Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận hóa thực phẩm vai trò và tác dụng của các nguyên tố vi lượng...

Tài liệu Tiểu luận hóa thực phẩm vai trò và tác dụng của các nguyên tố vi lượng

.PDF
48
1
139

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC VÀ THỰC PHẨM ­­­­­­­­ TIỂU LUẬN HÓA HỌC THỰC PHẨM  ĐỀ T À    I:    VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA CÁC  NGUYÊN TỐ VI LƯỢNG GVHD: ThS. Đặng Thị Ngọc Dung Nhóm thực hiện: 1. Phạm Thị Ánh Hồng ­ 13116043 2. Lương Thị Minh Thủy ­ 13116139 3. Nguyễn Thị Minh Thùy ­ 13116138 TP. Hồ Chí Minh – 11/2014 MỤC LỤC Trang   DANH MỤC BẢNG                                                                                                        ....................................................................................................      2   DANH MỤC HÌNH                                                                                                         .....................................................................................................      2 DANH MỤC BẢNG BẢNG 1. HÀM LƯỢNG IOD CHO PHÉP SỬ DỤNG ( RDAs)[3]...............................22 BẢNG 2.HÀM LƯỢNG IOD CÓ TRONG 100 G THỰC PHẨM:................................23 BẢNG 3.MỨC AN TOÀN VÀ LƯỢNG SỬ DỤNG HÀNG NGÀY CỦA FLUOR[3] 28 BẢNG 4.HÀM LƯỢNG SELEN CÓ TRONG 100 G THỰC PHẨM:...........................34 BẢNG 5.TÓM TẮT CÁC YẾU TỐ LÀM TĂNG HOẶC GIẢM HẤP THU CHẤT  KHOÁNG VI LƯỢNG [14].............................................................................................45 DANH MỤC HÌNH Hình 1. Các nguồn thực phẩm giàu sắt............................................................................11 Hình 2. Các nguồn thực phẩm giàu kẽm.........................................................................16 Hình 3. Các nguồn thực phẩm giàu đồng.........................................................................19 Hình 4.Các nguồn thực phẩm giàu iod.............................................................................23 Hình 5. Các nguồn thực phẩm giàu fluor.........................................................................28 2 I­ GIỚI THIỆU ­ Nguyên tố vi lượng là những nguyên tố có hàm lượng dưới 0,01%  trong cơ  thể, chỉ  chiếm 0,05% tổng lượng các nguyên tố  trong cơ  thể,   đóng vai trò sinh học quan trọng trong điều kiện nồng độ thấp thích hợp.[1] ­ Trong cơ  thể  người có thể  tìm thấy khoảng 70 loại nguyên tố  vi   lượng hầu như bao gồm đại bộ phận các nguyên tố, trừ các nguyên tố đa  lượng tồn tại trong tự nhiên.[1] ­ Nồng độ và dạng chức năng tính của các nguyên tố vi lượng được   giới hạn trong một phạm vi hẹp. Sự phân bố của các nguyên tố  vi lượng   trong cơ thể rất không đồng đều nhau. Sự chênh lệch về hàm lượng giữa  các nguyên tố  khác nhau, hoặc giữa các tổ  chức và vị  trí khác nhau của  3 cùng 1 nguyên tố có thể lên đến 2­3, thậm chí 10 cấp số lượng. Biện pháp   kiểm tra xác định trước kia chỉ có thể dùng để xác định được một số chất  dinh dưỡng có hàm lượng tương đối lớn như protein, lipit, và cacbohidrat  và lượng của chúng được tính bằng % gam, các chất khoáng, vitamin,…  thì  được tính bằng % miligam. [1] ­ Ngoài ra, còn có những nguyên tố  nếu chỉ  với điều kiện kiểm tra   xác định hiện thời thì chỉ có thề biết là chúng tồn tại trong thức ăn nhưng  không rõ được chức năng và hàm lượng của chúng, gọi là nguyên tố đánh  dấu, về  sau đổi thành nguyên tố  vi lượng. Mấy chục năm gần đây, cùng  với sự  ra đời của những loại dụng cụ  máy móc cực kỳ  tinh xảo, điều  kiện làm thực nghiệm siêu sạch, sự xuất hiện của các loại thuốc thử siêu   tinh  khiết  và  việc  nuôi  dưỡng   các   động  vật  làm  thí   nghiệm  nên  việc   nghiên cứu các lnguyên tố  vi lượng mới được phát triển nhanh chóng.  Nguyên tố  vi lượng trong cơ  thể  phần nhiều là các nguyên tố  kim loại  chúng tham gia phản  ứng sinh hóa của cơ  thể  khi mất đi một hay nhiều   điện tử để hình thành nên các ion dương.[1] ­ Trong đó đa số  là kim loại nặng với mật  độ  4g/cm 3  (có khi là  5g/cm3). Ngoài ra, còn có các nguyên tố phóng xạ cực vi lượng như thori,  radi, urani,..  Căn cứ theo tác dụng sinh học các nguyên tố  vi lượng được   chia thành: ­ Các nguyên tố  vi lượng cần thiết đã được xác nhận là không thể  thiếu trong việc duy trì hoạt động sống bình thường của cơ  thể, lượng   cung  ứng mỗi ngày cho cơ  thể  người được tính bằng mg hoặc µg. Các  nguyên tố  vi lượng mà quốc tế  đã công nhận tổng cộng 14 loại là đồng,   coban, selen, bo, flo, sắt, iot, mangan, molyden, niken, kẽm và asen, crom,  4 vanadium.[1] ­ Có những nguyên tố  vi lượng hàm lượng về  mặt cơ  bản rất rõ  ràng, nhưng nó có cần thiết cho cơ  thể con người hay không thì vẫn còn  đang nghiên cứu như bari …[1] ­  Có nhữngnguyên tố vi lượng đã được cơ bản công nhận là nguyên  tố có hại, nhưng quan sát trên động vật cho thấy cá biệt trong số đó lại có  khả năng là cần thiết cho cơ thể người như  cadimi, beri,… Nguyên tố vi  lượng không thể thiếu được đối với cơ  thể người nhưng nếu nhiều hơn   thì có hại, đây là lĩnh vực mới.[1] II­ VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA MỘT SỐ CHẤT  VI LƯỢNG QUAN TRỌNG 1. Sắt (Fe) 1.1. Vai trò và tác dụng: ­ Sắt có vai trò rất cần thiết đối với mọi cơ thể sống, ngoại trừ một  số vi khuẩn. Nó chủ yếu liên kết ổn định bên trong các protein kim loại, vì   trong dạng tự do nó sinh ra các gốc tự do nói chung là độc lập với tế bào.   Nói rằng sắt tự  do không có nghĩa là nó tự  do di chuyển trong các chất   lỏng trong cơ  thể. Sắt liên kết chặt chẽ  với mọi phân tử  sinh học vì thế  nó sẽ gắn với các màng tế bào, axit nucleic, protêin v.v…[6] ­ Phần rất lớn chất sắt trong cơ  thể   được phân tán trong đưởng  máu, đặc biệt ở sắc tố hemoglobin của hồng cầu erthyrocytes hay còn gọi   là hồng huyết cầu, chiếm khoảng 70% tổng số chất sắt của cơ thể. Ngoài   ra khoảng 3­5% chất sắt phân tán ở loại hemoglobin khác ở bắp thịt gọi là   myoglobin. 5 ­ Hemoglobin có trong tế  bào hồng cầu ( làm hồng cầu có màu đỏ,  đóng vai trò quan trọng  trong sự hô hấp, chuyển đổi khí oxy và cacbonic   nhờ   tác   động   biến   đổi   của   những   nguyên   tử   sắt   trong   cấu   tạo.   Hemoglobin (Hb) là 1 protein màu, phức tạp thuộc nhóm chromoteid màu  đỏ, có  nhóm  ngoại  là hem. Hb là thành phần chủ  yếu của hồng cầu,   chiếm 28% và tương ứng với 14,6g trong 100ml máu.[6] ­    Myoglobin chỉ  có  ở  cơ  vân, có tác dụng như  là nơi dự  trữ  oxy,  chúng kết hợp với các chất dinh dưỡng để  giải phóng năng lượng cho  hoạt động cơ  bắp. Myoglobin được xem như  là hemoglobin của bắp thịt,  phân tử  của nó chỉ  khoảng ¼ phân tử  của hemoglobin, trong phân tử  của  nó chỉ có một nhân protoperphyrin nghĩa là chỉ có 1 nguyên tử sắt thay vì 4   nguyên tử sắt như phân tử hemoglobin.[6] ­ Khoảng 5­10% (0,5gram) tổng số  chất sắt trong cơ  thể  được tìm  thấy   trong   những   cấu   chất   liên   quan   đến   hoạt   động   hô   hấp   như   các  enzyme trực tiếp hay gián tiếp tác dụng trong những phản ứng trong sự hô  hấp và sự sống của động vật như là enzyme cytochrome oxidase hay chất  cytochrome liên hệ  trong các phản  ứng phóng thích năng lượng từ  chất   đường bột, acid béo xảy ra trong thể mitochodrion trong tế bào chất.[6]  Sắt rất cần thiết cho nhiều chức năng sống: ­   Chức năng   hô hấp: tạo nên hemoglobin để  vận chuyển oxy từ  phổi vế tất cả các cơ quan. Trong cơ thể con người có khoảng 5­6g chất  sắt, kiên kết với nhiều proteint khác nhau. Khoảng 2/3 lượng sắt nằm  trong huyết cầu tố  và protein trong hồng cầu. Sắt tham gia vào quá trình  tổng hợp hồng cầu và là thành phần của huyết cầu tố, Hb có trong tế bào  hồng cầu ( làm hồng cầu có màu đỏ, giúp chuyên chở  dưỡng khí đi nuôi   6 các tế bào và giúp loại bỏ thán khí ra khỏi cơ thể).[6] ­ Nó tham dự vào quá trình tạo thành Myoglobin, sắc tố hô hấp của  cơ cũng như tạo thành đặc tính dự trữ oxy của cơ. Myoglobin chỉ có ở cơ  vân, có tác dụng như  là nơi dự  trữ  oxy, chúng kết hợp với các chất dinh  dưỡng để giải phóng năng lượng cho hoạt động cơ bắp.Sắt bị oxy hóa và  khử  dễ  dàng, nó tham gia vào cấu tạo của nhiều enzyme, đặc biệt trong   chuỗi hô hấp sắt đóng vai trò vận chuyển điện tích.[6] ­ Sắt còn giúp chuyển hóa beta­carotene thành sinh tố  A, tạo thành  chất collagene để  liên kết các tế  bào với nhau.Ngoài ra, sắt còn tham gia  vào thành phần một số  enzyme oxy hóa khử  như  catalase, peroxydase và  các cytochrome ( những chất xúc tác sinh học quan trọng trong cơ  thể ).  Nó đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất ra năng lượng oxy hóa, vân  chuyển oxy, hô hấp của ti lạp thể và bất hoạt các gốc oxy có hại.[6] ­ Sắt còn dự trữ oxy cho cơ bắp, vô hiệu hóa một số thành phần lạ  xâm nhập vào cơ thể, tham gia tổng hợp các hooc­môn tuyến tiền liệt. Ba   chức năng này sẽ tham gia vào kênh năng lượng của hiện tượng oxy hóa.[6] ­ Sắt là một trong những khoáng chất cần thiết cho cơ thể người để  thực hiện các chức năng. Sắt có những chức năng vô cùng quan trọng  trong cơ  thể. Sắt đóng vai trò như  một phương tiện vận chuyển cho các  electron trong tế bào giúp vận chuyển oxy từ phổi đến các mô của cơ thể  bởi tế  bào hồng cầu và như  một phần tích hợp của hệ  thống enzyme  trong các mô khác nhau.[6] 1.2. Các bệnh lý về sắt: ­ Thiếu sắt sẽ  hạn chế sự luân chuyển oxy đến các tế  bào gây nên   mệt mỏi, giảm năng suất lao động và suy giảm miễn dịch. Mặt khác, tiêu  7 thụ quá nhiều chất sắt có thể dẫn đến ngộ độc và thậm chí gây tử vong.[6] ­ Thiếu sắt là một trong những bệnh thiếu dinh dưỡng phổ biến trên   thế giới. Người ta  ước tính rằng có 600­700 triệu người mắc bệnh thiếu   máu, thiếu sắt mà hầu hết là ở các nuớc đang phát triển. Thiếu máu, thiếu  sắt là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng phổ biến ở Việt Nam  với 32% phụ  nữ  mang thai và 34% trẻ  em dưới 5 tuổi mắc bệnh, 50%   trường hợp thiếu máu là do thiếu sắt. Nguời ta còn ước tính rằng tỉ lệ tử  vong hàng năm vì mắc bệnh thiếu máu  ở  Việt Nam là 160.  Ước tính có   khoảng 6000 trẻ sơ sinh Việt Nam hàng năm có nguy cơ tử vong trong giai   đoạn trước và sau khi sinh bởi vì mẹ  mắc bệnh thiếu máu nghiêm trọng.   Ðối với trẻ từ 6­24 tháng tuổi thì bệnh thiếu máu sẽ  tổn hại đến sự  phát   triển bình thường của não, ảnh hưởng dến sự tập trung.[6] ­ Tuy nhiên theo   như    nghiên cứu của Liên minh Cải thiện Dinh   duỡng Toàn cầu, Viện Dinh dưỡng Quốc gia tại Hà Nội và Viện Nghiên  cứu và Phát triển thì tỷ  lệ  thiếu máu và thiếu sắt đã giảm đáng kể  trong  một thập kỷ qua.[6]  Thiếu sắt:  ­ Nguyên nhân chính gây nên bệnh thiếu sắt là không cung cấp đủ  lượng sắt cần thiết trong chế  dộ ăn hàng ngày. Ðây cũng là nguyên nhân  gây bệnh thiếu máu phổ biến nhất trên toàn thế giới. Bệnh thiếu máu phát  triển dần dần và luôn bắt đầu bởi sự thiếu cân bằng chất sắt khi nhu cầu   bổ  sung sắt không được đáp  ứng đầy dủ. Sự  mất cân bằng này làm cạn  kiệt sự lưu trữ sắt trong khi nồng độ  hemoglobin, một dấu hiệu của chất  sắt, vẫn bình thuờng. Sự  cạn kiệt sắt trong cơ  thể  gây nên bệnh thiếu  máu thiếu sắt. Các nguyên nhân khác gây bệnh thiếu máu thiếu sắt là bị  8 nhiễm ký sinh trùng đuờng ruột. Phụ nữ  ở độ  tuổi sinh đẻ, phụ  nữ mang   thai, trẻ sơ sinh thiếu cân và sinh non, trẻ sơ sinh, trẻ mới tập đi và các em  nữ   ở  tuổi dậy thì là những đối tượng có nguy cơ  mắc bệnh thiếu máu   thiếu sắt cao nhất vì những nguời này cần hàm lượng chất sắt cao. Nhu  cầu tiêu thụ sắt ở phụ nữ mang thai cao gấp đôi người không mang thai vì  lượng máu gia tăng trong suốt quá trình mang thai để cung cấp cho thai nhi  và mất máu trong quá trình sinh nở.[6]  ­  Những triệu chứng của bệnh thiếu máu thiếu sắt bao gồm:    1. Mệt mỏi nhiều 9.   Tăng   khả   năng   nhiễm     2. Da nhợt nhạt trùng    3. Ốm yếu 10. Móng tay giòn    4. Khó thở 11. Nhịp tim không đều    5. Nhức đầu 12. Chán ăn    6. Hoa mắt chóng mặt 13.   Hội   chứng   chân   không     7. Lạnh tay và chân  yên   8. Khó chịu 1.3. Nhu cầu và nguồn bổ sung sắt:  Nhu cầu hàng ngày: ­  Nếu bạn bị  thiếu sắt  ở  mức độ  nhẹ  hoặc vừa, bạn nên cố  gắng khắc   phục diều này thông qua chế  độ  ăn uống trước tiên. Bạn cũng nên bổ  sung thịt   đỏ  và rau xanh càng nhiều càng tốt trong bữa ăn. Phải đảm bảo rằng bạn cũng  dùng đủ lượng vitamin C dễ giúp hấp thụ chất sắt từ thực vật tốt hơn.[6]    Nguồn bổ sung: 9 ­ Bổ  sung sắt được chỉ  dịnh khi chế  độ  ăn uống không thể  khôi phục lại  mức độ  thiếu sắt trong khoảng thời gian nhất dịnh. Những thực phẩm bổ sung   chỉ  quan trọng khi một nguời đang có những triệu chứng lâm sàng của bệnh   thiếu máu thiếu sắt. Mục đích của việc bổ sung sắt đường uống là cung cấp đủ  sắt để  khôi phục lại mức độ  lưu trữ  sắt thông thường và để  bổ  sung sự  thiếu  hụt hemoglobin. Thường phải mất đến 6 tháng để  bổ  sung sắt trước khi hàm  lượng sắt trở lại bình thường. Nếu bạn đang dùng thực phẩm bổ  sung chất sắt   bạn nên gặp bác sĩ thường xuyên để kiểm tra mức độ máu. Bạn chỉ nên bổ sung   sắt theo đơn thuốc của bác sĩ nếu không bạn sẽ  có thể  dùng sắt quá liều dẫn   đến sắt dư  thừa trong máu và lưu trữ  trong các cơ  quan như  gan và tim. Tình  trạng này có thể  gây ngộ  độc sắt vì chỉ  một lượng sắt rất ít được bài tiết khỏi   cơ  thể. Ðiều này có thể  gây tổn thương đến các cơ  quan và suy tim. Những  người bị rối loạn máu đòi hỏi truyền máu thường xuyên cũng có nguy cơ bị quá  tải sắt và được khuyên nên tránh xa các thực phẩm bổ sung chất sắt. [6] ­ Có 2 loại chất sắt trong chế độ ăn uống là sắt có nguồn gốc từ động vật  và sắt có nguồn gốc từ thực vật.       + Sắt có nguồn gốc từ động vật (thịt màu đỏ) dễ hấp thụ hơn từ thực vật (   các loại rau ). Thực phẩm từ  động vật chứa sắt bao gồm thịt màu đỏ  (thịt bò,  cừu và heo), thịt gia cầm ( gà, vịt ), cá, sò và gan, thận. Huyết động vật cũng là   nguồn bổ sung sắt tốt nhất.[6]        + Những loại thực vật chứa sắt bao gồm ngũ cốc nguyên hạt, đậu, đậu  lang, các loại rau có lá màu xanh và trứng. Các loại rau có lá màu xanh nhu rau   bina, cải xoan, bông cải, mù tạt và củi cải là những nguồn thực phẩm chứa sắt   dồi dào nhất. Vitamin C giúp tăng cuờng hấp thụ  chất sắt từ  thực vật, vì vậy  những người ăn chay nên dùng đủ lượng vitamin C cần thiết.[6]  1 2. Kẽm (Zn) Hình 1. Các nguồn thực phẩm giàu sắt 2.1. Vai trò và tác dụng: ­  Kẽm là nguyên tố  cần thiết để  duy trì sự  sống của con người và động   1 vật. Toàn bộ  cơ  thể  người chứa độ  2­3 g kẽm, xấp xỉ  lượng sắt và gấp 10  lượng đồng. Kẽm được hấp thu  ở  ruột non, tích lũy trong gan và từ  gan, kẽm   được “xuất kho” vào máu và tùy theo sự  cần thiết. Kẽm được bài tiết 90% từ  tụy ra phân, còn 10% theo nước tiểu. Từ  mẹ, kẽm qua nhau thai  để  vào thai,  nhưng khi đứa trẻ ra đời còn tích lũy kẽm.[3] ­ Hàng trăm năm trước đây người ta đã phát hiện kẽm có trong cơ thể thực   vật, động vật, người và khẳng định rằng nó cần thiết để  cho cây cỏ  trưởng   thành. Bốn chục năm gần đây người ta thấy kẽm có vai trò quan trọng  ở  động  vật và ở người, cụ thể nó giúp quá trình tạo máu, sinh trưởng và phát triển của   cơ  thể, nó cũng đẩy mạnh sự  chuyển hóa các chất, sự  oxy hóa khử  và sự  trao   đổi năng lượng trong cơ thể.[3] ­ Kẽm cũng có vai trò quan trọng trong sự hoạt động của tuyến yên, tuyến  tụy, tuyến sinh dục nam. Chẳng hạn, khi thêm muối kẽm vào chất “hướng sinh  dục” ( do tuyến yên tiết ra) sẽ  làm chất này hoạt động mạnh gấp 25 lần, kẽm   cũng có mặt trong chất insulin ( với tỉ lệ 0.36%) do tuyến t ụy ti ết ra, các protein   chứa kẽm và các enzyme như  superoxit dismutas. Kẽm cũng có mặt trong dịch  hoàn, buồng trứng, tinh trùng…, làm tăng sự hoạt động của chúng. Ngoài ra, kẽm   có tác dụng kích thích tạo hồng cầu và hemoglobin.[3] ­ Vai trò kẽm trong các enzyme được nghiên cứu chi tiết hơn các kim loại  khác, vì kẽm tham gia vào các hoạt động của trên 300 enzyme trong các phản  ứng sinh học quan trọng, nó có mặt trong nhiều enzyme chuyển hóa, enzyme hô  hấp, và các enzyme tiêu hóa. Đặc biệt các enzyme cần thiết cho sự  tổng hợp   protein, acid nucleic cũng như  sự  tổng hợp, bài tiết và hoạt động của nhiều  hormone tăng trưởng quan trọng như GH, IGF­1, testosteron, insulin, thymutin.[3] ­ Do đó, kẽm cần thiết cho sự phiên mã gen, sinh sản, tái tạo và nhân đôi  1 tế  bào, cần cho sự tăng trưởng và phát triển bình thường của các chức năng về  miễn dịch, tiêu hóa, não, nội tiết, xương, cơ, sự trưởng thành giới tính cũng như  chống oxy hóa.[3] ­ Theo một số nguồn thì việc sử dụng các loại thuốc chứa kẽm có thể đem  lại sự miễn dịch đối với cảm lạnh hay cúm, mặc dù điều này còn gây tranh cãi.[3] 2.2. Các bệnh lý về kẽm: ­ Khi thiếu kẽm, sẽ  có rối loạn chuyển hóa protid, làm cơ  thể  thải nhiều  nitơ, do đó ngừng lớn và sút cân.  Ở  động vật ăn thiếu kẽm thấy: rụng lông,  chậm lớn, suy mòn, tổn thương da, giảm sức sinh sản hoặc mất khả năng sinh  sản.[3] ­ Thị giác, vị giác, khướu giác và trí nhớ có liên quan đến kẽm và sự  thiếu   hụt kẽm có thể gây ra sự hoạt động không bình thường của các cơ quan này. ­ Trường hợp thiếu kẽm nặng, còn có thể  dẫn đến viêm da, dầy sừng,   sạm và bong da mặt ngoài hai cẳng chân (vẩy cá), hói, loạn dưỡng móng ( móng   nhăn, có vệt trắng, chậm mọc), khô mắt. Viêm quanh hậu môn, âm hộ, tiêu  chảy. Tăng  nhạy cảm đối với bệnh nhiễm trùng, gây ra nhiễm trùng tái diễn.  Kích thích thần kinh, rối loạn nhận thức, mắc chứng ngủ lịm, chậm phát triển  tâm thần vận động. Chậm phát triển giới tính, giảm khả năng tuyến sinh dục, ít  tinh trùng, bệnh bất lực, suy dinh dưỡng nặng. ­ Mất đi một lượng nhỏ kẽm làm cho đàn ông sụt cân, giảm khả năng sinh  dục và có thể mắc bệnh vô sinh. Phụ  nữ trong thời kỳ mang thai mà thiếu kẽm  sẽ làm giảm trọng lượng trẻ sơ sinh, thậm chí thai có thể chết. ­ Một số người có vị giác hay khướu giác bất thường do thiếu kẽm. Kẽm   cũng cần thiết cho thị lực, kẽm giúp cơ thể chống lại bệnh tật. Bạch cầu cần có  kẽm để chống lại nhiễm trùng và ung thư.[3] 1 ­ Thiếu kẽm cũng dẫn đến thiếu máu. ­ Những người mắc bệnh nhồi máu cơ tim có hàm lượng kẽm khá cao. ­ Quá nhiều kẽm trong cơ  thể  có thể  gây hại như  nôn mửa, đau dạ  dày,  yếu cơ và tổn thương thần kinh. Những nghiên cứu gần đây cho biết hàm lượng   kẽm cao trong cơ thể có liên quan đến bệnh mất trí, hay gặp ở người cao tuổi.[3]  Kẽm là vi chất quan trọng trong duy trì sức khỏe và dinh dưỡng của con  người.   Bổ  sung  vừa   đủ   lượng   kẽm có  thể   phòng chống suy  nhược   và tăng  cường miễn dịch. Tuy nhiên, quá nhiều kẽm lại phản tác dụng, gây suy giảm  miễn dịch.[3] 2.3. Nhu cầu và nguồn bổ sung kẽm:  Nhu cầu hằng ngày: ­ Trong cơ thể có khoảng 2500mg kẽm, 90% kẽm trong cơ thể nằm trong   nội bào, trong đó có 30% được phân bố  trong bộ  xương và 60% trong cơ. Bình  thường, hàm lượng kẽm trong cơ thể là 20mcg/g thể trọng, nhưng nó có thể lên  đến 1,5 lần (30 mcg/g thể  trọng)  trong thời kỳ  cơ  thể   đang tăng trưởng  và  trưởng thành. Trong thời kỳ mang thai, có sự huy động của kẽm từ cơ thể người   mẹ sang thai nhi, nên trong thời kỳ này hàm lượng kẽm trong máu của người mẹ  có thể giảm đến 50%. Các đặc điểm trên thể hiện sự cần thiết của kẽm đối với   sự tăng trưởng ở trẻ em.[3] ­ Nhu cầu đòi hỏi cung cấp hằng ngày khoảng 5 – 19 mg. Mỗi ngày nên   cung cấp cho cơ  thể  một lượng kẽm cần thiết : 15 mg đối với nam giới và 12  mg đối với nữ  giới. Phụ  nữ mang thai hoặc cho con bú, những người mổ  xong   và người bị đái tháo đường thì cần nhiều hơn.[3]  Nguồn bổ sung: ­ Từ  động vật: sữa mẹ, sữa bò, trứng, sò,  ốc, tôm, cua, cá, thịt, con hàu,   1 patê gan.[3] ­ Từ thực vật: gừng, mầm các loại hạt.[3] 1 Hình 2. Các nguồn thực phẩm giàu kẽm 3.   Đồng (Cu) 3.1. Vai trò và tác dụng: ­  Đồng tự bản thân nó là một chất ôxy hóa. Tuy vậy trong cơ thể nó lại có   vai trò của chất chống ôxy hóa bởi vì đồng là một thành phần trong enzyme  chống ôxy hóa superoxide dismutase. Enzyme này bảo vệ  tế  bào khỏi bị hư  hại   do các gốc tự do và sự peroxide.[8] ­ Đồng   cũng   là   một   thành   phần   của   protein,   ceruloplasmin   trong   huyết   tương. Ceruloplasmin kiểm soát nồng độ một số hormone trong máu và cần thiết  cho sự tạo thành tế bào hồng cầu[8] ­ Đồng thúc đẩy sự  hấp thu và sử  dụng sắt để  tạo thành hemoglobin của  hồng cầu. Nếu thiếu đồng trao đổi sắt cũng sẽ  bị   ảnh hưởng, nên sẽ  bị  thiếu   1 máu và sinh trưởng chậm…[8] ­ Ngoài ra, đồng còn tham gia vào việc sản xuất năng lượng, tạo melanin   (sắc tố màu đen ở da), ôxy hóa acid béo,…[8] ­ Đồng là nguyên tố vi lượng rất cần thiết cho các loài động thực vật bậc   cao, nó được tìm thấy trong 1 số  loại enzyme. Có 1 loại cua gọi là cua móng  ngựa (hay cua vua) sử dụng đồng thay sắt để chuyên chở oxy trong  máu. [4] ­ Đồng hấp thu vào máu tại dạ  dày và phần trên của ruột non. Khoảng   90% Đồng trong máu kết hợp với chất đạm Ceruloplasmin và được vận chuyển  vào trong tế bào dưới hình thức thẩm thấu và một phần nhỏ dưới hình thức vận   chuyển mang theo chất đạm. Phần lớn đồng được bài tiết theo mật qua đường  phân cùng với lượng đồng không thẩm thấu được vào máu. Số  nhỏ  bài tiết qua  nước tiểu, bài tiết theo mồ hôi, tóc và móng tay dài bị cắt đi.[4] ­ Đồng cần thiết cho chuyển hóa sắt và lipid, có tác dụng bảo trì cơ  tim,   cần cho hoạt động của hệ thần kinh và hệ miễn dịch, góp phần bảo trì màng tế  bào hồng cầu, góp phần tạo xương và biến năng Cholesterol thành vô hại. Trong  cơ  thể  người có khoảng từ  80mg đến 99,4 mg đồng. Hiện diện trong bắp thịt,  da, tủy xương, xương, gan và não bộ. Trẻ  em mới sinh có khoảng 15­17 mg  đồng.[4] 3.2. Các bệnh lý về đồng: ­ Do nguồn thực phẩm chứa đồng rất đa dạng, cơ  thể  chúng ta ít khi bị  thiếu đồng. Thiếu đồng gây thiếu máu, tăng cholesterol và sự  phát triển bất   thường  ở xương. Do đồng và vitamin C đều cần thiết cho sự thành lập mô liên  kết, các triệu chứng thiếu đồng có thể bị nhầm lẫn với trường hợp thiếu vitamin  C. Thiếu đồng còn gây dung nạp kém glucose. Thiếu đồng khi mang thai có thể  khiến thai chậm phát triển hoặc phát triển bất thường. 1 ­ Là một  bệnh hiếm (1/100.000), bệnh Menkes  là do đột biến gen trên  nhiễm sắc thể  X, khiến nồng độ  đồng và ceruloplasmin trong máu thấp, trong   khi niêm mạc ruột, cơ, lách và thận lại tích lũy nhiều đồng. Bệnh gây thoái hóa  thần kinh, phát triển bất thường mô liên kết, loãng xương... Chế  độ  ăn giàu  đồng kết hợp với histidin có thể  làm gia tăng sự  hấp thu đồng vào máu nhưng   không cải thiện được chức năng não và không làm chậm đi quá trình diễn tiến   của bệnh.[10] ­ Sự  thiếu hụt đồng làm gia tăng nguy cơ  bị  bệnh tim mạch, nhất là trong  trường  hợp cùng thiếu Selen. Nguyên nhân có thể  do  ức chế  men glutathion  peroxidase, khiến không thể kiểm soát được các gốc tự do.[8] ­  Thiếu đồng còn gây dung nạp kém glucose. Thiếu đồng khi mang thai có  thể khiến thai chậm phát triển hoặc phát triển bất thường.[8]  ­ Thiếu hụt đồng cũng có thể  gây thiếu máu, bệnh về  xương, rối loạn hệ  thần kinh, rụng tóc,…Sự  phát triển xương của trẻ  con bị  chậm lại, xương dễ  gãy.[8] ­ Người ta ghi nhận được ba hiện tượng bệnh lý của sự  thiếu đồng ở  trẻ  em như sau : + Bệnh thiếu máu, thiếu số  lượng hay kích thước của hồng cầu hay thiếu   số  lượng huyết đạm trong hồng cầu, hay xảy ra  ở trẻ  em được nuôi bằng sữa   bò.[9] +  Bị ỉa chảy, suy dinh dưỡng.[9] +  Ảnh hưởng di truyền, Menky phát hiện năm 1962, thiếu chất đồng do di  truyền nên trẻ  sinh ra chậm lớn, kém thông minh, da, tóc bị  mất sắc tố  (bạch   tạng), tóc thưa, mềm, mạch máu bị giãn, xương không nảy nở bình thường, thân  nhiệt thấp, hay bị bất tỉnh.[9] 1 ­ Đồng là một nguyên tố  tương đối ít độc tính, nên hiếm thấy các ca ngộ  độc mãn tính. Ngộ độc cấp tính thường do uống nhầm dung dịch muối đồng.[10] ­ Bệnh Wilson cũng là một bệnh hiếm (1/200.000), do đột biến gen. Người  bệnh thường khỏe mạnh cho đến tuổi dậy thì, nếu không chữa kịp thời, có thể  bị suy gan và tổn thương mô thần kinh. Tránh các thức ăn có nhiều đồng, uống  bổ sung kẽm để giảm hấp thu đồng và sử dụng các tác nhân chelat để kéo đồng  ra khỏi mô là những phương pháp trị liệu chính.[10] 3.3. Nhu cầu và những nguồn bổ sung đồng:  Nhu cầu hàng ngày: ­ Hàng ngày cơ thể chúng ta cần khoảng 1 ­ 1,5 mg đồng.[10]   Nguồn bổ sung: ­ Hầu hết các thực phẩm đều có chứa đồng: từ  rau cải, ngũ cốc cho đến  các loại thịt, cá. Các nguồn thực phẩm giàu đồng nhất bao gồm: thịt bò, hải sản,   tạng động vật, các loại đậu, đậu phộng, sô cô la...[10] Hình 3. Các nguồn thực phẩm giàu đồng 4. Iod (I) 4.1. Vai trò và tác dụng: ­ Iod là một  nguyên tố  lượng  nhỏ  không thể  thay thế   được  trong dinh  1 dưỡng cơ thể. Vai trò của Iod được biết ngay từ đầu thế kỷ trước, hồi đó người   ta đã nói nó liên quan tới các “dịch” bướu cổ. Tổng số iod trong cơ thể là 20 – 25   mg, tập trung ở tuyến giáp, cơ, da, xương.[3] ­ Năm 1895 người ta phát hiện iod trong tuyến giáp ( tuyến này bám vào  sụn giáp của khí quản, ngay trước cổ). Sau đó, phát hiện rằng tuyến giáp hoạt  động bằng cách tiết ra chất thyroxin, chất này chứa tới 65% iod. Đến nay đã biết   rõ quá trình từ lúc iod vào tuyến giáp đến lúc nó tham gia tạo nên thyroxin. Tóm   lại, thiếu iod làm tuyến giáp không sản xuất được chất thyroxin, tuyến sẽ phản   ứng bằng cách phồng to ra, đó là bướu cổ. Hàm lượng iod trong mỗi lít huyết   tương là 0.10 – 0.20 mg, nếu giảm còn 0.05 mg sẽ xuất hiện bệnh.[3]  Iod giúp bạn điều chỉnh quá trình trao đổi chất và cho phép cơ thể bạn tạo   ra nhiều hormone  ở tuyến giáp. Thiếu hụt iod sẽ làm giảm khả năng hoạt động  của tuyến giáp và quá trình trao đổi chất bị  chậm lại. Ngoài ra, iod còn có tác   dụng tốt trong các quá trình bảo vệ cơ thể (miễn dịch, thực bào…)[3] 4.2. Các bệnh lý về iod: ­  Thiếu iod còn gây ra nhiều rối loạn khác nhau: bướu cổ, rối loạn bệnh   lý khác như sảy thai, thai chết lưu, khuyết tật bẩm sinh, thi ểu n ǎng trí tuệ, đần   độn,cơ thể chậm phát triển, mệt mỏi, giảm khả nǎng lao động. ­ Hiện nay, trên thế  giới có khoảng một tỷ  rưỡi người sống trong vùng  thiếu iod và có nguy cơ bị các rối loạn do thiếu iod. Trong đó 655 triệu người có   tổn thương não và 11,2 triệu người bị đần độn. ­ Việt Nam là một nước nằm trong vùng thiếu iod. Tỷ lệ thiếu iôt rất cao  và phổ  biến toàn quốc từ miền núi đến đồng bằng. Trên những vùng thực hiện   tốt chương trình phòng chống bướu cổ  thì tỷ  lệ  bệnh giảm đi đáng kể. Lượng  iod tối  ưu cho cơ  thể  người trường thành là 200 mcg/ngày, giới hạn an toàn là  2
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan