Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH DU NHẬP
CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM.............................................................2
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo....................................2
1.1.1 Khái quát sự hình thành Nho giáo....................................................2
1.1.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo.........................................................2
1.1.3 Tư tưởng Nho giáo...........................................................................7
1.1.4 Thái độ của Nho giáo với cuộc sống................................................8
1.1.5 Quan niệm đạo đức trong Nho giáo.................................................8
1.2 Quá trình du nhập và phát triển Nho giáo vào Việt Nam..................10
1.2.1 Quá trình du nhập...........................................................................10
1.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống xã hội Việt Nam.............12
1.3 Sự phát triển của Nho giáo qua các triều đại Việt Nam....................14
1.3.1 Đời Lý (1010-1225).......................................................................14
1.3.2 Đời Trần (1225-1400)....................................................................15
1.3.3 Nhà Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1413), Minh thuộc (14141427).......................................................................................................15
1.3.4 Đời Hậu Lê (1428-1788)...............................................................15
1.3.5 Đời Tây Sơn (1788-1802)..............................................................15
1.3.6 Đời Nguyễn (1802-1945)...............................................................16
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỰC THỊNH CỦA NHO GIÁO THỜI
KỲ LÊ - NGUYỄN Ở VIỆT NAM..............................................................17
2.1 Thời Lê..............................................................................................17
2.1.1 Luật pháp thời nhà Lê....................................................................18
2.1.2 Giáo dục và khoa cử......................................................................21
2.1.3 Đội ngũ quan lại xuất thân từ khoa cử Nho học ngày càng chiếm số
lượng đông đảo và vị trí quan trọng.......................................................24
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
2.1.4 Tăng cường tư tưởng Nho giáo trong các mặt của đời sông kinh tế
- xã hội....................................................................................................30
2.1.5 Nhà nước Lê sơ từng bước xây dựng theo hướng trung ương tập
quyền và đạt tới mức độ cao vào triều Lê Thánh Tông..........................31
2.2 Thời kỳ nhà Nguyễn..........................................................................33
2.2.1 Luật pháp thời Nguyễn..................................................................33
2.2.2 Giáo dục và khoa cử......................................................................33
2.2.3 Tư tưởng........................................................................................35
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
CỰC THỊNH CỦA NHO GIÁO THỜI LÊ – NGUYỄN...........................39
3.1 Luật Hồng Đức..................................................................................39
3.2 Đại Việt sử ký....................................................................................51
3.3 Quân Trung Từ Mệnh Tập................................................................52
3.4 Quốc Âm Thi Tập.............................................................................52
KẾT LUẬN....................................................................................................56
PHỤ LỤC.......................................................................................................62
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
Lời mở đầu
Tôn giáo là một phổ quát văn hóa nên nó đóng vai trò quan trọng trong
xã hội loài người.
Theo Các Mác “ Sự khổ ải tôn giáo vừa là sự biểu hiện sự khổ ải hiện
thực, lại vằ là sự phản kháng lại sự khổ ải hiện thực đó. Tôn giáo là tiếng thở dài
của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng như nó
là tinh thần của trạng thái không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân
dân, là hạnh phúc hư ảo của nhân dân”. Mỗi tôn giáo đóng một vai trò trong xã
hội qua các thời kỳ lịch sử khác nhau. Đồng thời thái độ đối xử của các giai cấp
thống trị xã hội khác nhau với tôn giáo cũng khác nhau. Dù vậy, một thực tế cho
thấy cho dù là quan niệm, thái độ, nội dung về tôn giáo luôn thay đổi và dù có
thay đổi bao nhiêu đi nữa thì nó vẫn là một thực thể khách quan của lịch sử, sinh
ra cùng với xã hội loài người, do con người sáng tạo ra, rồi con người lại bị chi
phối bởi nó. Trong lịch sử nhân loại, tôn giáo không chỉ có quan hệ mật thiết mà
còn có tác động mạnh mẽ đến các thành tố khác của văn hoá.
Ở Việt Nam, qua trường kỳ lịch sử từng tòn tại các tôn giáo như Nho
giáo, Phật giáo, Hồi giáo, Kitô giáo, Đạo giáo…Là một thành tố của văn hoá
Việt Nam – Nho giáo có một ảnh hưởng rất lớn đối với diện mạo cũng như
nội dung các thành tố khác. Đặc biệt vào thế kỷ XV, thời kỳ Lê – Nguyễn
Nho giáo chiếm vị trí độc tôn chi phối nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và
đạt được những thành tựu nhất định.
Để thấy được sự phát triển cực thịnh của Nho giáo thời Lê – Nguyễn,
bài tiểu luận của chúng tôi gồm những phần cụ thể sau:
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH DU
NHẬP CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỰC THỊNH CỦA NHO GIÁO
THỜI KỲ LÊ - NGUYỄN Ở VIỆT NAM
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU VỀ SỰ PHÁT
TRIỂN CỰC THỊNH CỦA NHO GIÁO THỜI LÊ – NGUYỄN
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm còn thiếu xót, kính mong cco giáo và
các bạn đóng góp ý kiến để bài tiểu luận của chúng em được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Nhóm 3
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
1
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ QUÁ TRÌNH DU
NHẬP CỦA NHO GIÁO VÀO VIỆT NAM
1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo
1.1.1 Khái quát sự hình thành Nho giáo
Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán Tự từ Nho
gồm từ nhân (người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nho Giáo còn gọi là
nhà nho, người đọc sách thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo
người đời, ăn ở cho phù hợp với luân thường đạo lý.
Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, Tự
Trọng Ni người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng như tư
tưởng trước đây thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo.
1.1.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Kinh (Luận ngữ, Đại
học, Trung Dung, Mạnh Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam
Cương đó là các mối quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ chồng và Ngũ
Thường ( Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng hầu hết các nước
phong kiến phương Đông qua quá trình giao thoa và đồng hóa.
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
2
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ
chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào
tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng này gọi là Quân Tử
( Quân = người làm vua, Quân tử = chỉ tầng lớp trên ở trong xã hội để phân
biệt với kẻ "Tiểu nhân" những người thấp kém về điạ vị xã hội; "Quân tử" là
những người cao thượng có phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với kẻ "Tiểu
nhân" là những người thiếu đạo đức hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này
có thể được lí giải bởi đối tượng mà Nho giáo hướng đến trước tiên là những
người cầm quyền ). Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải
"Tự Đào Tạo", phải "Tu Thân". Sau khi Tu Thân xong, người quân tử phải
có bổn phận phải "Hành Đạo" ( Đạo không đơn giản chỉ là đạo lí. Nho gia
hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở đây bao
chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, đó là những nguyên lí đạo đức
do Nho gia đề xướng ( hoặc như họ tự nhận mình là phát hiện ra) và cần phải
tuân theo. Trời giáng mệnh làm Vua cho người nào có Đạo, tức là nắm được
đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con
người sẽ được gọi là Mệnh).
TU THÂN :
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà Nam giới phải theo. Tam Tòng và Tứ
Đức là lẽ đạo đức mà Nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã
hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội sẽ được
an bình.
*Tam Cương: Nói về ba mối quan hệ Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử
(cha con), Phu Phụ (chồng vợ).
Quân Thần ( Vua Tôi) : Trong quan hệ vua tôi. Vua thì thưởng phạt
công minh, Tôi tớ phải trung thành một dạ.
Phụ Tử ( Cha Con ) : Cha hiền Con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy
con cái, Con phải hiếu thảo và phụng dưỡng khi cha về già.
Phu Phụ (Chồng vợ ) : Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
3
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
với vợ. Vợ phải chung thủy tuyệt đối với chồng .
*Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm
điều phải hằng có khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.
Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.
Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.
Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt rõ thiện ác, đúng sai.
Tín: Giữ đúng lời hứa, đáng tin cậy.
*Tam Tòng: Tam là ba, Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ
phải theo, bao gồm: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
Tại gia tòng phụ: tức người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải theo cha.
Xuất giá tòng phu : lúc lấy chồng phải theo chồng.
Phu tử tòng tử : nếu chồng qua đời phải theo con .
*Tứ Đức: bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có là: Công - Dung Ngôn - Hạnh.
Công: khéo léo trong công việc.
Dung: hòa nhã trong sắc diện.
Ngôn: mềm mại trong lời nói.
Hạnh: nhu mì trong tính nết.
Người Quân tử phải đạt được ba điều trong quá trình Tu Thân:
Đạt Đạo: Đạo có nghĩa là "Con đường" hay "Phương cách" ứng xử mà
người quân tử phải thực hiện trong cuộc sống. "Đạt đạo trong thiên hạ có
năm điều: đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè"
(trong sách Trung Dung), tương đương với "quân thần, phụ tử, phu phụ,
huynh đệ, bằng hữu". Đó chính là Ngũ thường hay Ngũ luân. Trong xã hội
cách cư xử tốt nhất là "Trung Dung". Tuy nhiên, đến Hán nho Ngũ Luân
được tập trung lại chỉ còn ba mối quan hệ quan trọng nhất được gọi là Tam
thường hay còn gọi là Tam Tòng.
Đạt Đức: Quân tử phải đạt được ba đức: "Nhân - Trí - Dũng". Khổng
Tử nói: "Đức của người quân tử có ba đức mà ta chưa làm được. Người
Nhân không lo buồn, người Trí không nghi ngại, người Dũng không sợ hãi "
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
4
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
(sách Luận ngữ). Về sau, Mạnh Tử thay "Dũng" bằng "Lễ, Nghĩa" nên ba
đức trở thành bốn đức: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí". Đến thời Hán nho thêm một
đức nữa là "Tín" nên có tất cả năm đức là: "Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín". Năm
đức này còn gọi là Ngũ Thường.
Biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc: Ngoài các tiêu chuẩn về "Đạo" và "Đức",
người quân tử còn phải biết "Thi, Thư, Lễ, Nhạc" tức là người quân tử còn
phải có một vốn văn hóa toàn diện.
HÀNH ĐẠO
Sau khi Tu Thân, người quân tử phải Hành Đạo, tức là phải làm quan,
làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành "Tề gia,
Trị quốc, Bình thiên hạ". Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ là gia đình,
cho đến lớn là Trị Quốc, và đạt đến mức cuối cùng là Bình thiên hạ (thống
nhất thiên hạ). Kim chỉ nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc
cai trị có hai phương châm:
Nhân Trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là
yêu người và coi người như bản thân mình. Khi Trọng Cung hỏi thế nào là
nhân thì Khổng Tử nói: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” ( Điều gì mình không
muốn thì đừng làm cho người khác - sách Luận ngữ). "Nhân" được coi là điều
cao nhất của luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: "Người không có nhân thì lễ
mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?" (sách Luận ngữ).
Chính Danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của
nó, mỗi người phải làm đúng chức phận của mình. "Danh không chính thì
lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành" (sách Luận ngữ).
Khổng Tử nói với vua Tề Cảnh Công: "Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử
- Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con" (sách Luận ngữ).
Đó chính là những điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho
giáo, chúng được tóm gọn lại trong chín chữ: "Tu Thân, Tề gia, Trị quốc,
Bình thiên hạ".. Và đến lượt mình, chín chữ đó chỉ nhằm phục vụ mục đích
cai trị mà thôi.
Quân tử ban đầu có nghĩa là người cai trị, người có đạo đức và biết Thi,
Thư, Lễ, Nhạc. Tuy nhiên, sau này từ đó còn có thể chỉ những người có đạo
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
5
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
đức mà không cần phải có quyền. Ngược lại, những người có quyền mà
không có đạo đức thì được gọi là tiểu nhân (như dân thường).
Những quan niệm Đạo Đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh
cửu, nhưng có nhiều phương châm xử thế, đã giúp ông sống giữa bầy lang sói
mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng, suy đến cùng thì
đạo làm người ấy bao gồm hai chữ “Nhân Nghĩa”.
Khổng Tử giảng chữ "Nhân" cho học trò không lúc nào giống lúc nào,
nhưng xét cho kỹ, cốt tủy của chữ Nhân là lòng thương người như chính
Khổng Tử nói :
“Đối với người như đối với mình, không thi hành với người những
điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái mình
muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì phải
làm cho người đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không làm
cho người xấu đi” (Sách Luận ngữ).
“Nghĩa” là lẽ phải, đường ngay, việc đúng. Mạnh Tử nói
“Nhân là lòng người, Nghĩa là đường đi ngay thẳng của người”
“Nhân là cái nhà của người, Nghĩa là đường đi ngay thẳng của người”
Đến đời Hán nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào Ngũ Thường.
“Tam Cương Ngũ Thường“ trở thành trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang đời
Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trừu tượng hóa. Các nhà Tống nho căn
cứ vào thuyết “Thiện Nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ nhân nghĩa sắc thần
siêu hình. Trời có ‘lý” người có “Tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4 điều:
“Nguyên, Hạnh, Lợi, Trinh“; Đức của người có “Nhân, Nghĩa, Lễ và Trí“.
Bốn đức của người tương cảm với đức của trời.
Hệ thống hóa lại một cách tóm tắt hai chữ “Nhân Nghĩa” ở một số thời
điểm phát triển của Nho giáo như trên, ta có thể kết luận hai chữ “Nhân
Nghĩa” của Nho giáo là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dung từng thời
kỳ có thêm bớt nhưng căn bản vẫn là những lễ giáo phong kiến không ngoài
mục đích duy nhất là ràng buột con người vào khuôn khổ pháp lý Nho giáo
phục vụ quyền lợi của giai cấp phong kiến. Trong quá trình phát triển càng
ngày Nó càng bị trừu tượng hóa trên quan điểm siêu hình.
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
6
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
Tuy nhiên quan điểm Đạo Đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm tích
cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là người
lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả, dù nguyên tắc ấy không được thực
hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu tranh.
Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã hội.
1.1.3 Tư tưởng Nho giáo
Ở Trung Quốc xã hội phong kiến vẫn giữ lại rất nhiều di tích của xã hội
thị tộc và xã hội nô lệ, biểu hiện trong pháp luật và phong tục dưới nhiều hình
thức như quan niệm về sở hữu ruộng đất thuộc về quốc gia, quan niệm tôn
pháp trong gia tộc, ở trong một xã hội như vậy thì vua là tổ của thị tộc, là cha
của dân, mà cha là trời của con, chồng là trời của vợ. Để tồn tại trên cơ sở sản
xuất đặc thù á Đông (phương thức sản xuất Châu á) giai cấp địa chủ thống trị
cần phải giữ những quan niệm ấy, do đó chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Chính là
những khái niệm luân lý tuyệt đối trong xã hội phong kiến Trung Quốc.
Trong hình thái ý thức phong kiến hệ giữa người với người chỉ được ghép vào
5 loại (ngũ luân), ấy là: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè. Trong 5
cặp ấy thì hai cặp anh em, bạn bè chỉ là nhành ngọn, mà 3 cặp kia mới là cội
gốc. Những tính lớn của nhân loại, theo quan niệm phong kiến là nhân, nghĩa,
lễ, trí (về sau có thêm chữ tín) cũng là phát sinh trên cơ sở của ngũ luân. Như
Khổng Tử nói rằng hiếu đễ là gốc của chữ Nhân.
Ở đây chữ đạo đức và danh dự cũng đồng nghĩa với chữ lý luận và
danh phận trong Nho giáo mà tự do, bình đẳng là tư tưởng cá nhân của xã hội
tư sản. Đối với nó thì ngũ luân, ngũ thường, hay tam cương ngũ thường là
những cái tuyệt đối. Theo bộ sậu chính thường của tư tưởng đạo đức thì đạo
đức quan phải diễn dịch từ vũ trụ quan, nhưng nho giáo thì làm ngược trở lại,
nó xuất phát từ ngũ luân, ngũ thường rồi đem gán những cái ấy cho vũ trụ,
cho thượng đế : nó đã luân lý hoá cả vũ trụ, cả thượng đế, vũ trụ và thượng đế
của Nho giáo đều nhuốm màu luân lý. Đối với nho giáo thì luân lý cương
thường là hằng tồn, là phổ biến.
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
7
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
1.1.4 Thái độ của Nho giáo với cuộc sống
Trước hết phải nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đến cuộc
đời và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tôn giáo ở chỗ đó. Phật giáo
cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát, cần sự “bất sinh”. Lão giáo
cũng yếm thế, bi quan như vậy, nên cần sự “vô vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho
là trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi ta sinh ra ở cõi đời để làm gì,
chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn nữa không “Người muốn biết người
chết rồi có biết gì nữa không ư? Chuyện đó không phải là chuyện cần kíp bây
giờ, rồi sau biết” (Khổng Tử gia ngữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn đến chuyện
quỷ thần, đến chuyện quái lạ, huyền bí. Làm người ở đời hãy lo lấy việc của
con người. Chuyện của con người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau
khi chết! “Phải vụ lấy việc nghĩa của con người, còn quỷ thần kính mà xa ta”
(Luận ngữ) khi khoa học chưa phát triển, các tôn giáo còn thịnh hành, những
chuyện mê tín dị đoan còn huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái
độ “kinh nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái “thiện
đạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hoài nghi quỷ thần, trời mặc dù
ông vẫn trong việc tế trị. Nho học khuyên con người ta nên yêu đời, vui đời,
sống có ích cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta định
sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là quả dưa, chỉ được treo mà
không được ăn hay sao” sống ở đời mà bỏ việc đời là trái đạo con người.
Sống là hành động, đem tài trí giúp đời Khổng Tử chính là tấm gương cho các
nhà Nho đời sau noi theo. Ông không tìm thú vui ở chỗ ẩn dật hay ở chỗ suy
tưởng suông, mà ở chỗ hành động, hành đạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ
ngoài mục đích tìm cách thực hiện lý tưởng của mình suốt 14 năm. Không ai
dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫn dạy học, làm sạch, truyền bá tư tưởng của
mình. Đây có thể nói là điểm sáng nhất của Nho giáo so với các học thuyết
khác, và có lẽ chính nhờ nó mà Nho giáo giữ vị trí độc tôn và ưa chuộng trong
thời gian rất dài của lịch sử.
1.1.5 Quan niệm đạo đức trong Nho giáo
Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người. Phải nói đạo làm
người của Khổng Tử dạy là đạo làm người trong xã hội phong kiến. Chúng ta
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
8
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
đều biết trong xã hội có giai cấp thì những nguyên tắc để đánh giá hành vi của
con ngươì, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệ với người khác và
trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc... đều mang tính giai cấp rõ rệt và
có tính chất lịch sử. Những quan niệm về đạo đức điều thiện, điều ác “thay
đổi rất nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từ thời đại này đến thời đại khác
đến nỗi thường thường trái ngược hẳn nhau” (Enghen).
Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra không phải là vĩnh cửu,
nhưng có nhiều phương châm xử thế, tiếp vật đã giúp ông sống giữa bầy lang
sói mà vẫn giữ được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng. Suy đến cùng
đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa.
Khổng Tử giảng chữ Nhân cho học trò không lúc nào giống lúc nào,
nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng thương người và cũng chính
là Khổng Tử nói “đối với người như đối với mình, không thi hành với người
những điều mà bản thân không muốn ai thi hành với mình cả. Hơn nữa cái
mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì mình muốn đạt tới thì
cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp cho người trở thành tốt hơn mà không
làm cho người xấu đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải. đường hay, việc đúng.
Mạnh Tử nói “nhân là lòng người, nghĩa là đường đi của người”; (Cáo Tử
thượng) “Nhân là cái nhà của người, nghĩa là đường đi ngay thẳng của người”
(Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nói theo đường nghĩa, tất cả mọi việc của
đại nhân là thế đó” (Tồn tâm thương).
Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi không làm cái việc phải
làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có cái nghĩa đối với người
xung quanh có cái nghĩa đối với quốc gia xã hội.
Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa nhân nghĩa vào ngũ thường.
Tam cương ngũ thường trở thành mối trụ cột của lễ giáo phong kiến. Sang
Tống nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trìu tượng hoá. Các nhà Tống nho căn
cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác cho hai chữ “nhân nghĩa” một
màu sắc thần lá siêu hình. Trời có “lý” người có “tính” bẩm thụ ở trời. Đức
của trời có 4 điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh; đức của người có nhân, nghĩa, lễ
trí. Bốn đức của người tương cảm với 4 đức của trời.
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
9
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất nhiều điểm
tích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ vấn đề người quân tử, tức là
người lãnh đạo chính trị phải có đạo đức cao cả; dù nguyên tắc ấy không được
thực hiện trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa cho những sĩ phu đấu
tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần trách nhiệm cao cả với xã
hội. Truyền thống hiếu học, truyền thống khí tiết của kẻ sĩ không thể bảo là di
sản của Nho giáo chỉ có tiêu cực.
1.2 Quá trình du nhập và phát triển Nho giáo vào Việt Nam
1.2.1 Quá trình du nhập
Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy
và hành động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách
quan của các thời đại, của các dân tộc.
Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự phát triển. Đó là sự phát
triển không đồng đều của các dân tộc qua không gian và thời gian. Ở cùng
một thời đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân tộc hoặc một vài dân
tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác ở xung quanh. Sự
thực này ta có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu, Châu Mỹ, ở thời
xưa cũng như thời nay. Những dân tộc ở bất cứ đâu, bất cứ thời nào muốn
sống, muốn nâng cao mức sống của mình không thể không học tập những dân
tộc tiên tiến. Ta không hề thấy một dân tộc nào cứ chịu lạc hậu, chịu áp bức
bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của riêng mình không thèm học tập
những dân tộc tiến bộ hơn mình. Điều này đúng với khoa học tự nhiên và kỹ
thuật cũng như với khoa học xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng văn hoá
Trung Quốc là một điều tất yếu.
Trong ý thức hệ phong kiến mà người Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ
Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần
dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng dần biến thành một thứ mê tín dị
đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh
vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư tưởng Nho giáo. Có nhiều
nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng quan trọng là sức sống
của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi giành được nền tự chủ
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
10
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý thức hệ tích cực, quan
tâm đến con người đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận mệnh dân tộc. Nho giáo
có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến thì phải nói Nho giáo có
nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn lấy Nho giáo.
Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong
trường hợp không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý
định gây cảnh “đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo
Nho, chắc rằng nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà
đời sống đặt ra, nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền
tảng lý luận để chỉ đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học
nó, nhân dân ta đã tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng
rãi. Vì thế những người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan
trọng dưới thời Bắc thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là
những người học thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô
Quyền đánh bại quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc
gia, đặc các nghi lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là
tinh thần tôn ti đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã
thể hiện sự tin tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận
thiên” “Phụng thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với
chúng ta rất ngắn, cũng đượm mùi Nho giáo.
Nho giáo vào Việt Nam trong thời Bắc thuộc, qua ba thời kỳ như sau:
- 111-39TCN: các đời Tây Hán và Đông Hán.
- 43-544: các đời Đông Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều.
- 603-939: các đời Tùy, Đường, Ngũ Quý.
Mười thế kỷ đầu công nguyên, Nho học Việt Nam chưa thịnh, chưa
hình thành tầng lớp Nho sĩ nắm vai trò quan trọng trong xã hội. Thành phần
trí thức ưu tú bấy giờ là những nhà tu, đặc biệt là các cao tăng. Thông qua
việc học chữ Nho để đọc kinh Phật, các sư tiếp thu luôn Nho học. Thế nên,
khi đất nước vừa độc lập, kể từ Ngô (939-965), Đinh (968-979), Lê (9801009), trí thức tài đức ra giúp triều đình là các đạo sĩ và thiền sư. Một số thiền
sư có công dạy các tục gia đệ tử trở thành nhân tài giúp nước, như sư Khánh
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
11
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
Vân và sư Vạn Hạnh lần lượt là thầy dạy Lý Công Uẩn; sư Trí ở núi Cao Dã
là thầy của Thái úy Tô Hiến Thành, Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa...
Nho học Việt Nam phát triển từ thế kỷ XI, sang đời Nguyễn thì suy.
Nho học mở đường xuất thân cho kẻ sĩ thông qua khoa cử; nhờ đó thúc đẩy
văn học phát triển, văn hóa được nâng cao. Không ít tiên Nho Việt Nam là tác
gia, đi sâu vào triết Nho. Nhưng chiến tranh liên miên, sách vở bị cướp, đốt
mất quá nhiều, tư tưởng học thuật của tiên Nho Việt Nam hầu như không còn
lưu lại gì cho đời sau nghiên cứu. Nên nói đến Nho giáo Việt Nam, cái nổi bật
hình như không phải là tư tưởng triết học, mà lại là văn chương, khoa cử, và
vai trò chính trị của sĩ phu trong lịch sử.
1.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo đến đời sống xã hội Việt Nam
Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã
hội như trên đã nói, cho nên trong buổi thịnh tự nhất, nó có một số tác dụng
tích cực.
Trước hết là cương vị độc tôn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và
uy thế góp phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm
mẫu mực cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền
theo một quy mô hoàn chỉnh có đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế
kỷ XV, các xu thế phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển
của xã hội Việt Nam trên các bình diện sản xuất và củng cố quốc phòng.
Như đã biết, quá trình đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu
phát triển nền kinh tế tiểu nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp
địa chủ của nhà nước và của một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng
đất. Vì thế cho nên khi chiếm được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của
chế độ phong kiến, Nho giáo càng có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó
làm cho sản xuất nông nghiệp và trao đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước.
Đồng thời Nho giáo đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn
hoá tinh thần của xã hội phong kiến nước ta từ thế kỷ XV, trước hết nó làm
cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất là dưới triều Lê Thánh
Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo ra một đội ngũ tri
thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Do
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
12
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển.
Hơn nữa sự thịnh trị của Nho giáo từ thế kỷ XV cũng là một hiện
tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là
một học thuyết tích cực nhập thể, nó cổ vũ và khuyến khích mọi người đi sâu
vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp
luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của dân tộc ta về các vấn đề ấy
cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho giáo, nhà vua và các nho sĩ
giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ hơn.
Nhưng Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng
vẫn gắn liền với giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống
trị và tư tưởng của giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về
trước tuy có một vai trò nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với
nhân dân. Và bất cứ một giai cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang
theo những vết bùn nhơ và bàn tay vấy máu của những người lao động. Cho
nên Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho
có không ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra
ngay ở thời kỳ thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực
nghiêm trọng và chứa đựng khả năng suy yếu sau này của nó.
Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí độc tôn thì đã làm cho chủ
nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và
trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu, đều lấy thánh kinh, hiền
truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi người suy nghĩ và
hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho
mọi tình trạng xã hội; lấy những sự tích và điều phạm trong kinh, thư, kinh
xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và khuôn sáo
này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong văn học
và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những cái
khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người nho sĩ
phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp.
Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các
phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
13
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong thực tế, Nho giáo đã làm cho những
người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản
xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo tự nước chứ không hề đếm
xỉa đến các tri thức vè khoa học tự nhiên cũng như về các ngành sản xuất và
lưu thông.
Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau càng gây tác hại không
nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt
Nam không tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống
và của vũ trụ, vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến
những quan hệ chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối
loạn, vấn đề số phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho
giáo trở thành bất lực. Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con
đường phát triển tư duy trừu tượng.
Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc
biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt
nếp sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên
và chân thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản
động, cổ hủ và lạc hậu.
Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại
không ít tác động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự
phát triển văn hoá tại các vùng nông thôn Việt Nam.
1.3 Sự phát triển của Nho giáo qua các triều đại Việt Nam
1.3.1 Đời Lý (1010-1225)
Nho học mới hưng phát. Vua Lý Thánh tông cho lập Văn miếu, làm
tượng thờ Chu công, Khổng tử, bảy mươi hai tiên hiền (1070). Vua Lý Nhân
tông mở khoa thi đầu tiên tên là Tam trường (1075), Lê Văn Thịnh đậu thủ
khoa; mở Quốc tử giám (1076); lập Hàn lâm viện (1086), tuyển Mạc Hiển
Tích làm hàn lâm học sĩ. Danh nho triều Lý có Lý Đạo Thành, Trương Bá
Ngọc, Tô Hiến Thành...
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
14
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
1.3.2 Đời Trần (1225-1400)
Vua Trần Thái tông mở khoa thi Thái học sinh (1232); khoa Tam giáo
(1247) và mở khoa Tam khôi (1247) tuyển trạng nguyên, bảng nhãn, thám
hoa. Khoa ấy, Lê Văn Hưu đổ bảng nhãn, là sử gia Việt Nam đầu tiên, tác giả
Đại Việt sử ký. Vua còn mở Quốc học viện (1253) giảng Tứ thư, Ngũ kinh.
Văn học đời Trần rất thịnh, nhờ khoa cử thúc đẩy. Danh nho có Mạc
Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn (viết Giới Hiên toàn tập), Trương Hán Siêu,
Lê Lập, Phạm Sư Mạnh (viết Hiệp Thạch tập), Chu An (viết Tứ thư thuyết
ước, Tiều Ẩn thi), Hàn Thuyên...
1.3.3 Nhà Hồ (1400-1407), Hậu Trần (1407-1413), Minh thuộc
(1414-1427)
Hồ Quý Ly thay nhà Trần, lập nên nhà Hồ. Nước loạn, quân Minh xâm
lăng, cướp sách vở đưa về Kim Lăng; những gì không đem được thì đốt, thiệt
hại không kể xiết. Nhà Minh đưa Tống Nho vào Việt Nam.
1.3.4 Đời Hậu Lê (1428-1788)
Nho học rất được chú trọng, được tôn là quốc học. Khoa cử thúc đẩy,
hình thành tầng lớp nho sĩ trí thức đông đảo. Kinh đô có Quốc tử giám, Thái
học viện. Vua Lê Thánh tông chia nước làm mười ba đạo, hầu hết các đạo ở
đồng bằng đều lập trường công, ấn định quy chế thi cử. Năm 1463 có chừng
1400 người thi Hội ở Thăng Long; năm 1475 tăng lên khoảng 3000 thí sinh.
Từ triều Lê, người thi đậu rất vẻ vang: có lễ xướng danh, lễ vinh quy, lễ khắc
tên tiến sĩ vào bia đá ở Văn miếu.
Danh Nho đời Lê có Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Bùi Cầm Hổ, Nguyễn
Thiên Tích, Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương Thế Vinh, Đỗ Nhuận,
Thân Nhân Trung, Lương Đắc Bằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc
Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ, Giáp Hải, Nguyễn Mậu Nghi, Phạm
Công Trứ, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Hãng, Phạm Đình Trọng, Lê Quý
Đôn, Lý Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên...
1.3.5 Đời Tây Sơn (1788-1802)
Sau khi đánh bại quân Thanh giữa năm Kỷ dậu (1879), vua Quang
Trung lập Sùng chính viện, cử La Sơn Phu tử Nguyễn Thiệp làm viện trưởng,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
15
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
với trọng trách chấn chỉnh lại Nho học Việt Nam. La Sơn Phu tử dịch xong
các sách Tiểu học, Tứ thư và Ngũ kinh ra chữ Nôm, chưa kịp cải cách thì vua
Quang Trung mất.
1.3.6 Đời Nguyễn (1802-1945)
Nền học thuật gắn liền khoa cử ngày càng suy. Thực dân Pháp xâm
chiếm đất nước. Cái học theo phương Tây khởi sự chen vào. Nền Nho học cử
nghiệp cổ truyền dần dần mai một, chấm dứt năm 1915 ở miền Bắc, rồi 1918
ở miền Trung.
Sự phát triển của Nho giáo trong thời Lê Nguyễn sẽ được nói kỹ ở
chương sau.
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
16
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỰC THỊNH CỦA NHO GIÁO
THỜI KỲ LÊ - NGUYỄN Ở VIỆT NAM
2.1 Thời Lê
Thời Lê là một giai đoạn lịch sử có diễn biến phức tạp cả về chính trị
xã hội và hệ tư tưởng. Qua các nguồn sử liệu, chúng ta nhận thấy rằng, trong
thời kỳ nhà Lê cực thịnh (1428-1527), Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng
chính thống của vương triều và phổ cập trong đại bộ phận dân cư làng xã.
Tài liệu lịch sử đã ghi nhận Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ
rất sớm. Ngay từ thời Bắc thuộc, những hoạt động xã hội mang màu sắc Nho
giáo như việc mở các trường học dạy kinh điển Nho gia, tiến hành các nghi
thức cúng tế thần linh... đã xuất hiện. Nhưng có lẽ mãi đến thời Lê, Nho giáo
mới thực sự xác lập một cách vững chắc và có ảnh hưởng một cách toàn diện
đến xã hội Đại Việt. Lịch sử phát triển của nó, có thể nói, bắt nguồn từ thời
Minh thuộc. Với dã tâm biến Đại Việt thành quận huyện của “thiên triều”,
nhà Minh thực hiện một cách mạnh mẽ công cuộc đồng hóa. Một trong những
biện pháp quan trọng là dùng lễ giáo Nho gia để giáo hóa dân. Điều đó thể
hiện trước hết ở việc vua tôi nhà Minh tiến hành thiêu hủy, đập phá những
công trình liên quan đến học vấn và những di sản văn hóa của người Việt.
Bên cạnh đó chúng đưa hàng loạt thư tịch làm tài liệu giảng dạy, lập nhà học
để phổ biến kinh điển Nho gia ở khắp các quận huyện nước ta, đào tạo nên
tầng lớp quan lại mang đậm tư tưởng Tống Nho.
Có thể nói, Nho giáo thời Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết
Tống Nho. Học thuyết này do các nhà nho đời Tống xây dựng trên cơ sở học
thuyết của Khổng Tử nhằm phục vụ yêu cầu phát triển mới của chế độ phong
kiến Trung Quốc lúc bấy giờ. Về mặt triết học, Tống Nho là một thứ lý luận
duy tâm bảo thủ, còn về phương diện chính trị, xã hội thì nó ra sức biện hộ
cho chế độ quân chủ chuyên chế, củng cố sự phân biệt đẳng cấp và các trật tự
phong kiến trong xã hội.Đây là học thuyết chính trị xã hội, là hệ thống giáo lý
về đạo đức nhằm tổ chức xã hội với phương châm “lễ trị”, được các triều đại
phong kiến sử dụng như một công cụ để trị nước thời quân chủ. Thời kỳ này,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
17
Lớp: LTQL4
Môn: Lịch sử tư tưởng Phương Đông và Việt Nam
Nhóm 3
Nho giáo đã trở thành yếu tố chủ đạo trong đời sống tư tưởng của người Việt,
với các quan niệm về nhân, lễ, nghĩa, tín, trung, hiếu... nó giữ vị trí độc tôn về
mặt tư tưởng, và từ một hệ tư tưởng đã trở thành một tôn giáo.
Tuy nhiên, Nho giáo khi truyền bá sang nước ta cũng đã ít nhiều biến
đổi cho phù hợp với yêu cầu và đặc điểm phát triển của xã hội thời bấy giờ.
Thiết lập và vận hành bộ máy chính quyền ở một nước mà tinh thần yêu nước,
ý thức độc lập từ lâu đã thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân và là nguồn sức
mạnh của dân tộc, nhà Lê trong thời kỳ hưng thịnh, vừa chịu chi phối của hệ ý
thức ấy vừa tôn trọng phong tục, tập quán truyền thống. Như vậy, trong lúc sử
dụng Nho giáo làm chuẩn mực để xây dựng chế độ xã hội, làm công cụ để trị
nước, nhà Lê đã gắn bó quyền lợi giai cấp của mình với lợi ích của dân tộc.
2.1.1 Luật pháp thời nhà Lê
Qua một số bộ luật, các điều giáo huấn và một số hương ước hiện còn
lưu giữ được, chúng ta nhận thấy rất rõ nhiều điều luật, điển chế mang đậm
nét tư tưởng của Nho giáo như Quốc triều hình luật, còn được gọi là Luật
Hồng Đức, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức thiện chính thư, 24
điều Huấn dân đại cáo của Lê Thánh Tông.
Các vua Lê rất chú ý đến việc xây dựng hệ thống điển chế pháp luật,
kết hợp chặt chẽ giữa lễ và pháp. Nhà nước đưa lễ vào luật, luật và lễ hỗ trợ
nhau tạo ra một xã hội hướng Nho. Trong những bộ luật đó có nhiều điều đề
cao vấn đề lễ của Nho gia, bao gồm các lễ giáo và nghi lễ. Nhìn chung, vấn đề
lễ rất được coi trọng, bởi hình thái ý thức này giúp khuôn mẫu hóa và ổn định
các hành vi đạo đức, lối sống của con người, khiến xã hội đi vào trật tự, dễ
quản lý. Thuyết “chính danh” được tôn trọng thực hiện đã giúp cho mỗi con
người trong xã hội đều có những chuẩn mực hành vi riêng (được gọi là khuôn
mẫu văn hóa) do địa vị xã hội của mình quy định. Như vậy, triều Lê đã cụ thể
hóa giáo lý Nho gia bằng các luật lệ và những giáo điều khá chi tiết, bao gồm
cả việc giảng giải các đạo lý về cương thường, điều chỉnh các hành vi trong
ứng xử của mỗi cá nhân trong đời sống cho hợp “lễ” như: trung hiếu, tiết
nghĩa; các quy định về tôn ti trật tự...; quy định về các nghi lễ cúng tế giỗ
chạp, ma chay, cưới xin; quy định các nghi tiết về trang phục, ăn uống, quy
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
18
Lớp: LTQL4
- Xem thêm -