ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên 33,12 triệu ha, trong đó diện tích có
rừng 12,61 triệu ha và 6,16 triệu ha đất trống đồi núi trọc là đối tượng của sản
xuất lâm nông nghiệp. Như vậy, ngành Lâm nghiệp đã và đang thực hiện hoạt
động quản lý và sản xuất trên diện tích đất lớn nhất trong các ngành kinh tế
quốc dân. Diện tích đất lâm nghiệp phân bố chủ yếu ở trên các vùng đồi núi
của cả nước, đây cũng là nơi sinh sống của 25 triệu cư dân thuộc nhiều dân tộc
ít người, có trình độ dân trí thấp, phương thức canh tác lạc hậu, kinh tế chậm
phát triển và đời sống còn nhiều khó khăn.
Hoạt động sản xuất lâm nghiệp trong giai đoạn vừa qua đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt công tác bảo vệ và phát triển rừng trên
phạm vi toàn quốc đã ngăn chặn được tình trạng suy thoái về diện tích và chất
lượng rừng, diện tích rừng tăng từ 9,30 triệu ha năm 1995 lên 11,31 triệu ha
năm 2000 và 12,61 triệu ha năm 2005 (bình quân tăng 0,3 triệu ha/năm). Hiện
nay bình quân mỗi năm trồng mới được khoảng 200.000 ha rừng. Sản lượng
khai thác gỗ rừng trồng đạt khoảng 2.000.000 m3/năm để cung cấp nguyên
liệu cho chế biến hàng lâm sản xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những tồn tại, đặc biệt diện tích rừng tuy có
tăng nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên vẫn tiếp tục
bị suy giảm, ở một số nơi diện tích rừng tiếp tục bị tàn phá. Vì vậy, trong
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020 đã xác định: Quản lý,
sử dụng và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển lâm nghiệp.
Trong bối cảnh lâm nghiệp Việt Nam như đã nêu trên, quản lý rừng bền
vững là định hướng chiến lược quan trọng nhằm phát huy tối đa tiềm năng của
ngành góp phần đóng góp vào nền kinh tế quốc dân; cải thiện đời sống người
dân vùng rừng núi; bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái rừng. Nhận thức rõ
điều này, em đã lựa chọn và thực hiện đề tài Nghiên cứu một số vấn đề thực
hiện chính sách quản lý rừng bền vững ở Việt Nam.
1
PHẦN I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
1.1. Tổng quan về quản lý rừng bền vững
Trong khi khái niệm “bền vững” được thế giới bắt đầu sử dụng từ
những năm đầu thế kỷ 18 để chỉ lượng gỗ lấy ra khỏi rừng không vượt quá
lượng gỗ mà rừng có thể sinh ra, tạo tiền đề cho quản lý rừng bền vững sau
này thì ở Việt Nam mãi đến cuối thế kỷ 20 mới dùng khái niệm “Điều chế
rừng” để quản lý, kinh doanh lâm nghiệp với hy vọng sản lượng rừng được
duy trì ở những lần khai thác tiếp theo. Phương án điều chế rừng đầu tiên của
Việt Nam (được thực hiện 7/1989) là Phương án điều chế rừng lâm trường Mã
Đà (Đồng Nai) với sự trợ giúp của chuyên gia nước ngoài (Dự án VIE/82/002
do UNDP/FAO trợ giúp) để phát triển Phương thức điều chế rừng ở Việt Nam.
Nhiệm vụ chính là xây dựng một mẫu phương án tiêu chuẩn; hướng dẫn lập kế
hoạch điều chế và đưa ra những đề xuất cho việc điều chế rừng lâm trường Mã
Đà. Cho đến nay, ngành lâm nghiệp vẫn đang dùng thuật ngữ “Điều chế
rừng”, coi nó như một công cụ, một phương pháp truyền thống để quản lý
rừng của các chủ rừng. Nghĩa là, tất cả các chủ rừng cho đến nay đều quản lý
rừng theo cách lập phương án điều chế được thực hiện theo những quy định tại
Quyết định 40/2005/QĐ-BNN, ngày 7/7/2005 của Bộ NN-PTNT về Quy chế
khai thác gỗ và lâm sản khác.
Mặc dù khái niệm quản lý rừng bền vững đã có từ những năm cuối thập
kỷ 80 của thế kỷ 20 và không ngừng phát triển nhưng đến nay đối với cán bộ
lâm nghiệp khái niệm này vẫn còn khá mơ hồ về mục đích và các hoạt động
của quản lý rừng bền vững. Thật vậy, một kết quả điều tra mới đây của
ORGUT cho thấy: có 85% số người được phỏng vấn trả lời là có biết về thuật
ngữ Quản lý rừng bền vững. Nhưng khi hỏi tiếp theo là: Những hoạt động
chính để tiến tới quản lý rừng bền vững là gì? thì có tới 75 % trong số đó trả
lời là không biết (Báo cáo Đánh giá nhu cầu đào tạo về quản lý rừng bền vững
của Việt Nam do ORGUT thực hiện trong khuôn khổ Chương trình quản lý
bền vững rừng tự nhiên và tiếp thị lâm sản - GTZ tài trợ)
2
Ngoài ra, việc chuyển đổi từ quản lý rừng truyền thống sang quản lý
rừng bền vững hiện nay đang được thúc đẩy bởi một công cụ thị trường là
“Chứng chỉ rừng”. Ý tưởng cấp chứng chỉ rừng do Hội đồng Quản trị Rừng
(FSC) đề cập đến từ những năm đầu thập kỷ 90 như là một “công cụ hữu hiệu,
giúp cải thiện quản lý rừng của thế giới”; “là công cụ chính sách mạnh mẽ
nhất” trong quản lý rừng. Nhiều nước trên thế giới đã khá thành công trong
việc cấp chứng chỉ rừng nên đã góp phần đáng kể quản lý rừng bền vững. Tính
đến 11/2007, Hội đồng quản trị rừng quốc tế (FSC) đã cấp 913 chứng chỉ rừng
cho 78 nước với tổng diện tích 93.898.717 ha. Trong khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương, FSC đã cấp 81 chứng chỉ với diện tích 3.144.345 ha trong đó
Trung Quốc, Newzelands, Indonesia, Úc là các nước dẫn đầu về diện tích rừng
được cấp chứng chỉ.. Như trên đã nêu, Chứng chỉ rừng đã được các nước trên
thế giới biết đến và sử dụng từ gần 20 năm nay; trong khi đó, ở Việt nam hiện
nay khái niệm Chứng chỉ rừng đang còn là rất mới mẻ với cán bộ, người dân
hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp. Tại cuộc điều tra đánh giá nhu cầu đào
tạo về quản lý rừng bền vững do ORGUT thực hiện vào tháng 9/2007 tại các
cơ quan lâm nghiệp ở trung ương và địa phương cho thấy: 45 % số người
được phỏng vấn có biết về khái niệm chứng chỉ rừng. Nhưng trong số này chỉ
có 34 % có hiểu biết rất mơ hồ về điều kiện được cấp chứng chỉ rừng.
Thực tế hiện nay cho thấy: Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng là
những khái niệm rất mới mẻ, chưa có tiền lệ và chưa có thực tế nên chưa hề có
kinh nghiệm. Thậm chí đang có sự tranh cãi về những điểm khác nhau của hai
khái niệm này; nhiều người cho rằng: Tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng là tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững; khi một đơn vị được cấp chứng chỉ rừng thì có
nghĩa là ở đơn vị đó đạt quản lý rừng bền vững. Đây là những vấn đề cần được
tiếp tục thảo luận trên các diễn đàn lâm nghiệp.
1.2. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững
Các chính sách cam kết của Chính Phủ là nhân tố quan trọng để quản
lý rừng bền vững. Các chính sách liên quan đến quản lý rừng bền vững được
3
hiểu là những chính sách điều tiết, chi phối trực tiếp và có tác động đến việc
quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên rừng và đất rừng một cách bền vững.
Cho đến nay đã có 25 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quản
lý rừng bền vững. Trong đó, số văn bản thuộc các cấp ban hành là: Quốc hội:
3, Chính phủ: 7, Thủ tướng Chính phủ: 5, Bộ NN-PTNT: 10. Các đạo luật lâm
nghiệp và Chiến lược lâm nghiệp quốc gia thể hiện cam kết thực hiện quản lý
rừng bền vững.
Các vấn đề về Quản lý rừng bền vững là một yếu tố chủ chốt trong các
chính sách, chiến lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được
thể hiện trong các văn bản pháp quy dưới đây:
- Luật bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Đây là đạo luật quan trọng nhất
về lâm nghiệp. Trong đó tại Điều 9 đã quy định các hoạt động để đảm bảo
quản lý rừng bền vững: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm bảo
phát triển bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù
hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, chiến lược phát triển lâm nghiệp;
đúng quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa
phương; tuân theo quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử dụng
hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa ra
những quy định liên quan tới quản lý rừng bền vững thuộc các lĩnh vực, như:
Điều tra, đánh giá, lập quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên; Bảo vệ thiên
nhiên; Bảo vệ đa dạng sinh học; Bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên;
Bảo vệ môi trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên
thiên nhiên; Phát triển năng lượng sạch.
- Luật Đất đai, năm 2003 đã quy định: Việc sử dụng đất phải tôn trọng các
nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm
tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh (Điều 11).
- Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020: Trong bản Chiến
lược, Việt nam đã khẳng định quan điểm phát triển lâm nghiệp là: Quản lý, sử
4
dụng và phát triển rừng bền vững là nền tảng cho phát triển lâm nghiệp. Các
hoạt động sản xuất lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng quản lý bền vững thông
qua quy hoạch, kế hoạch bảo vệ phát triển rừng nhằm không ngừng nâng cao
chất lượng rừng. Phải kết hợp bảo vệ, bảo tồn và phát triển với khai thác rừng
hợp lý. Trong Chiến lược này, nhiệm vụ được đặt ra là: Quản lý bền vững và
có hiệu quả 8,4 triệu ha rừng sản xuất, trong đó 4,15 triệu ha rừng trồng và
3,63 triệu ha rừng tự nhiên. Phấn đấu ít nhất có được 30% diện tích rừng sản
xuất có chứng chỉ rừng.
5
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Kết quả hoạt động quản lý rừng bền vững ở cấp Trung ương
2.1.1. Tuyên truyền, tập huấn đào tạo về quản lý rừng bền vững:
Ở Việt Nam, công tác tuyên truyền về quản lý rừng bền vững bắt đầu
được tiến hành từ đầu năm 1998 chủ yếu do Tổ công tác quốc gia thực hiện
với sự hỗ trợ của các tổ chức như: Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách
hành chính (REFAS) của GTZ, WWF Đông dương…Hình thức phổ cập về
quản lý rừng bền vững rất phong phú, gồm: hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng,
tỉnh; giảng dạy, tập huấn và phổ cập kiến thức
2.1.2. Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động quản lý rừng bền
vững, bao gồm:
a./ Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp, giai đoạn 2006-2020 có 5 chương
trình trọng điểm là:
(1) Quản lý và phát triển rừng bền vững
(2) Bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển dịch vụ môi trường
(3) Chế biến thương mại lâm sản
(4) Nghiên cứu, giáo dục, đào tạo và khuyến lâm
(5) Đổi mới thể chế, chính sách, kế hoạch, giám sát ngành
Trong đó, chương trình quản lý rừng bền vững là trọng tâm với 3 nội
dung chính của chương trình là:
(1) Xây dựng và hoàn thiện các điều kiện cần thiết để quản lý rừng bền vững;
như: (i) Thiết lập lâm phận ổn định trên cơ sở quy hoạch 3 loại rừng; (ii) Hoàn
thiện hệ thống đánh giá tài nguyên rừng, cơ sở dữ liệu; (iii) Cải cách quyền sở
hữu, quyền sử dụng rừng bằng giao khoán, cho thuê; (iv) Hoàn thiện các tiêu
chuẩn quản lý rừng bền vững, lâm sinh, sử dụng rừng.
(2) Thực hiện quản lý bền vững rừng tự nhiên; gồm: (i) Xây dựng và thực hiện
phương án điều chế rừng (Kế hoạch quản lý rừng); (ii) chứng chỉ rừng.
6
(3) Thực hiện quản lý rừng bền vững cho rừng trồng; gồm: (i) Quy hoạch rừng
nguyên liệu gắn kết với chế biến trong mọi thành phần kinh tế; (ii) Cải thiện
giống, phương thức lâm sinh, sản lượng và điều chế rừng; (iii) Thử nghiệm và
mở rộng chứng chỉ rừng trồng mọi quy mô, mọi thành phần kinh tế.
Một chương trình quan trọng khác của Chiến lược đã được tập trung
vào là: Bảo vệ, bảo tồn rừng và cung cấp dịch vụ môi trường. Chương trình
này được kết nối chặt chẽ với chương trình quản rừng bền vững; vì cả hai
chương trình sẽ rất cần thiết trong việc đạt được quản lý bền vững đối với tất
cả các loại rừng ở Việt Nam.
2.1.3. Xây Xây dựng lộ trình thực hiện quản lý rừng bền vững:
Theo đề xuất của Viện Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng thì sẽ có hai
giai đoạn: Giai đoạn 1 (2006-2010): Xây dựng các điều kiện cần và đủ để tiến
hành quản lý bền vững rừng tự nhiên và rừng trồng.
Giai đoạn 2 (sau năm 2010): Tiến hành quản lý rừng bền vững.
2.1.4. Xây dựng các điều kiện để quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng
- Ở Việt Nam hiện nay, do diện tích lâm phận ổn định chưa được xác định trên
thực địa, quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp chưa hoàn chỉnh; chất lượng rừng
thấp; độ che phủ rừng thấp…Vì vậy, để tiến hành quản lý bền vững rừng tự
nhiên và rừng trồng; trước mắt cần xây dựng “các điều kiện cần và đủ”; việc
làm này được thực hiện trong giai đoạn 2006-2010; với các hoạt động sau: (i)
Tiếp tục dự án 661 để có đủ diện tích rừng phòng hộ và rừng sản xuất. (ii) Rà
soát và quy hoạch lại 3 loại rừng (rừng phòng hộ và rừng sản xuất và rừng đặc
dụng). (iii) Quy hoạch sử dụng đất vĩ mô.
- Đồng thời với việc “xây dựng các điều kiện cần và đủ”, tại những khu rừng
đã có đủ điều kiện như: có quy hoạch sử dụng đất lâu dài đã hợp lý, có diện
tích và ranh giới rừng ổn định thì vẫn tiến hành việc quản lý rừng bền vững.
2.1.5. Thực hiện chứng chỉ rừng
- Hiện nay, Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng (thuộc Hội KHKT Lâm nghiệp Việt Nam) đã dự thảo xong Tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng,
7
đang trình Tổ chức chứng chỉ rừng của thế giới công nhận. Do vậy, việc cấp
chứng chỉ rừng ở Việt Nam chưa được thực hiện mà đang trong quá trình thí
điểm cấp chứng chỉ và xây dựng lộ trình để cấp chứng chỉ rừng. Đến năm
2006, ở Việt Nam mới có một đơn vị duy nhất được cấp chứng chỉ rừng của
FSC với diện tích 9.904 ha rừng trồng của Công ty liên doanh trồng rừng New
O.J tại Quy Nhơn (Bình Định).
Theo đề xuất của Viện quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng thì lộ
trình cấp chứng chỉ rừng từ 2006 đến 2020, như sau:
- Xây dựng bộ tiêu chuẩn Quản lý rừng bền vững quốc gia: Đã hoàn thành dự
thảo tiêu chuẩn quốc gia với 10 nguyên tắc, 55 tiêu chí và 158 chỉ số và các
kiểm chứng phản ánh đặc thù về chính sách và tập quản sản xuất lâm nghiệp
của Việt nam, đã trình FSC và đang chờ thẩm định.
- Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về Chứng chỉ rừng cho các chủ
rừng và các bên liên quan, cho cộng đồng dân cư sống trong rừng và gần rừng.
- Đào tạo năng lực về nghiệp vụ cấp chứng chỉ rừng cho cán bộ lâm nghiệp
- Đánh giá chất lượng quản lý từng khu rừng do chủ rừng thực hiện (20082010)
- Tổ chức mạng lưới các mô hình Quản lý rừng bền vững tự nguyện (20062015)
- Cấp chứng chỉ rừng (2008-2020).
2.2. Kết quả hoạt động quản lý rừng bền vững ở cấp địa phương
Một số hoạt động liên quan đến quản lý rừng bền vững đã và đang diễn
ra ở cấp địa phương , bao gồm:
2.2.1. Hiện nay các chủ rừng đang sử dụng “Điều chế rừng” như một công
cụ, một phương pháp truyền thống để quản lý rừng
“Điều chế rừng là xây dựng một kế hoạch tác nghiệp cụ thể, chỉ rõ thời
gian và các biện pháp kỹ thuật thích hợp cho từng khoảnh, tiểu khu rừng,
trong một hay nhiều luân kỳ khai thác, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều
hành và thực thi sản xuất, nhằm đảm bảo cho rừng sản xuất được lâu dài, liên
8
tục với năng suất, chất lượng cao, bền vững” (Điều 2, QĐ 40/2005/QĐ-BNN).
Thực chất của Phương án điều chế rừng là xây dựng kế hoạch tác
nghiệp cụ thể, trong đó đưa ra thời gian và các biện pháp kỹ thuật thích hợp
cho từng khoảnh, tiểu khu trong một hay nhiều chu ký khai thác. Tuy nhiên,
khi sử dụng “Điều chế rừng” để quản lý rừng cũng bộc lộ nhiều hạn chế nhất
định, rõ nét nhất là nội dung phương án điều chế (Điều 8 của Quyết định 40),
chủ yếu là xây dựng kế hoạch khai thác, kinh doanh rừng từng năm, 5 năm của
đơn vị. Trong khi đó, hàng loạt các hoạt động liên quan đến mục tiêu bảo vệ
môi trường và mục tiêu xã hội lại chưa được Phương án điều chế quy định
một cách cụ thể.
Từ đó dẫn đến phương án điều chế rừng hiện nay của các chủ rừng
thường tập trung vào việc đảm bảo mục tiêu kinh tế của rừng, nghĩa là rừng
cho nhiều sản phẩm, có năng suất cao và lâu dài liên tục. Nên các mục tiêu
quan trọng khác như môi trường và xã hội lại chưa được chú ý đúng mức đến
trong phương án điều chế rừng của các đơn vị sản xuất.
Khảo sát tình hình tại 5 tỉnh: Hòa Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Đắc
Lắc và Ninh Thuận, gần đây cho thấy các đơn vị quản lý cơ sở (lâm trường,
công ty lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ...) chỉ tập trung vào việc lập
kế hoạch khai thác hoặc trồng rừng theo các chỉ tiêu kế hoạch được giao từ
cấp trên còn các nội dung xã hội và môi trường thường làm sơ sài. Nguyên
nhân của tình trạng trên là thiếu một văn bản hướng dẫn lập kế hoạch quản lý
rừng bền vững trên cả ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường cho một
đơn vị quản lý rừng cấp cơ sở
2.2.2. Thí điểm về quản lý rừng bền vững tại lâm trường
Trong khuôn khổ hoạt động của “Chương trình sử dụng và quản lý rừng
bền vững rừng tự nhiên và tiếp thị lâm sản” do GTZ tài trợ, thí điểm về quản
lý rừng bền vững được thực hiện tại 5 lâm trường thuộc Thanh Hóa, Ninh
Thuận, Yên Bái, Hòa Bình và Đắc Lắc.
9
2.2.3. Thí điểm Cấp chứng chỉ rừng “theo nhóm” tại Yên Bái do Viện Quản
lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng thực hiện nhằm giúp các chủ rừng quy mô
nhỏ tiếp cận được với việc cấp chứng chỉ rừng. Theo thí điểm này, một số tổ
chức địa phương đóng vai trò “trung gian” giữa tổ chức cấp chứng chỉ và
những nhà sản xuất gỗ nhỏ để để giúp họ nhận chứng chỉ “theo nhóm”. Cấp
chứng chỉ “theo nhóm” đã được áp dụng thành công ở các nước Đông và Tây
nước Anh và Papua New Guinea trong khuôn khổ chương trình sinh thái lâm
nghiệp do EU tài trợ.
2.2.4. Quỹ rừng nhiệt đới (TFT) tại Việt nam đang tiến hành hỗ trợ thực hiện
quản lý rừng và chững chỉ rừng cho các đơn vị quản lý rừng sau: Công ty lâm
nghiệp Lơ Ku và Công ty lâm nghiệp Hào Quang tỉnh Đăk Nông; Trạm Lập
tỉnh Gia Lai; Công ty lâm nghiệp Long Đại tỉnh Quảng Bình; Công ty lâm
nghiệp Bảo Yên tỉnh Lào Cai.
Tóm lại: Mặc dù trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp đã được đặt ra
là: sử dụng bền vững 8,4 triệu ha rừng sản xuất (phấn đấu ít nhất có được 30%
diện tích có chứng chỉ rừng); 5,6 triệu ha rừng phòng hộ và 2,16 triệu ha rừng
đặc dụng. Nhưng đến nay vẫn chưa xác định được diện tích lâm phận ổn định
quốc gia nêu trên đế có kế hoạch quản lý rừng bền vững. Cho nên có thể nói
một cách tổng quát: Tại các địa phương đến nay chưa có nơi nào tiến hành
quản lý rừng bền vững; chưa có một diện tích rừng nào được quy hoạch và có
kế hoạch đưa vào quản lý rừng bền vững.
10
III. NHẬN XÉT VỀ VIỆC THỰC HIỆN QUẢN LÝ RỪNG BỀN VỮNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những tồn tại của các chính sách hiện nay
- Như trên đã nêu, mặc dù Việt Nam đã có định hướng rõ ràng về quản lý rừng
bền vững được thể hiện trong Luật Bảo vệ và phát triển rừng và Chiến lược
lâm nghiệp quốc gia. Nhưng các chính sách cụ thể dưới các đạo luật này (Nghị
định, Quyết định, Thông tư ...) lại chưa có hướng dẫn đầy đủ, nhất là chưa đưa
ra các tiêu chuẩn để đánh giá rừng được quản lý bền vững nhằm đảm bảo mọi
tác động đối với rừng đạt được sự bền vững.
- Chính sách, thể chế, trình độ, năng lực của Việt nam vẫn chưa phù hợp với
tiêu chuẩn cấp chứng chỉ rừng của Hội đồng quản trị rừng thế giới (FSC), cần
nâng cấp, sửa đổi, thay thế.
- Các chính sách bảo tồn rừng của Việt Nam mới chỉ chú trọng vào rừng đặc
dụng mà ít quan tâm tới sản xuất là chưa phù hợp với tiêu chuẩn số 9 của FSC
về các khu rừng có giá trị bảo tồn cao.
- Chưa có chính sách đào tạo, giáo dục và phổ cập về quản lý rừng bền vững
cho học sinh, sinh viên. Nên cán bộ sau khi tốt nghiệp đại học lâm nghiệp
hoặc các chuyên ngành liên quan chưa được giới thiệu về quản lý rừng bền
vững và chứng chỉ rừng, chưa biết lập kế hoạch quản lý rừng bền vững, chưa
biết xây dựng cơ sở dữ liệu, công tác giám sát và đánh giá….
- Thực tế cho thấy, tại các cơ quan lâm nghiệp ở trung ương và địa phương
phần lớn (68%) số người được phỏng vấn cho rằng khung chính sách hiện nay
chưa phù hợp với yêu cầu của quản lý rừng bền vững; chỉ có rất ít (32%) số
người được phỏng vấn nói là khá phù hợp (Kết quả điều tra đánh giá nhu cầu
đào tạo về quản lý rừng bền vững do ORGUT thực hiện vào tháng 9/2007).
3.2. Những khó khăn, trở ngại khi thực hiện quản lý rừng bền vững ở
Việt Nam
Việc chuyển đổi các phương thức quản lý thông thường sang phương
thức quản lý rừng bền vững đòi hỏi một loạt thay đổi về khuôn khổ chính sách
11
ở cấp trung ương; thái độ, quan điểm và sự đồng thuận của các sơ sở sản xuất
kinh doanh lâm nghiệp và ngay cả người dân địa phương. Do tính phức tạp
này nên khi thực hiện quản lý rừng bền vững thường gặp những khó khăn, trở
ngại; được thể biện ở các khía cạnh sau đây:
- Về chính sách và công nghệ: Như trên đã phân tích và dẫn chứng, khuôn khổ
chính sách thường lạc hậu lại không đồng bộ; các chính sách không theo kịp với
nhu cầu và phương thức quản lý tiến bộ trong phát triển lâm nghiệp. Hiện nay
chúng ta còn thiếu các chính sách, những hướng dẫn kỹ thuật và tiêu chuẩn cụ
thể về quản lý rừng bền vững. Ngoài ra, Quy trình kỹ thuật điều tra, thiết kế kinh
doanh rừng lạc hậu, chậm áp dụng các thiết bị và công nghệ tiên tiến.
- Về sinh thái: Rừng của Việt Nam có tính đa dạng và phức tạp rất cao của
các hệ sinh thái. Việc xác định các tiêu chuẩn để quản lý bền vững mỗi một hệ
sinh thái là điều rất khó khăn.
- Về kinh tế: Thiếu nguồn vốn cho chuẩn bị, thực hiện và giám sát các kế
hoạch quản lý rừng bền vững. Chưa xác định nguồn vốn cụ thể cho các hoạt
động quản lý rừng bền vững của các công ty lâm nghiệp, các lâm trường và
của các chủ rừng. Thiếu cơ chế đảm bảo sự tham gia của các đối tượng hữu
quan vào quản lý nguồn tài nguyên rừng. Các điều kiện thị trường, nhu cầu về
sản phẩm có chứng chỉ chưa rõ ràng.
- Về xã hội: Quyền sở hữu và sử dụng rừng và đất rừng của người dân sống
trong vùng rừng đã được thể hiện trong các chính sách hiện hành. Nhưng lợi
ích đem lại từ quản lý và bảo vệ rừng hiện tại chưa thực sự hấp dẫn với họ.
Người dân địa phương chưa thực sự tham gia vào các quá trình ra quyết định
liên quan đến môi trường sống của họ.
- Về chứng chỉ rừng: Mặc dù Chứng chỉ rừng là một công cụ hữu hiệu để
quản lý rừng bền vững. Nhưng những điều kiện để được cấp chứng chỉ rừng
lại rất khắt khe, khó khăn mà chúng ta phải đối mặt, đó là: Tiêu chuẩn cấp
chứng chỉ của FSC quá cao, đây là lo ngại chính của các nhà sản xuất gỗ. Chi
12
phí để đạt được tiêu chuẩn chứng chỉ rừng thường cao hơn nhiều so với giá
bán gỗ đã được cấp chứng chỉ.
Tất cả những khó khăn trở ngại nêu trên sẽ là những thách thức đối với
các nhà lâm nghiệp trong quá trình chuyển đổi quản lý rừng theo hướng bền
vững mà trong đó nghiên cứu để tìm tòi một phương pháp lập kế hoạch quản
lý rừng bền vững là bước ban đầu rất quan trọng.
13
IV. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN QUẢN LÝ
RỪNG BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
4.1. Bài học kinh nghiệm
Trong quá trình thực hiện quản lý rừng bền vững ở Việt Nam, mặc dù
mới được thực hiện trong những năm gần đây nhưng có thể rút ra một số kinh
nghiệm chính sau đây:
- Các chủ rừng cần xây dựng một phương án quản lý rừng bền vững và chứng
chỉ rừng tuân theo tiêu của của FSC thay cho phương án điều chế rừng đơn
giản hiện nay.
- Xây dựng một lộ trình cho sản phẩm lâm nghiệp quốc gia tiếp cận một cách
vững chắc với các yêu cầu khắt khe của thị trường gỗ quốc tế.
- Các chủ rừng cần nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện quản lý
rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng.
- Tăng cường sự tham gia tích cực của các bên liên quan trong quá trình thực
hiện quản lý rừng bền vững thông qua việc thường xuyên giải thích, tuyên
truyền lợi ích của việc thực hiện cấp chứng chỉ rừng đối với các chủ rừng.
- Sự tham gia của người dân, của cộng đồng là một trong những yếu tố căn
bản giúp cho việc quản lý rừng bền vững được tốt hơn. Kinh nghiệm thực tế
cho thấy: Cộng đồng là người trực tiếp tác động đến tài nguyên rừng theo hai
hướng tích cực và tiêu cực: được hưởng lợi từ rừng đồng thời cũng chịu các
tác động do suy thoái rừng.
- Thông thường đào tạo giáo dục quản lý rừng hiện nay chủ yếu thực hiện tại
các trường đaị học, chưa quan tâm tới đối tượng cộng đồng. Vì vậy, thiết lập
một hệ thống giáo dục đào tạo đến cộng đồng để nâng cao nhận thức về rừng,
môi trường, kỹ năng quản lý rừng cho cộng đồng sẽ góp phần thúc đẩy có hiệu
quả tiến trình quản lý rừng bền vững dựa vào cộng đồng
4.2. Một số kiến nghị đối với thực hiện quản lý rừng bền vững ở Việt nam
(1). Cần nhà quản lý rừng có nhiều kinh nghiệm thực tiễn: Nhân tố cơ bản góp
phần thành công trong quản lý rừng nhiệt đới là những nhà quản lý rừng được
14
đào tạo rất cơ bản và giàu kinh nghiệm thực tiễn. Kiến thức tốt về kỹ thuật, tổ
chức, điều phối, lập kế hoạch, lập dự toán và theo dõi giám sát các hoạt động
là các nhân tố quan trọng giúp nhà quản lý có thể ra quyết định và ứng phó với
những biến động thường xuyên của quá trình phát triển.
(2). Xây dựng lâm phận ổn định để bảo vệ rừng tự nhiên: Một yêu cầu đặc biệt
quan trọng giúp quản lý rừng bền vững thành công là xây dựng lâm phận ổn
định, cho cả mục tiêu phòng hộ và mục tiêu sản xuất. Việc thành lập lâm phận
ổn định sẽ giúp thường xuyên kiềm chế được mức độ khai thác và có thể đảm
bảo cung cấp một lượng gỗ thường xuyên cố định cho ngành công nghiệp. Sự
ổn định đó cũng củng cố niềm tin cho doanh nghiệp, giúp họ có những quyết
định đầu tư dài hạn để phát triển sản xuất.
Xác định ranh giới rừng ổn định lâu dài, rõ ràng trên hiện trường là rất
cần thiết, là bước đi quan trọng trong việc xác định và lập bản đồ lâm phận ổn
định. Đây là yếu tố quyết định đến hiện trạng rừng. Thực tế cho thấy là không
thể xác định được diện tích rừng được quản lý bền vững hoặc diện tích, vị trí,
hình dạng của khu rừng dự định khai thác hàng năm nếu không có ranh giới rõ
ràng trên hiện trường.
(3). Trao quyền sử dụng đất rừng lâu dài cho chủ sử dụng: Trao quyền sử
dụng tài nguyên rừng và đất rừng lâu dài cho các cơ quan quản lý lâm nghiệp,
các hợp tác xã, các công ty lâm nghiệp tham gia vào thực hiện, quản lý các
chương trình lâm nghiệp, không chỉ là nguyên tắc chính sách cơ bản mà còn là
bước đi mang tính thực tiễn cao cần phải thực hiện để thúc đẩy quản lý rừng
bền vững. Sự cam kết chính sách rõ ràng là rất cần thiết để các chủ rừng có
quyền sử dụng đất rừng lâu dài, yên tâm đầu tư kinh doanh sản xuất gỗ hoặc
bảo vệ đầu nguồn và đa dạng sinh học, đồng thời giúp các cộng đồng địa
phương, những người có cuộc sống phụ thuộc vào rừng, phát triển các loài cây
thuốc và các loại lâm sản ngoài gỗ khác một cách ổn định lâu dài.
Đối với những nơi đã có sự cam kết về mặt chính sách cho mục tiêu
quản lý rừng bền vững, bước đi tiếp theo trong việc cụ thể hóa chính sách là
15
xây dựng các hình thức trao quyền sử dụng rừng và đất rừng hợp lý đáng tin
cậy. Ban hành chính sách lâm nghiệp là một bước đi quan trọng nhằm: (i) Xác
định loại rừng và quyền sử dụng là tư nhân hay công cộng, quyền lợi và nghĩa
vụ của các chủ rừng đối với từng loại rừng; (ii) Bảo vệ rừng và hệ sinh thái
rừng tự nhiên để duy trì năng suất lập địa, sự đa dạng sinh học, cảnh quan và
tạo cơ sở cho phát triển kinh tế xã hội; (iii) Xây dựng, phê duyệt và thực hiện
các kế hoạch quản lý rừng; (iv) Xây dựng và hỗ trợ phát triển kinh tế rừng đa
chức năng trong sự kết hợp giữa bảo tồn hệ sinh thái và sử dụng tài nguyên
cho mục tiêu kinh tế.
(4). Cân bằng giữa mục tiêu sản xuất gỗ, môi trường và xã hội: Rừng cho rất
nhiều lợi ích cho cả cấp địa phương và quốc gia. Sản xuất gỗ là mục tiêu chính
mang lại thu nhập cho Chính Phủ, công ty và chủ sử dụng rừng và đó cũng là
động lực chính của việc khai thác rừng nhiệt đới. Rừng còn là nơi điều tiết
nguồn nước vùng đầu nguồn cung cấp nước cho các nhà máy thủy điện. Rừng
cũng là nơi lưu giữ các giá trị đa dạng sinh học, là nơi vui chơi, giải trí, tham
quan nghỉ dưỡng cho dân. Chính vì vậy, khi xây dựng kế hoạch quản lý rừng
cần có cái nhìn lâu dài, cân bằng được giữa các mục tiêu lấy gỗ, bảo vệ môi
trường và xã hội. Cụ thể là, các nhà lập kế hoạch và quản lý rừng phải nhận ra
giá trị của rừng đối với nhiều thành phần xã hội và làm thế nào đó để lập và
thực hiện các kế hoạch, các chương trình trong mối cân bằng và phải đảm bảo
tính bền vững của một tổng thể.
(5). Quản lý rừng bền vững phải theo kế hoạch rõ ràng: Mục tiêu của bản kế
hoạch quản lý là cụ thể hóa các chính sách quốc gia để điều phối và thực hiện
các hoạt động tác nghiệp để đạt được mục tiêu cụ thể, cho một địa phương cụ
thể và, trong một giai đoạn cụ thể.
Bản kế hoạch cần xác định rõ mục tiêu, hoạt động nhưng phải có tính
linh hoạt, mềm dẻo nhằm thích ứng với các hoàn cảnh đổi thay còn chưa
lường trước được. Kế hoạch có thể được lập bằng nhiều phương pháp khác
nhau, nhưng thường có những tiêu chuẩn: (i) Kế hoạch phải tránh được những
16
vấn đề trước đó gặp phải, bằng cách đưa ra những giải pháp có thể thực hiện
được; (ii) Bản kế hoạch không lên lập cho một giai đoạn quá dài nhằm tránh
những gì đưa ra không phù hợp với thực tiễn; (iii) Trong bản kế hoạch, mục
tiêu cần được nêu thật rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. Không nên đưa ra qúa nhiều
mục tiêu để rồi cuối cùng không thực hiện được; (iv) Tránh đưa ra quá nhiều
ưu tiên cần hành động. Kế hoạch cần xác định những hoạt động phù hợp với
thực tiễn nhưng cũng cần cân nhắc trên cơ sở kinh phí có thể sử dụng.
(6). Cần điều tra rừng liên tục: Điều tra rừng liên tục là cơ sở để lập kế hoạch
quản lý rừng, và đặc biệt quan trọng trong lập kế hoạch quản lý rừng bền vững
cho mục tiêu sản xuất gỗ. Xu hướng gần đây, người ta còn chú ý đến việc điều
tra lâm sản ngoài gỗ.
(7). Xác nhận vai trò và giúp đỡ cộng đồng: Như một nguyên tắc cơ bản, quản
lý rừng bền vững đòi hỏi những người và các tổ chức tham gia quản lý rừng
cần xác nhận vai trò và quyền lợi của cộng đồng trong quản lý rừng nhiệt đới,
chia sẻ kiến thức chuyên môn và lợi ích với người dân địa phương, nhằm hỗ
trợ họ phát triển cuộc sống. Đối thoại giữa đại diện của cộng đồng và các chủ
rừng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong quá trình thương thảo, hiểu biết lẫn
nhau, tìm hiểu nguyện vọng của mỗi bên trong việc quản lý và sử dụng rừng.
(8). Quản lý rừng cần có sự phối hợp liên ngành và gắn với phát triển nông
thôn: Trước hết phải thấy rằng có rất nhiều nguyên nhân gây ra mất rừng,
xuyên suốt nhiều ngành khác nhau trong nền kinh tế quốc gia. Vì vậy, không
nên nhìn nhận lâm nghiệp trên quan điểm tách rời với các ngành khác. Ví dụ,
chính sách nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc giảm sức ép vào tài
nguyên rừng; ngành công nghiệp tạo cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho dân;
ngành giáo dục nâng cao nhận thức bảo vệ rừng.
(9). Bảo vệ hệ sinh thái cần hài hòa với sinh kế bền vững: Bảo vệ hệ sinh thái
cần được thực hiện hài hòa với việc xây dựng sinh kế bền vững. Sinh kế thông
qua việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như nông lâm
kết hợp, xây dựng vườn rừng được xem là có nhiều tiềm năng và nên được mở
17
rộng và phát triển. Huy động người dân tham gia hướng dẫn du lịch sinh thái
cũng là một phương pháp tiếp cận mới cần được nghiên cứu, ứng dụng.
(10). Theo dõi và giám sát các hoạt động quản lý rừng : Một nhiệm vụ quan
trọng trong quản lý rừng là duy trì việc theo dõi thường xuyên liên tục kết quả
thực hiện các hoạt động đã được xác định trong bản kế hoạch. Các báo cáo
theo dõi giám sát là cơ sở kiểm soát các hoạt động có được thực hiện như kế
hoạch một cách minh bạch hay không và cũng là cơ sở để điều chỉnh kế hoạch
khi cần thiết.
18
- Xem thêm -