Nguồn
gốc:
Cây cao su có nguồn gốc từ Nam Mỹ, mọc trên một
địa bàn rộng 5 đến 6 triệu Km2, thuộc toàn bộ lưu vực
sông Amazon và vùng kế cận, giữa hai vĩ tuyến 130B130N.
Thông thường cây cao su có chiều cao khoảng 20
mét.
Rễ ăn rất sâu để giữ vững thân cây, hấp thu chất
bổ dưỡng và chống lại sự khô hạn
Thân: là bộ phận kinh tế nhất của cây ,là phần thân
cây với lớp vỏ màu nâu nhạt mang những ống chứa
mủ, đây là nơi khai thác mủ sau đó là khai thác gỗ.
Lá: là loại lá kép có ba lá chét với phiến lá nguyên,
mọc cách và mọc thành từng tầng. Từ năm thứ 3
trở đi, cây có giai đoạn rụng lá qua đông tập trung
ở những vùng có mùa khô rõ rệt.
Hoa thuộc loại hoa đơn, hoa đực bao quanh hoa cái
nhưng thường thụ phấn chéo.
Quả cao su là quả nang có 3 mảnh vỏ ghép thành
3 buồng, mỗi nang một hạt hình bầu dục hay hình
cầu, đường kính 0,2 cm, có hàm lượng dầu đáng kể
được dùng trong kỹ nghệ pha sơn.
Tuy
nhiên:
Cây phát triển tốt ở vùng nhiệt đới ẩm,
nhưng không chịu được sự úng nước và gió.
Cây cao su có thể chịu được nắng hạn khoảng
4 đến 5 tháng, tuy nhiên năng suất mủ sẽ
giảm.
Cây cao su là một loại cây độc, chất mủ của
cây là một loại chất độc cho con người khai
thác nó. Tuổi thọ của người khai thác mủ cao
su thường giảm từ 3 đến 5 năm nếu làm việc
trong khoảng thời gian dài.
Cây cao su còn độc ngay cả trong việc trao
đổi khí ngay cả ban ngày và ban đêm. Không
bao giờ xây dựng nhà để ở trong rừng cao su,
khả năng hiếm khí xảy rất cao.
Về mặt hóa học, cao su thiên nhiên là
polyisopren - polyme của isopren
Đất canh tác có tầng sâu trên 1,5m
không bị úng thủy, không đụng đá kết
von, đá bàn, cao trình dưới 600m so
mực nước biển.
Khí hậu có nhiệt độ trung bình hàng
năm từ 25-28o C, lượng mưa bình quân
hằng năm 1500mm phân bố mưa từ 56 tháng trong năm.
Cao su vỏ ruột xe chiếm 70% sản lượng cao su thế
giới.
Cao su dùng để làm các ống, băng chuyền, đệm
giảm xóc, vật liệu chống mài mòn, các trang thiết bị
hàng không, dụng cụ gia đình và dụng cụ thể thao.
Ngoài giá trị của mủ cao su, cây cao su còn có thể
cung cấp một lượng gỗ lớn.
Cung cấp khoảng 200-300 kg hạt/ha với hàm
lượng dầu khoảng 10-20% trọng lượng hạt và
lượng protein đáng kể trong hạt.
Hạt cao su còn được ứng dụng trong sân cỏ nhân
tạo, giúp cỏ đứng thẳng giống cỏ tự nhiên.
Tinh dầu từ hạt cao su có thể sản xuất
nhiều nguyên liệu thay thế các sản
phẩm ngoại nhập như chất phụ gia trợ
nghiền và bảo quản xi măng, chế tạo
sơn điện di, phân bón, xà bông…,
Việc trồng cao su có thể đem lại những
lợi ích về môi trường, phủ xanh đất,
trống đồi núi trọc, chống xói mòn đất,
ổn định xã hội thông qua việc tạo ra
nhiều công ăn việc làm và là môi trường
tốt để chăn nuôi ong.
Cây cà phê được phát hiện cách đây
hàng nghìn năm, chúng thường mọc dưới
tán nhiều khu rừng thưa thuộc châu Phi.
Tới năm 575 sau Công Nguyên cây mới
được đưa về trồng thuần hoá, đến ngày nay
hiện có 3 loài cà phê thương mại và được di
thực nhập nội tới nhiều nước trên thế giới.
Cây cà phê có cành thon dài, lá cuống ngắn,
xanh đậm, hình oval. Mặt trên lá có màu
xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt hơn. Chiều
dài của lá khoảng 8-15 cm, rộng 4-6 cm. Rễ
cây cà phê là loại rễ cọc, cắm sâu vào lòng
đất từ 1 đến 2,5m
Loài Coffea arabica (cà phê chè)
Loài Coffea canephora Pierre (cà phê vối)
Tại Việt Nam được trồng nhiều ở Cơ tỉnh
phía Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh
Tây Nguyên và Đồng Nai.
Loài Coffea liberica Bull (cà phê mít, dâu
da).
Cây cà phê sau khi du nhập đã phát triển
bền vững ở Việt Nam đến nay đã 151 năm
(từ 1857).
Năm 1947 theo giáo sư Auguste Chevarier trong
tự nhiên có tới 70 loài phụ
Trong Coffea, trong đó có rất ít loài có giá trị kinh
tế và ông chia thành 4 nhóm:
Nhóm Eucoffea K.Schum, Argocoffea Piere,
Mascarocoffea và Paracoffea Miq.
Ba nhóm đầu có nguồn gốc duy nhất ở châu Phi.
Nhóm Paracoffea có hai loài mọc hoang ở Việt
Nam là Coffea dongnaiensis P.ex.Pit và Coffea
Cochinchinensis P.ex.Pit
Nhóm Eucoffea K.Schum chỉ có một số loài có
Cafein chúng có tầm quan trọng về kinh tế và
được trồng trọt.
Cà phê chè: có lá nhỏ, cây thường để thấp giống
cây chè.
Là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây
cà phê. Chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn
thế giới.
Brasil và Colombia là hai nước xuất khẩu chính
loại cà phê này.
Ưa sống ở vùng núi cao. Người ta thường trồng
nó ở độ cao từ 1000-1500 m.
Cây có tán lớn, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây
cà phê trưởng thành có thể cao từ 4-6 m, nếu để
mọc hoang dã có thể cao đến 15 m.
Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai hạt cà phê.
Cà phê vối: là cây quan trọng thứ hai trong các
loài cà phê.
Khoảng 39% các sản phẩm cà phê được sản xuất
từ loại cà phê này.
Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới
là Việt Nam.
Cây cà phê vối có dạng cây gỗ hoặc cây bụi chiều
cao của cây trưởng thành có thể lên tới 10 m.
Quả cà phê có hình tròn, hạt nhỏ hơn hạt cà phê
chè .
- Xem thêm -