Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tạm trú, tạm vắng của công an ...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tạm trú, tạm vắng của công an cơ sở phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố hồ chí minh

.DOC
104
4784
84

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành phố Hồ Chí Minh được Trung ương xác định là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, thương mại, dịch vụ của cả nước. Trong những năm qua Đảng, nhà nước và đặc biệt là chính quyền thành phố Hồ Chí Minh có nhiều chủ trương tăng cường quản lý cư trú nói chung trong đó có công tác quản lý tạm trú, tạm vắng. Thế nhưng tình hình quản lý tạm trú, tạm vắng vẫn còn thiếu sót, bất cập, nhiều đối tượng gây án lợi dụng sơ hở trong công tác quản lý tạm trú, tạm vắng để hoạt động phạm tội. Tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 77 ký túc xá sinh viên, 29.233 cơ sở cho thuê lưu trú, 10 khu công nghiệp, 02 khu chế xuất, 01 khu công nghệ cao với số lượng nhân khẩu đến lao động, học tập, hoạt động tôn giáo khoảng 1.770.000 người. Đặc biệt những năm gần đây các khu công nghiệp phát triển mạnh tập trung đông người lao động từ nơi khác đến làm việc, các loại đối tượng hình sự, tệ nạn xã hội kéo nhau đến hoạt động và ẩn náu cùng với người lao động tại các cơ sở cho thuê lưu trú mà chủ yếu là ở các hộ, ngăn phòng cho thuê, nhà nghỉ, hơn nữa tình hình sinh viên vi phạm pháp luật, hoạt động tệ nạn xã hội cũng diễn ra hết sức phức tạp ở các ký túc xá và ở các hộ, ngăn phòng cho thuê gần các trường đại học. Hàng năm thông qua kiểm tra hộ khẩu, kiểm tra việc thực hiện, chấp hành công tác đăng ký tạm trú, tạm vắng đã phát hiện hàng trăm đối tượng phạm pháp bỏ trốn, đối tượng trốn lệnh truy nã, cụ thể kiểm tra hành chính quí I/2007 có trên 100 đối tượng phạm pháp bỏ trốn, đối tượng có lệnh truy nã bị bắt giữ trong nhà cho thuê. Các vụ án giết người cướp của, trộm cắp, cố ý gây thương tích, lừa đảo xảy ra trong nhà cho thuê và đặc biệt là các khu công nghiệp tập trung đông nhân khẩu tạm trú. 2 Quản lý tạm trú, tạm vắng là quản lý con người mà con người là chủ thể của tất cả các mối quan hệ xã hội, do đó nếu thực hiện tốt công tác này không chỉ tạo điều kiện thực hiện tốt các công tác khác trong quản lý nhà nước như phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội mà còn tạo điều kiện, hỗ trợ đắc lực cho công tác phòng ngừa, điều tra, khám phá tội phạm. Từ thực trạng trên đây đã làm cho tình hình an ninh, trật tự ở các hộ ngăn phòng cho thuê, các khu công nghiệp tập trung đông công nhân ngày càng trở nên phức tạp và có ảnh hưởng lớn tới đời sống của cư dân thành phố nói chung và cư dân trong vùng công nghiệp nói riêng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến vấn đề trên là do công tác quản lý con người, đặc biệt là quản lý cư trú còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Mặc dù các lực lượng chức năng đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng các biện pháp để tổ chức, quản lý cư trú và đã thu được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn có nhiều sơ hở, bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu công tác quản lý nhân hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng; nhìn chung công tác quản lý cư trú mang tính hành chính đơn thuần chưa đi sâu vào nắm chắc hoạt động, thái độ của từng diện nhân hộ khẩu trong từng ô khu vực. Mặt khác, một số Cảnh sát khu vực chưa nhận thức đúng tình hình phức tạp nảy sinh tại các hộ ngăn phòng cho thuê, khu vực có cụm công nghiệp, khu công nghiệp tập trung, khu ký túc xá … cũng như nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công tác quản lý nhân hộ khẩu để giữ vững an ninh, trật tự tại địa bàn, ô khu vực phụ trách. Chính vì vậy công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng phải được nhận thức rằng: nó có một vị trí hết sức quan trọng và đây là một yêu cầu đòi hỏi khách quan của thực tiễn. Thực hiện tốt công tác này không những có ý nghĩa trong việc đảm bảo tình hình an ninh, trật tự nói chung mà còn phục vụ cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm nói riêng. 3 Hơn nữa làm tốt công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng còn góp phần đắc lực cho công tác quản lý xã hội, hoạch định chính sách phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, giải quyết chính sách xã hội (y tế, giáo dục, nhà ở…) tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và của cả nước nói chung. Vì thế việc tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý tạm trú, tạm vắng là một yêu cầu không thể thiếu trong quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trên địa bàn thành phố. Từ trước đến nay có một số đề tài nghiên cứu về đăng ký, quản lý nhân hộ khẩu, về quản lý tạm trú, tạm vắng nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để phục vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Từ yêu cầu thực tế của công tác quản lý tạm trú, tạm vắng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều khu công nghiệp phát triển, tội phạm lẫn trốn trong các cơ sở cho thuê lưu trú, sinh hoạt của sinh viên ở ký túc xá và các nhà trọ gần trường học có nhiều phức tạp nên tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Đề tài này sẽ làm rõ thực trạng công tác quản lý tạm trú, tạm vắng ở thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó đề ra giải pháp nâng cao công tác quản lý tạm trú, tạm vắng phục vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và nhằm đảm bảo cho việc thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, phục vụ cho việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có một số đề tài nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau về công tác quản lý nhân hộ khẩu trong những phạm vi và đối tượng nhất định như: - Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhân hộ khẩu tại khu công nghiệp tập trung ở Thành phố Hồ Chí Minh (do Thượng tá, thạc sỹ Trần Dân thực hiện năm 2006); - Quản lý người lao động tự do ngoài tỉnh của Công an các phường Hà Nội-góp phần đảm bảo an ninh trật tự (thạc sỹ Đặng Thị Thanh, khoa nghiệp vụ quản lý hành chính thực hiện năm 2003); - Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hộ khẩu, nhân khẩu của lực lượng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội phục vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Tuy Hòa tỉnh Phú Yên (do sinh viên Lê Thị Minh Hằng thực hiện năm 2005). Mặc dù có nhiều đề tài nghiên cứu về công tác quản lý nhân hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế nghiên cứu đề tài “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” sẽ góp phần bổ sung lý luận khoa học về công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của lực lượng Cảnh sát nhân dân cũng như đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, tệ nạn xã hội. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 5 Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, phân tích, làm rõ những tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân nhằm đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Để đạt được mục đích đã đặt ra, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, những quy định của pháp luật về việc tổ chức quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở. - Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; kết quả đạt được trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm; tìm ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân. - Nghiên cứu làm rõ tình hình tội phạm, những phần tử lợi dụng tạm trú, tạm vắng để hoạt động và các yếu tố có tác động, ảnh hưởng đến công tác quản lý tạm trú, tạm vắng. - Đưa ra được các giải pháp, kiến nghị về công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an phường, xã, thị trấn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, phục vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an cơ sở phục vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an phường trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 6 từ năm 2002 đến quí I/2007 phục vụ cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Đề tài không nghiên cứu công tác quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an xã. 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và pháp Luật của nhà nước ta về công tác bảo vệ an ninh, trật tự. - Phương pháp nghiên cứu cụ thể: + Nghiên cứu các báo cáo, các tổng kết về công tác quản lý tạm trú, tạm vắng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh như: Tài liệu hội nghị triển khai công tác của lực lượng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội. Báo cáo thống kê số liệu, tình hình về hộ khẩu, đối tượng và kết quả công tác của cảnh sát khu vực, công an viên (KV8-NK12). Báo cáo thống kê phân loại địa bàn, phân loại Cảnh sát khu vực. Lực lượng cảnh sát khu vực, Công an viên. Báo cáo thực hiện đề án nâng cao năng lực, hiệu quả công tác Cảnh sát khu vực, Công an phường. Các báo cáo chuyên đề về tạm trú, tạm vắng, sai sót trong công tác quản lý nhân hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng của Công an phường. + Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp tình hình tạm trú, tạm vắng chung của thành phố. 7 + Phương pháp tổng kết thực tiễn và phương pháp nghiên cứu điển hình: Thông qua các tài liệu, khảo sát hoạt động thực tiễn của Công an cơ sở trong quản lý tạm trú, tạm vắng phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó rút ra các vấn đề về thực trạng công tác quản lý tạm trú, tạm vắng để làm cơ sở dự báo tình hình và đề ra các giải pháp. + Phương pháp tọa đàm, trao đổi lấy ý kiến của các chuyên gia và lực lượng Công an cơ sở: Trực tiếp tọa đàm, trao đổi với các nhà khoa học, các đồng chí Công an phường, xã, thị trấn trực tiếp tiến hành công tác quản lý tạm trú, tạm vắng để rút ra những kinh nghiệm làm cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao công tác quản lý tạm trú, tạm vắng phục vụ cho công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận nghiệp vụ quản lý hành chính về an ninh, trật tự đối với công tác đảm bảo an ninh, trật tự, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. - Thực tiễn: Những kết luận khoa học trong luận văn và các đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý tạm trú, tạm vắng phục vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, học tập trong các trường đào tạo lực lượng cảnh sát. 7. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung luận văn gồm 3 chương. 8 Chương 1 NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ TẠM TRÚ, TẠM VẮNG CỦA CÔNG AN CƠ SỞ PHỤC VỤ PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH CHỐNG TỘI PHẠM 1.1. Nhận thức chung về quản lý cư trú công dân 1.1.1. Cư trú và quản lý cư trú công dân * Sơ lược về công tác đăng ký, quản lý cư trú của một số nước trên thế giới và của Việt Nam. Công tác đăng ký và quản lý cư trú có vị trí hết sức quan trọng và có tác dụng to lớn đối với hoạt động quản lý xã hội của nhà nước. Đối với hoạt động quản lý xã hội của đất nước, công tác quản lý cư trú là nhằm xác định việc cư trú và những thông tin cơ bản nhất về nhân thân của công dân để phục vụ, thực hiện chính sách phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, đồng thời phục vụ cho công tác giữ gìn an ninh, trật tự, phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Quản lý xã hội thực chất là quản lý con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Con người luôn luôn là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, vì vậy quản lý cư trú được hình thành, phát triển rất lâu và nó diễn ra hầu như ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Từ đó cho thấy quản lý cư trú là một tất yếu khách quan vì trong xã hội có giai cấp, phải có quản lý xã hội, đồng thời nó đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội phải quản lý con người, mà trước hết là qua hoạt động cư trú. 9 Vì thế chúng ta có thể khẳng định: Trên thế giới vấn đề quản lý cư trú của con người đã có từ rất lâu, do bản chất của từng nhà nước khác nhau mà mục đích, hình thức, biện pháp quản lý cư trú khác nhau. Ở Mỹ: Mỗi người từ khi sinh ra đã được cấp mã số công dân riêng. Mã số được dùng chung cho tất cả các loại giấy tờ liên quan đến nhân thân công dân như căn cước, hộ chiếu, bằng lái xe … mã số không bao giờ được dùng lại cho người thứ hai trong xã hội (kể cả khi người được cấp thẻ chết). Ở Nga: Từ thời Liên Xô cũ đến nay (Nga) vẫn áp dụng chế độ hai hộ chiếu cho mỗi công dân đó là hộ chiếu công dân dùng trong nội địa và hộ chiếu xuất cảnh. Trong hồ sơ hộ chiếu bao gồm các thông tin cơ bản về nhân thân công dân như họ tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ cư trú, sơ lược lý lịch tư pháp. Ngoài ra một số nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) cũng áp dụng phương thức quản lý này. Liên minh Châu Âu (EU): Sau khi các nước trong liên minh Châu Âu ký hiệp định về việc mở cửa biên giới và tự do đi lại giữa các nước thành viên, các nước Pháp, Đức, Hà Lan đã thống nhất sử dụng một loại hộ chiếu EU. Loại thẻ công dân này chứa đựng thông tin đầy đủ về một con người gồm các nội dung như: hộ tịch, cư trú, căn cước. Ở Trung Quốc: Hiện tại vẫn thực hiện chế độ quản lý công dân theo hộ khẩu, trừ các đối tượng được quản lý theo diện tạm trú, tạm vắng thì ở Trung Quốc ngoài sổ hộ khẩu bình thường còn hình thành loại sổ hộ khẩu màu xanh dành cho dân nhập cư tạm trú và do đó các đối tượng có hộ khẩu xanh cũng không được hưởng đầy đủ các quyền lợi như dân có hộ khẩu thường. Một số nước khác có cách làm riêng tùy thuộc hoàn cảnh của từng quốc gia như quản lý công dân thông qua giấy phép lái xe hay thẻ thuế. Dữ liệu 10 công dân được lưu giữ trong máy tính và cung cấp cho các cơ quan chức năng như cảnh sát, tư pháp, thuế, hải quan. Ở Việt Nam: Thời kỳ cổ và trung đại, theo sách sử để lại thì các qui định về quản lý con người đã xuất hiện trước công nguyên đến thế kỷ thứ 7. Hình thức quản lý đơn giản, theo trình độ phát triển, tóm lại trong giai đoạn cổ đại và Nhà nước phong kiến vấn đề quản lý cư trú của con người nhằm mục đích áp đặt sự thống trị giai cấp của nhà nước đó. Thời kỳ thống trị của thực dân Pháp (từ năm 1858 – 1945): Thực dân Pháp thực hiện các hình thức quản lý chặt chẽ, tỷ mỉ ở thành phố, thị xã. Quản lý từng người, từng gia đình, có sổ theo dõi quản lý, đối với những người từ 15 tuổi trở lên đều có danh chỉ bản. Mục đích: nộp tô, thuế, bắt lính, bắt phu… phục vụ cho hoạt động cai trị, bóc lột và khai thác thuộc địa. Thời kỳ đấu tranh chống Đế quốc Mỹ: Ở miền Nam, dưới chế độ Mỹ, Ngụy chính sách quản lý cư trú chặt chẽ và có hệ thống, bao gồm vùng nội thành và vùng giáp ranh với vùng tự do. Thể hiện các qui định về lập hồ sơ, sổ sách từng người, từng gia đình, có dán ảnh được bảo quản và khai thác một cách qui mô và hệ thống. Mục đích: Phục vụ bắt lính, quản dân, thực hiện các chính sách chống cộng; miền Bắc, sau hòa bình lập lại (1954) Nhà nước nghiên cứu, tổ chức chỉ đạo quản lý cư trú nhằm tăng cường quản lý xã hội, củng cố chính quyền cách mạng (năm 1955 công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu được tiến hành một số nơi như: Thành phố Nam Định, thị xã Bắc Ninh, thị xã Sơn Tây, Hà Nội, Thái Nguyên, Hà Đông, năm 1956 mở rộng công tác này đến Hải Phòng, Đồng Hới, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Việt Trì, năm 1959 cơ bản hoàn thành trên phạm vi toàn miền Bắc). Các qui định cụ thể về quản lý cư trú thông qua đăng ký, quản lý hộ khẩu trong giai đoạn này: Năm 1954 Ủy ban hành chính từng tỉnh, thành phố 11 công bố qui định tạm thời trên địa phương mình; năm 1957 Bản điều lệ tạm thời về đăng ký, quản lý hộ khẩu được điều chỉnh, bổ sung; năm 1965 Hội đồng Chính phủ chính thức ban hành Bản điều lệ đăng ký, quản lý hộ khẩu bằng Nghị định 104/CP ngày 27-6-1964 và thực hiện thống nhất trên toàn miền Bắc; năm 1968 đáp ứng yêu cầu chống cuộc chiến tranh phá hoại của địch, chống hoạt động tình báo, xâm nhập, hoạt động gián điệp… lấy số liệu dân số chuẩn bị bầu cử toàn quốc, nên yêu cầu kết hợp quản lý dân số, quản lý cư trú với quản lý đi lại. Vì thế, ngày 29-02-1968 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định 32/CP thống nhất công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu với thống kê dân số và công tác hộ tịch. (Kết hợp hộ tịch Nghị Định 04/CP (BNV) và hộ khẩu Nghị Định 104/CP (BCA) = Nghị Định 32/CP). Năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ ban hành Quyết định 54/CP ngày 17-8-1976 điều chỉnh công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu trên phạm vi toàn miền Nam. Quyết Định 167/CP ngày 18/9/1976 hướng dẫn, bổ sung và chỉ đạo công tác đăng ký, quản lý hộ khẩu phù hợp với tình hình miền Nam. Sau nhiều năm thực hiện các qui định về đăng ký hộ khẩu xuất hiện nhiều vấn đề mới, nhất là cần phân tách công tác hộ tịch và hộ khẩu vì về bản chất là 2 mặt công tác khác nhau và do 2 cơ quan Nhà nước khác nhau tiến hành. Vì thế, ngày 07-01-1988 Chính phủ ban hành Nghị định 04/CP ban hành Điều lệ đăng ký, quản lý hộ khẩu. Trong đó ngoài đăng ký, quản lý Bộ Công an thực hiện khai sinh, khai tử, đăng ký kết hôn… Bộ Tư pháp thực hiện các cải chính về họ tên, ngày tháng năm sinh… (theo Nghị định 219/HĐBT ngày 20-11-1987); năm 1997, qua 10 năm thực hiện Nghị Định 04/CP ngày 07-01-1988 đã bộc lộ những hạn chế, không đáp ứng được tình hình trong xu thế đổi mới, nhất là quản lý tình hình di dân tự do và yêu cầu dịch chuyển lao động trong nền kinh tế thị trường … vì thế đòi hỏi phải có 12 một qui định mới phù hợp. Ngày 10-5-1997 Chính phủ ban hành Nghị định 51/CP qui định đăng ký, quản lý hộ khẩu thay thế các qui định trước đây và được thực hiện thống nhất trên phạm vi toàn quốc. Sau hơn 7 năm thực hiện một số nội dung của Nghị định 51/CP không đáp ứng được yêu cầu, chủ yếu là các qui định về nhà ở hợp pháp; qui định điều kiện đăng ký hộ khẩu vào thành phố, thị xã. Do đó, Bộ Công an đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị định 108/2005/NĐ-CP ngày 19-8-2005. Để công dân thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, ngày 29/11/2006 Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật cư trú, đây là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất qui định về quyền tự do cư trú của công dân trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trình tự, thủ tục đăng ký, quản lý cư trú (thường trú hoặc tạm trú), quyền, trách nhiệm của công dân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức về đăng ký, quản lý cư trú. Như vậy quản lý cư trú thông qua đăng ký, quản lý hộ khẩu được xác định là một nội dung cơ bản của công tác quản lý hành chính về an ninh, trật tự. Thực chất là quá trình đăng ký, quản lý hoạt động cư trú của con người, có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu. Điều 1 Nghị định 51/CP xác định rõ: “ Đăng ký, quản lý hộ khẩu là biện pháp quản lý hành chính của Nhà nước nhằm xác định việc cư trú của công dân, tăng cường quản lý xã hội, giữ vững ANCT, TTATXH. Chính phủ giao cho Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) phụ trách việc đăng ký, quản lý hộ khẩu ”. Điều 1, 18, 30 Luật cư trú quy định: cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc phường, xã, thị trấn dưới hình thức thường trú hoặc tạm trú; Đăng ký thường trú là việc công dân đăng ký nơi thường trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký thường trú, cấp sổ hộ khẩu cho họ; Đăng ký tạm trú là việc công dân 13 đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ. Đăng ký, quản lý hộ khẩu là quá trình cơ quan Công an dựa vào các văn bản qui phạm pháp luật của nhà nước để tiến hành đăng ký, quản lý hoạt động cư trú của công dân, đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật qui định. Phục vụ cho công tác quản lý xã hội của nhà nước; công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các phạm pháp về an ninh, trật tự. Như vậy, quản lý cư trú công dân có thể hiểu khái quát là quản lý việc thường trú, tạm trú, tạm vắng của công dân. - Quản lý thường trú là việc đăng ký ghi nhận vào sổ hộ khẩu và áp dụng các biện pháp để quản lý đối với những người thường xuyên cư trú trên một địa bàn nhất định theo đơn vị hành chính. - Quản lý tạm trú là quản lý những người thường trú ở một nơi nhưng do nhiều lý do khác nhau họ đến ở lại một địa phương khác trong thời gian nhất định. - Quản lý tạm vắng là quản lý đối với những người thường trú của địa phương theo quy định của pháp luật khi đi ra khỏi địa phương của mình phải khai báo tạm vắng. 1.1.2. Đặc điểm của nhân khẩu tạm trú, tạm vắng có liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm Nhân khẩu từ nơi khác đến địa bàn hoạt động và quan hệ với nhân khẩu thường trú có thể vì lý do thăm viếng, quan hệ làm ăn. Hoặc đối tượng phạm pháp nơi khác đến tạm trú nhằm trốn tránh sự truy bắt, xử lý của Công an, chính quyền địa phương nơi họ đăng ký hộ khẩu thường trú. Do đó nhân khẩu 14 tạm trú là những người cần chú ý trong quản lý để phục vụ cho công tác phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Ngoài ra theo quy luật chung của các băng nhóm tội phạm chuyên nghiệp thường đi địa bàn khác hoạt động. Vì vậy, đối với những đối tượng này thường đăng ký hộ khẩu tại phường này có thể sang địa bàn phường khác hoạt động, từ quận này sang quận khác tạm trú hoạt động hoặc từ thành phố đi các tỉnh hoạt động. 1.2. Nhận thức về công tác quản lý tạm trú, tạm vắng phục vụ phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm 1.2.1. Khái niệm, vai trò của công tác quản lý tạm trú, tạm vắng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm Trong thực tiễn mặc dù công dân đang đăng ký hộ khẩu thường trú ở một nơi nhất định nhưng không phải lúc nào họ cũng sinh sống và làm việc tại nơi đã đăng ký thường trú. Với nhiều lý do khác nhau, con người thường phải đi lại và thậm chí phải sống ở một nơi khác với nơi mình đã đăng ký thường trú trong một thời gian nhất định, đó chính là thời gian cư trú tạm thời để giải quyết công việc theo yêu cầu cá nhân. Thời gian cư trú tạm thời được gọi là thời gian tạm trú. Bên cạnh đó còn có một bộ phận không nhỏ những nhân khẩu sinh sống và làm ăn tại một thành phố, thị xã có tính lâu dài và họ coi nơi đang sinh sống là nơi cư ngụ thật sự của họ và những nhân khẩu này có ý định cư ngụ tại nơi ở hiện tại, không có ý định chuyển đi nơi khác; do quy định của pháp luật nên những nhân khẩu đang sinh sống tại nơi đang cư ngụ chưa được đăng ký hộ khẩu thường trú, những trường hợp này cũng được coi là tạm trú. Thời gian tạm trú ngắn hay dài là tùy theo yêu cầu của công việc cũng như cuộc sống đòi hỏi. Vì vậy Nghị định 51/CP, thông tư 06/BNV chia tạm trú thành 02 loại là tạm trú và tạm trú có thời hạn. 15 Luật cư trú quy định: Đăng ký tạm trú, lưu trú và thông báo lưu trú. Đăng ký tạm trú là việc công dân đăng ký nơi tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú cho họ; lưu trú là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn ngoài nơi cư trú của mình và không thuộc trường hợp phải đăng ký tạm trú. Lưu trú và thông báo lưu trú: Lưu trú là việc công dân ở lại trong một thời gian nhất định tại phường ngoài nơi cư trú của mình và không thuộc trường hợp phải đăng ký tạm trú; gia đình, nhà ở tập thể, cơ sở chữa bệnh, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở khác khi có người từ đủ 14 tuổi trở lên đến lưu trú có trách nhiệm thông báo lưu trú với Công an phường. Người đến lưu trú có trách nhiệm xuất trình với người có trách nhiệm thông báo lưu trú một trong các loại giấy tờ sau: chứng minh nhân dân; hộ chiếu Việt Nam còn giá trị sử dụng; giấy tờ tùy thân có ảnh do cơ quan có thẩm quyền cấp; giấy tờ do cơ quan cử đi công tác; xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú, giấy tờ khác chứng minh cá nhân. - Khái niệm quản lý tạm trú, tạm vắng. Quản lý nhân khẩu tạm trú là quá trình đăng ký, ghi nhận việc khai báo tạm trú đối với các nhân khẩu không phải là nhân khẩu thường trú tại địa phương. Họ ở phường, xã, thị trấn khác đến và có nghỉ lại qua đêm. Quản lý nhân khẩu tạm vắng là quá trình làm thủ tục đăng ký, ghi nhận việc khai báo vắng mặt của nhân khẩu theo quy định của pháp luật khi vắng mặt qua đêm, đi khỏi nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của mình với các lý do khác nhau. Khoản 1 điều 30 Luật cư trú được Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29-11-2006, có hiệu 16 lực thi hành ngày 01-7-2007 đã nêu: “ Đăng ký tạm trú là việc công dân đăng ký tạm trú của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được cơ quan này làm thủ tục đăng ký tạm trú, cấp sổ tạm trú có thời hạn”. - Đối tượng phải đăng ký tạm trú, tạm vắng theo quy định của các văn bản quản lý hộ khẩu trước đây (Nghị định 51/CP, Nghị định 108/CP, thông tư 06/BNV...). Người bắt đầu tuổi 15 trở lên (kể cả đăng ký hộ khẩu thường trú và tạm trú có thời hạn) ở phường, xã, thị trấn khác đến ở qua đêm đều phải trình báo tạm trú. Riêng những người là bố, mẹ, vợ, chồng, con (kể cả quan hệ là cha mẹ nuôi, con nuôi) đến tạm trú nhà của nhau thì phải khai báo tạm trú lần đầu trong năm. Người từ 15 tuổi trở lên đang thực tế cư trú (bao gồm người đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố và người tạm trú có thời hạn) có việc riêng phải đi vắng qua đêm đến quận, huyện khác đều phải khai báo tạm vắng. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đến tạm trú ở hộ gia đình, cơ sở cho thuê lưu trú, nhà cho người nước ngoài thuê trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh phải khai báo tạm trú. Tạm trú có thời hạn là những hộ, nhân khẩu đã tạm trú liên tục từ 6 tháng trở lên hoặc mới đến nhưng có ý định cư trú lâu dài tại thành phố trong hộ gia đình, nhà thuê, nhà mua, sang nhượng… cư trú ở các phương tiện trên mặt nước, không phân biệt còn hộ khẩu hay đã xóa hộ khẩu thường trú ở nơi ở cũ. Hộ nhân khẩu tạm trú có thời hạn được cấp thống nhất “sổ đăng ký tạm trú có thời hạn” (NK3c) có thời hạn sử dụng 12 tháng, khi hết hạn thì được gia hạn theo nhu cầu của nhân dân nhưng mỗi lần gia hạn không quá 12 tháng. 17 - Đối tượng không phải khai báo tạm trú: Người đang điều trị nội trú tại cơ sở chữa bệnh hợp pháp; người bị bắt tạm giam, tạm giữ ở cơ quan thi hành pháp luật; người có nhiệm vụ ở lại qua đêm để trực cơ quan hoặc để làm việc tại cơ quan, đơn vị; sinh viên, học sinh nội trú trong ký túc xá các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề đăng ký tạm trú có thời hạn ngay và không cần trình báo khi nhập học; người đang chấp hành các hình thức xử phạt vi phạm hành chính ở tại cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục. - Đối tượng không phải khai báo tạm vắng: Người vi phạm pháp luật bị các cơ quan tiến hành tố tụng tạm giữ, tạm giam; người đang bị xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định của Chính phủ; những người được cơ quan, đơn vị của Nhà nước cử đi công tác ở qua đêm ngoài quận, huyện nơi đăng ký thường trú. - Luật cư trú hiện nay quy định những nhân khẩu phải khai báo tạm vắng đó là: Bị can, bị cáo đang tại ngoại, người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù; người bị kết án phạt tù được hưởng án treo; người bị phạt cải tạo không giam giữ; người đang bị quản chế; người đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ thi hành khi đi khỏi nơi cư trú từ một ngày trở lên có trách nhiệm khai báo tạm vắng. Người trong độ tuổi làm nghĩa vụ quân sự, dự bị động viên khi đi khỏi huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi mình cư trú từ ba tháng trở lên có trách nhiệm khai báo tạm vắng. 18 Những người nói trên phải khai báo tạm vắng tại Công an xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú. Khi đến khai báo tạm vắng phải xuất trình giấy chứng minh nhân dân và ghi vào phiếu khai báo tạm vắng. - Vai trò của quản lý tạm trú, tạm vắng. Công tác quản lý cư trú có vị trí hết sức quan trọng, có tác dụng rất to lớn đối với hoạt động quản lý xã hội của nhà nước cũng như đối với công tác nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân dân. Đối với hoạt động quản lý xã hội của đất nước, công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng là một biện pháp quản lý hành chính nhằm xác định việc cư trú cũng như những thông tin cơ bản nhất về nhân thân của công dân để làm tiền đề phục vụ cho hoạch định chính sách xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đồng thời nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường quản lý xã hội của Nhà nước. Quản lý xã hội thực chất là quản lý con người trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Con người luôn luôn là chủ thể xã hội và là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy muốn quản lý xã hội thì trước hết phải quản lý tốt con người và các hoạt động của con người. Thông qua việc quản lý con người, nắm được con người trên các phương diện sẽ làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội một cách toàn diện. Ngoài ra thông qua công tác quản lý cư trú, nắm chắc nhân khẩu tạm trú, tạm vắng, nhà nước, các ngành, các cấp, các địa phương tiến hành xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Thực tiễn cách mạng nước ta đã cho thấy từ khi chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược cho đến quá trình xây dựng đất nước, trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay cho thấy công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng 19 đã góp phần to lớn, phục vụ tích cực việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng là cơ sở đảm bảo cho công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hiến pháp năm 1992 và pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ của công dân thế nhưng để nhân dân thực hiện quyền và nghĩa vụ đó thì cần phải được tổ chức một cách chặt chẽ, thống nhất và cụ thể thông qua bộ máy chính quyền các cấp mà trực tiếp nhất là lực lượng Công an cơ sở và chính quyền xã, phường, thị trấn. Đó cũng chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình mỗi công dân phải chứng minh tư cách công dân của mình trên cơ sở được chính quyền thừa nhận thông qua việc đăng ký và quản lý hộ khẩu, đăng ký, quản lý tạm trú, tạm vắng để xác định về mặt cư trú. Thông qua nơi cư trú để công dân thực hiện các quyền: xây dựng chính quyền (quyền bầu cử, ứng cử...), quyền lao động, tự do kinh doanh, học tập, chăm sóc sức khỏe, tự do ngôn luận, tự do cư trú, tự do tín ngưỡng....và thực hiện nghĩa vụ của công dân như nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật... Đặc biệt là trên lĩnh vực bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng có ý nghĩa quan trọng trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm. Thông qua công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng chúng ta có thể hiểu được những vấn đề cơ bản của từng con người cụ thể về tên tuổi, nơi cư trú, quan hệ xã hội, đời sống kinh tế, người tốt, người xấu, các đối tượng cần tập trung phòng ngừa, người lạc hậu ... trên cơ sở nắm vững tình hình từng nhân, hộ khẩu cư trú trên địa bàn, từ đó Công an cơ sở, ban ngành, đoàn thể, lực lượng an ninh cơ sở có kế hoạch, biện pháp phù hợp nhằm tuyên 20 truyền, giáo dục họ trong việc thực hiện tốt những quy định của nhà nước về công tác bảo vệ an ninh, trật tự cũng như có biện pháp phòng ngừa không để họ đi vào con đường hoạt động tội phạm. Đồng thời qua công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng để nắm chắc về con người sinh sống ở địa bàn trên mọi phương diện nhằm phục vụ cho việc tiến hành xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc sát với tình hình thực tế cũng như làm cơ sở cho việc xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Việc quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng một cách chặt chẽ còn giúp cho chúng ta có điều kiện, chủ động phát hiện kịp thời các loại tội phạm, đặc biệt là các đối tượng trốn lệnh truy nã. Thực tế đã chứng minh rằng các tên tội phạm trốn lệnh truy nã luôn tìm mọi cách để lẩn trốn vào những nơi mà công tác quản lý con người, quản lý tạm trú, tạm vắng của lực lượng Công an cơ sở có nhiều sơ hở hoặc gặp những khó khăn phức tạp như các vùng rừng núi, các khu vực đào đãi vàng, khu vực tập trung nhiều khu công nghiệp có đông đảo dân nhập cư, khu vực có nhiều nhà trọ, khu vực các trường đại học, cao đẳng, trung học, các địa bàn giáp ranh. Trong những năm qua, nhờ thực hiện tốt công tác quản lý tạm trú, tạm vắng ở một số nơi nói trên, chúng ta đã phát hiện được nhiều tên tội phạm trốn lệnh truy nã. Thực hiện tốt công tác quản lý cư trú, quản lý tạm trú, tạm vắng sẽ góp phần tích cực trong việc phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, hạn chế nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm cũng như phục vụ công tác điều tra khám phá tội phạm. Trong thực tiễn, các đối tượng phạm tội luôn luôn lợi dụng những sơ hở thiếu sót, bất cập trong công tác quản lý tạm trú, tạm vắng để hoạt động phạm tội, trốn tránh pháp luật, trốn tránh trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý. Trong nhiều trường hợp do công dân hoặc các cơ sở cho thuê lưu trú không thực hiện đúng quy định về công tác khai báo tạm trú nên dẫn đến việc bọn tội phạm lợi dụng để hoạt động phạm tội và khi tội phạm xảy ra đã gây
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan