cả những tên tội phạm.
Thứ ba, nói nhiều làm ít; nói nhưng không làm.
Tình trạng này còn xảy ra ở không ít cán bộ, Đảng viên, trái với lời dạy của Bác Hồ
là “nói phải đi đôi với làm”, “dù khó khăn đến mấy cũng kiên quyết làm đúng chính sách
và nghị quyết của Đảng” đúng như báo cáo chính trị trình đại hội đã nêu: “Tình trạng nói
nhiều, làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm còn diễn ra ở nhiều nơi”.
Thứ tư, quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích, ngại nghe sự thật.
Hiện nay còn không ít cấp ủy, người lãnh đạo… còn xa dân, không sát cơ sở,
không hiểu thực tiễn, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới, không nắm được hoạt động, lối sống
của cán bộ dưới quyền, nên có trường hợp đề ra chủ trương chính sách không phù hợp với
thực tế, người dân không đồng tình. Việc nhận xét cán bộ chung chung, thậm chí sai lệch
với mức “vô trách nhiệm”.
Thứ năm, tham nhũng, nhũng nhiễu dân gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, làm
thất thoát tài sản, tiền vốn của nhà nước, của nhân dân và sự hư hỏng của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, Đảng viên.
Tình trạng “nhũng nhiễu”, “vòi vĩnh” dân ở nhiều cán bộ, Đảng viên, công chức
khi thực thi công vụ, chưa tới mức phải truy tố trước pháp luật diễn ra ngày càng nghiêm
trọng trong nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng
15
đến môi trường đầu tư, làm nhiều cán bộ Đảng viên và nhân dân băn khoăn, chưa thật sự
tin tưởng đối với cuộc đấu tranh phòng chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng
nhiễu dân.
Tóm lại, có thể nói tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, về phẩm chất đạo đức,
lối sống dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu của một bộ phận không
nhỏ cán bộ, công chức, Đảng viên diễn ra nghiêm trọng làm cho nhân dân bất bình, lo
lắng, giảm lòng tin đối với Đảng, nhà nước, là nhân tố kìm hãm bước tiến của công cuộc
đổi mới và vẫn là nguy cơ, hiểm họa lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ ta.
Vậy nguyên nhân của tình trạng trên là gì?
- Về yếu tố khách quan:
Do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường
hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường như việc chạy theo lợi ích, lợi
nhuận; sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng bất công xã hội, gian lận thương mại, chủ nghĩa
cá nhân… chưa có giải pháp khắc phục tích cực, trong khi có những mặt trở nên nghiêm
trọng. Tình trạng yếu kém trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội; tệ quan liêu, tham
nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số cán bộ có chức, có quyền…
chậm được ngăn chặn, đẩy lùi. Tất cả đã tác động tạo nên sự hoài nghi, dao động và cả
tiêu cực trong tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi
trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi đó, các thế lực thù
địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan
hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”.
- Về yếu tố chủ quan:
Thứ nhất, do công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức,
hoạt động kém hiệu quả.
Trước hết, về hệ thống nhà trường đào tạo lý luận mở rộng ngày một nhiều; chương
trình cũ, nhiều nội dung trùng lặp, chồng chéo, xa thực tế; đội ngũ giáo viên chưa kịp
chuyển đổi để thống nhất, nên kiến thức cũ, phương pháp lạc hậu; việc thi cử thì dễ dãi
“dong công, phóng điểm”, quản lý văn bằng lỏng lẻo, cộng với yêu cầu thái quá về bằng
16
cấp đối với các loại cán bộ, dẫn tới tình trạng “chạy bằng”. Vì thế, nhiều người có thái độ
sai lệch trong học lý luận chính trị.
Việc tổ chức học tập, nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của
Đảng chưa thật nghiêm túc, chưa truyền đạt được tính khoa học, tính cách mạng sáng tạo,
tính thiết thực của nó tới cán bộ, đảng viên để tạo nên sự chuyển biến tích cực, niềm tin
trong nhận thức làm cơ sở cho hành động đúng và thống nhất của họ.
Nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
chưa dựa trên cơ sở khoa học, cách mạng thì khó có niềm tin vững chắc. Cho nên khi
đứng trước sự vật, hiện tượng, vấn đề họ khó thấy được bản chất của nó để có nhận thức
đúng, dễ ngộ nhận, và tất yếu hệ lụy là dao động, dễ thoái hóa, biến chất. Đó là cội rễ dẫn
tới tiêu cực, sai trái trong hành vi của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Thứ hai, do tình trạng lạc hậu của lĩnh vực lý luận chính trị hiện nay. Đảng ta đã
nhận thức: “Công tác nghiên cứu lý luận của Đảng chưa ngang tầm với sự phát triển của
thực tiễn; chưa giải đáp có căn cứ khoa học, thuyết phục nhiều vấn đề quan trọng do thực
tiễn đặt ra”; “Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết còn chậm, tổ chức thực hiện nghị
quyết của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương vẫn là khâu yếu…”. Sự lạc
hậu của lý luận, một mặt tạo nên băn khoăn, thắc mắc nhiều vấn đề, sự khác biệt, thiếu
thống nhất trong nhận thức, trong hành động; mặt khác lúng túng, không rõ phương cách
giải quyết nhiều vấn đề mà Nghị quyết nêu, thực tiễn đặt ra của thời kỳ quá độ, phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, là do nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, quản lý đảng viên bị buông
lỏng, chấp hành chưa nghiêm.
Nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng nhiều nơi bị vi phạm; quy chế dân chủ còn
nặng về hình thức, thiếu cơ chế thực tế để thực hiện, ở nhiều nơi, nhiều tổ chức nguyên tắc
này bị một số người cơ hội lợi dụng để phục vụ mục đích cá nhân. Công tác cán bộ là
“công việc gốc” của Đảng còn nhiều hạn chế, thiếu khách quan, công tâm, thậm chí có
tiêu cực.
Vì thế nảy sinh tư tưởng ý thức chấp hành nguyên tắc sinh hoạt đảng kém, thiếu tin
tưởng ở công tác cán bộ, thiếu tôn trọng, thiếu niềm tin đối với không ít cán bộ lãnh đạo,
kể cả cấp cao; thiếu nhiệt tình tu dưỡng, phấn đấu… Đó cũng là nguyên nhân căn bản tạo
nên sự suy thoái tư tưởng chính trị, niềm tin, đạo đức… của cán bộ, đảng viên hiện nay.
17
Thứ tư, là do cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện và học tập để chủ nghĩa
cá nhân phát triển, chi phối. Họ nặng tính thực dụng, thiếu tu dưỡng rèn luyện thường
xuyên nên ý thức giác ngộ, lập trường giai cấp phai nhạt, tư tưởng hưởng thụ, bệnh gia
trưởng, hẹp hòi ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy chi phối suy nghĩ và hành vi. Do lười
học tập, nghiên cứu lý luận chính trị, do những yếu kém của công tác này dẫn tới nhận
thức, giác ngộ về hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong không ít
cán bộ, đảng viên yếu kém. Sự chênh lệch về mức sống giữa nhiều người có chức, có
quyền, có tiền và gia đình họ với quảng đại quần chúng nhân dân đang dần trở thành mâu
thuẫn đối kháng. Vì thế họ càng xa dân, không được nhân dân ủng hộ trong thực tế…
Những biểu hiện, phẩm cách trên của một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết làm cho uy
tín của họ giảm sút, nhân dân thiếu niềm tin vào họ…
Thứ năm, là do những yếu kém trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội vừa là
nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán
bộ, đảng viên.
Tình trạng pháp luật chưa đủ, chất lượng chưa cao, thi hành chưa nghiêm ở cả
người duy trì và người chấp hành pháp luật. Sự yếu kém này làm cho phân hóa thu nhập
trong xã hội ngày càng gia tăng; những tiêu cực xã hội không được kiểm soát và xử lý
nghiêm minh đã tạo khoảng cách lớn giữa người làm ăn chân chính, lương thiện với
những người suy thoái đạo đức làm ăn bất chính, kể cả tham nhũng quyền lực để có được
của cải bất chính ngày càng gia tăng, còn là sự khuyến khích người khác không tôn trọng
pháp luật, không cần chính trị cao cả, không cần đạo đức mà nghèo, đói…
Trên đây là những suy nghĩ về đạo đức người lãnh đạo trong xã hội hiện nay, yêu
cầu bức thiết đặt ra là làm sao phải tìm ra những giải pháp tối ưu nhất để nâng cao đạo đức
cách mạng cho cán bộ lãnh đạo hiện nay và trong tương lai.
I.2.2. Liên hệ trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân.
A.
Mai Thanh Thái
Giải pháp 1:
Trước hết đạo đức bộc tôi phải nhìn lại bản thân mình, tìm hiểu bản thân mình và
biết được điều gì thật sự làm cho tôi hạnh phúc. Vấn đề đạo đức đầu tiên đối với tôi là
khám phá chính mình. Nếu tôi tiến hành công việc này một cách trung thực và dũng cảm,
tôi sẻ khám phá ra những thứ mà tôi không thể ngờ được rằng chúng đang hiện hữu trong
18
tôi, những thứ vốn được che đậy ở bên trong. Tôi đã từng nghe các nhà khoa học là tôi chỉ
mới sử dụng 5% năng lực của mình trong cuộc sống hằng ngày, 95% còn lại tôi chưa bao
giờ sử dụng đến vì tôi chưa bao giwof phát hiện ra chúng. Thật là uổng phí! Và đối với
những người khác, điều này cũng xảy ra tương tự. Quá là uổng phí! Vì thế, việc khám phá
những tiềm năng của bản thân trở thành nhiệm vụ hàng đầu đối với tôi. Tôi là một người
thiếu đạo đức nếu tôi chỉ sử dụng 5% năng lực của mình.
Từ việc nghiên cứu đề tài này tôi đã tìm ra cho mình một phương hướng phấn đấu
để khẳng định mình và hoàn thiện bản thân mình. Để đáp ứng những yêu cầu của công
cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một là; Bồi dưỡng đạo đức cách mạng: Đạo đức cách mạng là đạo đức mới, là
phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con người xã hội chủ nghĩa. Bởi như song thì
có nguồn mới có nước, không có nguồn thì song cạn. cây phải có gốc, không có gốc thì
cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu “người có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng”.
Lĩnh hội các đức tính: Cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống như bốn
mùa của trời đất; nếu thiếu đi một trong bốn phẩm chất đó thì con người không thể trở
thành người theo đúng nghĩa. Nhưng đạo đức cách mạng không phải là cái có sẵn, không
phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu trang, rèn luyện bền bỉ hằng ngày của
mổi con người. Đối với thế hệ trẻ, phải luôn nổ lực rèn luyện đạo đức cách mạng: thực
hiện đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và
đoàn kết, không kiêu ngạo, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những
thói hư, tật xấu; thường xuyên phê bình và tự phê bình…để tự giúp đở nhau cùng tiến bộ.
Hai là; bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học - kỹ thuật: Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà không có
tài thì làm việc gì cũng khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nửa,
chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm hảm sự phát triển: “Dốt thì
dại, dại thì hèn”. Vì vậy để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh
việc trau dồi đạo đức cách mạng, thanh niên còn phải hăng hái học tập, trong đó có học
tập lý luận chính trị của chủ nghĩa Mác -Lê Nin. Nghiên cứu học tập lý luận Mác – Lê Nin
là nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách mạng ngọn đèn pha soi sang cho hoạt
động thực tiễn.
19
Cùng với việc học tập lý luận cách mạng, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập
văn hóa, khoa học – kỹ thuật…; sử dụng những tri thức đó để xây dựng xã hội mới. Bởi
chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Để thế hệ trẻ có thể tích
lũy được những tri thức cần thiết, tạo tiền đề phát huy năng lực sang tạo, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng xã hội chủ nghĩa cảu dân tộc.
Ba là; bồi dưỡng thể chất để có sức khỏe dỏe dai, thể chất cường tráng, tinh thần
mạnh mẽ và nghị lực lớn, không có cách nào khác ngoài việc hăng hái, tích cực rèn luyện
thể dục thể thao. Có sức khỏe mới có thể làm việc.
Thấm nhuần và thực hiện những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc nói trên của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Giúp tôi khám phá đến đỉnh cao của những tiềm năng ở trong tôi. Nó khiến
tôi nhận ra lý tưởng tự hoàn thiện mình trong suốt cuộc đời. Nó khuyến khích tôi vượt lên
trên sự tồn tại đơn thuần để đạt đến một tầm cao mới trong nhận thức. Nó giúp tôi tạo lập
một cuộc sống hướng vào sự hoàn thiện cá nhân và phụng sự xã hội. Góp phần xây dựng
đất nước ta ngày càng đẹp hơn, vững mạnh hơn nữa, như mong ước cháy bỏng của Người
trước khi từ biệt thế giới này.
Giải pháp 2:
Một là; tiến hành thường xuyên và nghiêm túc việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đặc
biệt là giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Qua đó nâng cao nhận thức,
trách nhiệm, tích cực tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, nhân cách và phòng
chống có hiệu quả chủ nghĩa cá nhân ích kỷ cho cán bộ, đảng viên. Tiếp tục thực hiện tốt
cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một cách thiết thực,
hiệu quả, tạo niềm tin trong Đảng và trong nhân dân.
Hai là; thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó biện pháp hàng
đầu là đẩy mạnh và nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong
gương mẫu, tự tu dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Việc tự phê bình và phê bình,
phải chỉ rõ ưu, khuyết điểm và nguyên nhân; ra sức học tập và xây dựng kiểu mẫu tốt;
kiên quyết đấu tranh sửa chữa khuyết điểm; thông qua tự phê bình và phê bình giúp nhau
tiến bộ, tăng cường đoàn kết trong Đảng, nâng cao kỷ luật và uy tín của Đảng.
Ba là; tiến hành đồng bộ hệ thống kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên nhất là sự
kiểm tra, giám sát của tổ chức Đảng và sự giám sát của công luận đối với phẩm chất đạo
20
- Xem thêm -