SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"SỨ DỤNG PHƯƠNG PHÁP TRỰC QUAN KHI GIẢNG DẠY
MÔN MĨ THUẬT TRONG TRƯỜNG TIỂU HỌC"
A – PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lịch sử nghiên cứu đề tài.
Trước khi nghiên cứu và viết đề tài: “ Kinh nghiệm sử dụng phương pháp trực
quan khi dạy học môn Mĩ thuật trong trường Tiểu học”, tôi đã có 12 năm giảng dạy
thực tế ở trường tiểu học Hồng Châu và hằng năm tôi cũng viết sáng kiến kinh nghiệm
với nhiều đề tài khác nhau cho môn dạy của mình. Song, đây là đề tài lần đầu tiên tôi
nghiên cứu ở phạm vi rộng, xuyên suốt chương trình môn Mĩ thuật bậc tiểu học với năm
phân môn: Vẽ theo mẫu; Vẽ đề tài; Vẽ trang trí; Tập nặn tạo dáng và Thường thức Mĩ
thuật. Đồng nghiệp của tôi ở Thành phố Hưng Yên nói riêng và ở trong tỉnh nói chung
cũng đã nghiên cứu về phương pháp trực quan khi giảng dạy môn Mĩ thuật nhưng mới
chỉ áp dụng cho từng phân môn nhỏ của bộ môn Mĩ thuật, như đề tài: “ Để sử dụng hiệu
quả phương pháp trực quan khi dạy phân môn vẽ theo mẫu lớp 5” của cô giáo Nguyễn
Thị Thanh Huyền giáo viên trường Tiểu học Bảo Khê năm học 2010-2011; hay đề tài: “
Để sử dụng phương pháp trực quan trong giảng dạy phân môn thường thức Mĩ thuật tiểu
học đạt kết quả tốt nhất.” của thày giáo Hứa Việt Hùng – giáo viên trường Tiểu học Minh
Khai năm học 2009-2010... Tôi đã áp dụng những đề tài trên vào giảng dạy và thấy có
hiệu quả rõ rệt, từ đó tôi đã vận dụng kinh nghiệm của mình để tiếp tục nghiên cứu
phương pháp trực quan ở các phân môn còn lại.
Đứng trước tình hình mới của đất nước ta đang từng ngày, từng giờ đổi mới và phát
triển mạnh mẽ đặc biệt là trong cuộc sống công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đòi hỏi xã hội
phải có những thế hệ người lao động mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, có trình độ nhận
thức cao. Để đáp ứng nhu cầu cấp bách đó của xã hội thì việc giáo dục con người phát
triển toàn diện trên 5 mặt: " Đức – trí – lao - thể - mĩ" là mục tiêu hàng đầu. Trong đó Mĩ
thuật đóng một vai trò không nhỏ trong sự nghiệp lớn lao ấy - Sự nghiệp giáo dục.
Con người sống giữa thiên nhiên “đầy ắp” ngôn ngữ tạo hình, đường nét, hình khối,
màu sắc của cỏ cây, hoa lá, mây trời, muôn thú tất cả đều lung linh, đẹp đẽ. Chúng không
chỉ cho ta vật chất để sống mà từ cái đẹp đó đã đem lại cho con người những xúc cảm,
tình cảm yêu đời, yêu người.
Cuộc sống ngày càng phát triển thì nhu cầu thưởng thức cái đẹp sẽ không ngừng
được nâng cao, cái đẹp đã thực sự trở thành một động lực phát triển của xã hội, góp phần
tăng trưởng nền kinh tế quốc dân. Cảm thụ cái đẹp để sống đẹp là mục tiêu của giáo dục,
lấy những cái đẹp để giáo dục con người, như vậy: “Cái đẹp là cái đức”.
Với nhiều lợi thế, môn Mĩ thuật sẽ tạo điều kiện cho học sinh học có hiệu quả hơn
các môn học khác, thể hiện ở khả năng quan sát, nhận xét, cách suy nghĩ, tìm tòi, sáng
tạo, tư duy hình tượng và phương pháp làm việc khoa học sẽ góp phần hình thành phẩm
chất của con người lao động trong thời kì CNH, HĐH đất nước.
II. Lý do chọn đề tài.
Hiện nay việc đổi mới phương pháp dạy học vẫn là một vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu giáo dục quan tâm bàn bạc thống nhất. Cụ thể biện pháp nhằm cải tiến
phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá quá trình dạy học, tăng cường khả năng tư
duy của học sinh ở quá trình lĩnh hội tri thức, phát huy tính độc lập, tính tích cực của học
sinh được làm việc dưới nhiều hình thức và có được hứng thú trong giờ học. Một trong
những phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực của học sinh, tính độc lập sáng
tạo, độc lập tư duy là biện pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Việc giảng dạy môn Mĩ thuật
ở trường tiểu học cũng như những môn học khác, đồ dùng trực quan đóng một vai trò
quan trọng trong giờ giảng. Bởi vì đồ dùng trực quan khi sử dụng có hiệu quả trong tiết
giảng sẽ giúp học sinh tìm hiểu, so sánh, nhận xét, phán đoán và ghi nhận sự vật dể dàng
hiểu sự vật qua con mắt quan sát bằng nét vẽ, hình vẽ, màu sắc một cách nhanh chóng,
nhớ sự vật lâu hơn.
Vì thế mà tôi muốn đề cập đến phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
môn Mĩ thuật ở tiểu học, sao cho bài giảng đạt kết quả cao nhất từ đồ dùng trực quan và
mạnh dạn xây dựng đề tài sáng kiến kinh nghiệm:
“ Kinh nghiệm sử dụng phương pháp trực quan khi dạy học môn Mĩ thuật
trong trường Tiểu học”.
III. Mục đích nghiên cứu.
Tôi suy nghĩ, nghiên cứu để viết đề tài: “ Kinh nghiệm sử dụng phương pháp
trực quan khi giảng dạy môn Mĩ thuật trong trường Tiểu học” với mục tiêu tìm ra một
số giải pháp tốt nhất góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Mĩ thuật của
trường Tiểu học Hồng Châu – Thành phố Hưng Yên nói riêng và của ngành giáo dục nói
chung; đó là mục đích để tôi nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm này.
IV. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học môn mĩ thuật ở trường
Tiểu học.
2. Phạm vi nghiên cứu.
- Học sinh từ khối lớp 1 đến khối lớp 5 Trường tiểu học Hồng Châu – Thành phố
Hưng Yên và một số trường khác ở địa phương.
+ Trong trường :
- Phân loại học lực của tất cả các học sinh.
- Tìm hiểu thái độ học tập của học sinh.
+ Trường khác :
- Tìm hiểu việc giảng dạy Mĩ thuật ở trường Tiểu học.
- Kết quả hoạt động qua một số năm.
V. Phương pháp nghiên cứu.
a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu :
Nghiên cứu qua các văn bản, chương trình, giáo trình, tài liệu sách báo về phương
pháp dạy học môn Mĩ thuật.
b) Phương pháp nghiên cứu thực tiễn :
- Điều tra phỏng vấn tình hình học sinh.
- Dự chuyên đề trao đổi, dự giờ, rút kinh nghiệm về phương pháp giảng dạy môn
Mĩ thuật.
- Thực hành giảng dạy theo phương pháp mới.
- Tìm giải pháp rút kinh nghiệm.
- Cho HS hoạt động ngoài trời, thăm quan, toạ đàm.
- Phương pháp thực nghiệm: dạy thí điểm ở một số lớp bằng phương pháp đang
nghiên cứu.
B- NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Dạy học môn Mĩ thuật trong nhà trường Phổ thông nói chung và ở Tiểu học nói
riêng không nhằm mục đích đào tạo học sinh thành những hoạ sĩ hay những nhà nghiên
cứu nghệ thuật chuyên nghiệp, mà là để giáo dục cho các em một thị hiếu thẩm mĩ cần
thiết cho việc hình thành và phát triển một nhân cách toàn diện, hài hoà: đó là khả năng
biết cảm nhận cái đẹp và tạo ra cái đẹp – trước hết là cho chính các em, sau là cho gia
đình và xã hội. Bên cạnh đó môn Mĩ thuật còn hỗ trợ các em ở các môn học khác, giúp
các em phát triển toàn hiện, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng
cơ bản góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong xã hội phát triển nhu cầu thẩm mĩ ngày càng cao, do vậy việc đào tạo con
người biết nhận thức, cảm thụ cái đẹp ngày càng quan trọng. Những năm qua giáo dục
thẩm mĩ đã trở thành môn học trong chương trình giáo dục phổ thông, là một môn học
độc lập, môn Mĩ thuật có mục tiêu chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn, thiết bị
riêng cho dạy và học, giáo viên được đào tạo, kết quả học tập của học sinh được theo dõi
và kiểm tra, đánh giá một cách nghiêm túc. Việc giảng dạy môn Mĩ thuật đảm bảo cho
các em có thể giải quyết được các bài tập hàng ngày và hiểu về vẻ đẹp, về nền Mĩ thuật
truyền thống, ngoài ra nó còn tạo điều kiện cho học sinh học có hiệu quả cao hơn các
môn học khác như khả năng quan sát hay trình bày một bài văn, một bài toán sao cho
khoa học, thẩm mĩ.... Tất cả những điều đó là từ phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học
mỗi khi lên lớp của giáo viên dạy Mĩ thuật. Hơn nữa, lứa tuổi học sinh tiểu học lại là lứa
tuổi tư duy còn đang ở độ thấp (tư duy cụ thể), cho nên khi sử dụng đồ dùng trực quan thì
đồ dùng phải sinh động, phải cụ thể để học sinh có được khả năng tự giác tư duy trừu
tượng qua tay sờ, mắt thấy, tai nghe và có được hứng thú học tập, hiểu vấn đề nhanh, nhớ
đồ dùng trực quan lâu trong khi vận dụng làm bài thực hành.
Chính vì thế khi nói đến phương pháp sử dụng trực quan trong môn Mĩ thuật là ta
phải nghĩ ngay đến một vấn đề có ý nghĩa quan trọng, vấn đề đưa lên hàng đầu trong các
phương pháp giảng dạy Mĩ thuật ở tiểu học. Song, bên cạnh đó các phương pháp khác
như: phương pháp quan sát, phương pháp thực hành, phương pháp trò chơi... phải luôn
được kết hợp hài hoà, khoa học với phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học để mỗi giờ
dạy học môn Mĩ thuật đạt chất lượng cao nhất.
Đối với học sinh, vẽ là một trò chơi có sức hấp dẫn kì lạ ở mọi lứa tuổi. Các em có
thể vẽ bất cứ lúc nào và vẽ bất cứ thứ gì. Những hình vẽ đầy sáng tạo của các em làm
chúng ta từ ngạc nhiên đến cảm động, từ vui mừng đến hy vọng. Tuy nhiên, không phải
em nào cũng thích vẽ, cũng mơ ước trở thành hoạ sĩ. Cho nên ngoài những phẩm chất Mĩ
thuật vốn là mẫu số chung của mọi tác phẩm, để cảm thụ vẻ đẹp của tranh các em cần đặt
chúng vào trong hoạt động tâm lý trẻ – quá trình phát triển của lứa tuổi, cá tính, giới tính.
Thiếu nhi là lứa tuổi ham thích hoạt động, nhất là hoạt động tạo hình cùng với sự
lớn lên của cơ thể, đặc điểm tâm lý trẻ bắt đầu hoàn thiện. Một số học sinh có nhu cầu
thưởng thức các tác phẩm hội hoạ, điêu khắc, các công trình kiến trúc… Trong quá trình
tìm hiểu, quan sát thiên nhiên, các em dần có ý thức về xa - gần, về không gian ba chiều.
Đây chính là giai đoạn miêu tả tạo hình của một đối tượng. Nhờ thâm nhập vào đời sống
xã hội, đời sống tinh thần của thiếu nhi, tôi nhận thấy ở lứa tuổi này, các hình ảnh trong
tranh các em rất gần với bản chất thực của cuộc sống. Thời kì này đối với các em là một
bước ngoặt trong sự phát triển nhân cách. Vì vậy trong đội ngũ các em học Mĩ thuật đã có
sự phân hoá rõ rệt, các em vẽ hiện thực có so sánh, gần gũi với bản chất sự vật và bản
chất cuộc sống. Các bài học thực hành không còn sơ lược nữa mà đi vào chi tiết, hình
dáng, tỉ lệ, không gian ba chiều. Để có kết luận chặt chẽ, chính xác quá trình chuyển biến
đó, để năng khiếu sơ khai phát triển thành năng khiếu hoàn thiện thì phải tổ chức dạy và
học làm sao cho phù hợp với quy luật tâm lý của học sinh để duy trì và kích thích sự phát
triển ở học sinh góp phần cho việc dạy và học môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học hiệu quả
hơn.
Bên cạnh hiểu biết về tạo hình truyền thống, học sinh còn được mở rộng tầm nhìn
ra Thế giới, các em được làm quen với các tác phẩm kiệt tác của các danh hoạ thế giới
qua các thời kì lịch sử, các em được học vẽ từ những nét cơ bản nhất đến khi biết tạo ra
sản phẩm của cái đẹp. Từ đó, các em càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của môn Mĩ
thuật đối với cuộc sống và phục vụ các môn học khác. Các em sẽ thấy quý trọng các giá
trị truyền thống của dân tộc. Để làm được điều này đòi hỏi giáo viên phải có phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan và phối hợp với học sinh một cách nhịp nhàng trong
khi lên lớp, nhằm giúp học sinh từng bước nâng cao nhận thức làm cho tâm hồn các em
trở nên phong phú, phát triển toàn diện nhân cách. Từ đó, bản thân tôi đã chọn nghiên
cứu đề tài này.
CHƯƠNG II – CƠ SỞ THỰC TIỄN
Từ thực tế giảng dạy môn Mĩ thuật tôi thấy các em rất yêu thích Mĩ thuật, vì qua
đó các được tiếp xúc, làm quen với một số tác phẩm hội hoạ nổi tiếng và của thiếu nhi
không những ở trong nước mà cả của quốc tế. Các em được vẽ tranh, vẽ những gì mình
mơ ước, mình yêu thích, tập trung trang trí góc học tập của mình,... Song bên cạnh việc
giảng dạy cho học sinh tiếp thu tốt những kiến thức cơ bản đó thì tôi thấy còn gặp nhiều
hạn chế như: nhận thức của phụ huynh học sinh chưa coi trọng môn học, còn cho rằng đó
là môn phụ, cho nên đồ dùng học sinh còn thiếu thốn, ít đầu tư. Mặt khác một số giáo
viên chưa có phương pháp dạy thích hợp để giúp học sinh thấy hết cái hay, cái đẹp của
môn học, cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, tuy đã có phòng chức năng nhưng
chỉ tạm thời. Vì phòng học chưa có đủ đồ dùng cần thiết để phục vụ môn học, bàn ghế
còn thô sơ, tư liệu có liên quan còn hạn chế. Vì thế trong quá trình giảng dạy tôi luôn
phải cố gắng chuẩn bị tốt các khâu để kích thích động viên học sinh thường xuyên, kịp
thời. Và tôi cũng gặt hái được một số thành quả đáng kể, phần lớn học sinh say sưa với
môn học và hiểu được cái hay, cái đẹp trong môn học, góp phần hình thành ở các em khả
năng cảm thụ thẩm mĩ. Chính vì những lý do trên mà tôi đã nghiên cứu đề tài để góp
phần hoàn thiện nhân cách toàn diện cho HS, nâng cao chất lượng dạy và học của trường
Tiểu học Hồng Châu nói riêng và của ngành giáo dục đào tạo nói chung.
Qua quan sát và điều tra cơ bản ở các trường thuộc địa bàn Thành phố Hưng Yên, cụ
thể là ở trường Tiểu học Hồng Châu, cho thấy:
a.Về phía nhà trường:
Trường tiểu học Hồng Châu là ngôi trường đạt chuẩn quốc gia mức độ 2, cơ sở vật
chất của trường khang trang cơ bản đầy đủ cho việc dạy và học . Ban giám hiệu nhà
trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ về đồ dùng dạy học, đồng thời phân bố thời gian giảng
dạy hợp lý .
Song với bộ môn Mĩ thuật thì trang thiết bị, đồ dùng dạy học còn thiếu nhiều, đa
phần đều in lại từ SGK, tranh ảnh mĩ thuật dù có nhưng hạn chế, tranh ảnh hoạ sĩ Việt
Nam và mĩ thuật hiện đại Phương Tây hầu như không có để các em quan sát. Nhất là
những bài tìm hiểu về tượng, những bài vẽ theo mẫu, vẽ trang trí..., các tài liệu liên quan
đến Mĩ thuật Việt Nam cũng như Mĩ thuật thế giới ở thư viện không có vì vậy phần nào
hạn chế những hiểu biết của các em.
b. Về phía học sinh:
Qua khảo sát tôi thấy:
- Đa số học sinh có đầy đủ SGK, dụng cụ học tập như giấy, bút chì, màu vẽ…
- 99% học sinh thích học môn mĩ thuật, 1% không thích học do không có năng khiếu.
- Học sinh vùng cận nông thôn hầu hết ít được tiếp xúc với Nghệ thuật nói chung và
Mĩ thuật nói riêng nên còn hạn chế. Đặc biệt kiến thức để các em tìm hiểu cái đẹp, cái
hay trong môn mĩ thuật lại chủ yếu dựa vào nguồn tư liệu duy nhất đó là SGK và vở tập
vẽ.
- Quan điểm của một số phụ huynh học sinh trong trường chưa có cái nhìn tích cực về
môn Mĩ thuật nên dẫn đến việc một số học sinh chưa có đầy đủ đồ dùng .
CHƯƠNG III – THỰC TRẠNG
Trong những năm học vừa qua, tôi được phân công giảng dạy môn Mĩ thuật tại
trường Tiểu học Hồng Châu, tôi thấy hầu hết các em đều thích học vẽ, các em học tập với
tinh thần hăng say, cảm nhận được cái hay, cái đẹp được thể hiện từ nội dung và hình
thức mỗi khi các em vẽ một bức tranh hay một bài tập thực hành. Bên cạnh đó còn một số
học sinh nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình, một số em
còn chán nản không thích học vẽ. Tất cả những vấn đề trên đã ảnh hưởng lớn đến việc
học Mĩ thuật của học sinh nên tôi đã tiến hành điều tra ở một số lớp để tìm ra nguyên
nhân những HS thích học vẽ và không thích học vẽ, từ đó tìm ra biện pháp khắc phục.
Do đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh tiểu học còn nhỏ, sự tập trung chưa cao, nhận
thức của các em mới là làm quen với những kiến thức ban đầu, kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực hành còn yếu chưa chú ý đến vai trò của các bước thực hành khi vẽ tranh.
Giờ học vẽ còn trầm, học sinh vẽ bài uể oải, chán nản, tiết học đạt hiệu quả không cao,
nhiều học sinh không hoàn thành bài tại lớp. Đó là một số nguyên nhân dẫn đến tiết dạy
chưa thành công. Muốn khắc phục được điều đó, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ
chương trình để có kế hoạch hướng dẫn cho học sinh. Không hướng dẫn chung chung với
tất cả học sinh, cần có phương pháp riêng đối với từng đối tượng học sinh. Tổ chức tiết
dạy sinh động, học sinh hứng thú làm bài đạt hiệu quả.
Vì thế mà tôi muốn đề cập đến phương pháp sử dụng trực quan trong giảng dạy
môn Mĩ thuật ở tiểu học sao cho bài giảng đạt kết quả cao nhất.
Dưới đây là thống kê trước khi tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
Số học sinh thích
Lớp
Sĩ số
học
Số học sinh không
thích học môn Mĩ
thuật
TS
%
TS
%
1B
29
20
68,9
9
31
2A
36
26
72,2
10
27,7
3B
21
17
80,9
4
19
4A
29
22
75,8
7
24,1
5B
18
14
77,7
4
22,2
Ghi chú
CHƯƠNG IV – GIẢI PHÁP
Theo mục đích, yêu cầu mỗi bài giảng thì phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
luôn được vận dụng trong việc giảng dạy Mĩ thuật ở tiểu học vì nó phù hợp với đặc điểm
của môn học và phù hợp với đặc điểm tri giác của học sinh.
Phương pháp trực quan đối với môn Mĩ thuật có những yêu cầu cụ thể như: Yêu
cầu về chuẩn bị đồ dùng trực quan và sử dụng đồ dùng trực quan. Vậy khi nói đến việc
chuẩn bị đồ dùng trực quan ta phải nghĩ đến nhiệm vụ của môn Mĩ thuật, ngoài việc cung
cấp những tri thức bộ môn và rèn kỹ năng nó còn nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ cho học
sinh. Do đó đồ dùng giảng dạy đưa ra cho học sinh học tập ngoài yêu cầu là đối tượng
cho học sinh quan sát, phù hợp với nội dung bài giảng, còn có yêu cầu là phải đẹp để thu
hút sự chú ý của học sinh, tạo nên không khí nghệ thuật trong giờ học. Làm cho các em
học sinh yêu thích vật mẫu, bởi vẻ đẹp về hình dáng, màu sắc của mẫu, làm phấn chấn
tinh thần học tập của các em. Điều đó góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thẩm mĩ
cho học sinh. Vì thế đồ dùng học tập môn Mĩ thuật không thể tuỳ tiện phải cần có sự
chuẩn bị chu đáo trước theo yêu cầu của bài giảng. Mẫu vẽ to rõ ràng để học sinh nhìn rõ
màu sắc, đường nét phải tươi vui, sáng sủa. Khi đồ dùng trực quan đã được chuẩn bị đầy
đủ, thì tuỳ thuộc vào đặc điểm của mỗi hình thức mĩ thuật mà có những yêu cầu về trình
bày trực quan, để làm sao phát huy được khả năng tư duy khai thác kiến thức triệt để ở
mỗi học sinh.
Từ những tình hình chung đó và kết hợp với tình hình thực tế tôi nhận thấy việc sử
dụng đồ dùng trực quan mỗi giáo viên vẫn còn sự hạn chế khác nhau. Mà cụ thể được thể
hiện ở chất lượng bài tập của các em chưa cao. Khả năng tư duy hiểu bài, nhớ bài thông
qua đồ dùng trực quan là rất thấp. Thậm chí có em quan sát đồ dùng trực quan nhưng
không hiểu hết tác dụng của đồ dùng đó, vì thế hiệu quả của bài vẽ không cao. Để khắc
phục tình trạng này tôi đưa ra một số vấn đề từ thực tế cần giải quyết, nhằm mục đích
giúp giáo viên sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả để cho các em học sinh biết tự khai
thác nội dung bài giảng từ trực quan.
Nói tóm lại, khi sử dụng đồ dùng trực quan mà đồ dùng trực quan không đủ với
yêu cầu bài giảng hay không đúng với mục đích bài giảng hoặc đồ dùng sử dụng không
phù hợp với trình tự giảng, thời gian sử dụng ngắn quá, nhiều đồ dùng quá trong một tiết
dạy đều không đem lại không khí nghệ thuật trong giờ học mà còn có tác dụng tiêu cực
đến khả năng quan sát, phân tích đồ dùng của học sinh.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ giảng Mĩ thuật là việc làm ban đầu, việc
làm không thể thiếu đối với người giáo viên chuyên mĩ thuật khi đứng trên bục giảng. Nó
là đặc thù của bộ môn vì thế giáo viên cần phải hết sức quan tâm chú trọng đến sự chuẩn
bị đồ dùng trước giờ lên lớp sao cho thật chu đáo, thật đầy đủ và sát với yêu cầu, mục
đích bài soạn. Ngoài ra, đồ dùng được chuẩn bị phải có tính thẩm mĩ, phải có cái hồn của
sự vật. Và giáo viên chíng là người thổi hồn vào những sự vật ấy rồi chuyển tải đến học
sinh. Có như vậy thì đồ dùng trực quan khi được đưa ra mới phát huy tác dụng và có sức
thuyết phục đối với học sinh.
Giáo viên phải tạo cho lớp học một không khí nghệ thuật bằng kiến thức có ở đồ
dùng trực quan để học sinh thực hành tốt.
* Phương pháp so sánh :
+ Tổng số học sinh : 256 học sinh trước chưa thực hiện giải pháp kết quả đạt : A + =
20%; A = 80%.
+ Thay đổi giải pháp kết quả đạt : A+ = 40%; A = 60%
+ Chỉ tiêu giao : A+ = 35%; A = 65%
Vậy vượt chỉ tiêu : A+ = 10%;
A = 15%
Tôi tự thấy thay đổi giải pháp dạy môn Mĩ thuật ở trường Tiểu học Hồng Châu theo
cách của tôi đã nghiên cứu là phù hợp.
*Các bước tiến hành:
Bước 1: Giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung bài giảng, phải có giáo án chi tiết
trước khi lên lớp, phải tìm phương pháp truyền đạt nhanh nhất, ngắn nhất từ trực quan.
Bởi đồ dùng trực quan nó phù hợp với đặc điểm môn học, phù hợp với đặc điểm tri giác
của học sinh (tri giác bằng trực quan cụ thể)
Bước 2: Chuẩn bị đồ dùng trực quan phù hợp với các tiến trình giảng trong mục
đích yêu cầu bài soạn. Đồ dùng gồm mẫu vẽ như đồ vật, dụng cụ sinh hoạt, hoa quả, hình
khối...Tranh, ảnh như các phiên bản tranh của họa sĩ, minh hoạ các bước thực hiện bài vẽ,
…. Tất cả phải đáp ứng yêu cầu thẩm mĩ, đúng trọng tâm.
Bước 3: Sử dụng trực quan để có hiệu quả thì khi sử dụng đồ dùng trực quan trong
một tiết học vẽ giáo viên cần lấy mẫu , tranh ảnh làm trung tâm, lấy mẫu, tranh ảnh thay
tiếng giảng giải, thuyết trình của cô. Cô chỉ gợi mở để học sinh tự tư duy, khám phá, khai
thác kiến thức từ mẫu. Có như vậy phương pháp trực quan mới được khai thác triệt để,
kết quả bài học mới đạt chất lượng cao. Giờ học có không khí nghệ thuật sôi nổi hơn.
Qua đó ta thấy phương pháp trực quan sử dụng ở phần quan sát, nhận xét sẽ phát
huy được tác dụng tốt, học sinh hiểu bài một cách dễ dàng, nhanh, độc lập và hiểu sâu.
Giáo viên thì làm việc ít, không phải vất vả mà vẫn gây được hứng thú học tập ở các em.
* Kết quả thực hiện các giải pháp :
Số học sinh thích
Lớp
Sĩ số
học
Số học sinh không
thích học môn Mĩ
thuật
TS
%
TS
%
1B
29
29
100
0
0
2A
36
36
100
0
0
3B
21
21
100
0
0
4A
29
29
100
0
0
5B
18
18
100
0
0
Ghi chú
Kết quả cuối năm 100% các em học sinh thích học Mĩ thuật, các em học tập với
tinh thần hăng say và cũng thông qua việc giảng dạy rút kinh nghiệm của bản thân tôi
nhận thấy đề tài này có những ưu điểm sau :
- Về phía giáo viên: Giáo viên là người tổ chức, định hướng các hoạt động họp tập
của HS; Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đặc biệt là phát huy tốt phương
phương sử dụng trực quan một cách sáng tạo, hiệu quả. Từ đó, sau mỗi tiết giảng chất
lượng học tập ngày một tốt hơn.
- Về phía học sinh: Học sinh được chủ động quan sát, tư duy và sáng tạo. Các em
biết tự khám phá những điều mới lạ trong bài học, theo cách nghĩ và cách hiểu của mình
một cách độc lập tích cực, biết cảm nhận được những cái hay, cái đẹp từ những bài học
cụ thể mà các em được học, được làm quen. Từ đó các em đã tạo ra những sản phẩm
mang tính nghệ thuật đặc trưng của môn học và lứa tuổi.
*Chứng minh những giải pháp trên :
Để chứng minh những giải pháp trên tôi đưa ra một số tiết dạy mẫu như sau :
Lớp 1
Thứ năm, ngày 4 tháng 10 năm 2012
Mĩ thuật
Vẽ hoặc nặn quả dạng tròn
A. Mục tiêu:
- HS nhận biết các đặc điểm, hình dáng, màu sắc quả dạng tròn.
- Vẽ hoặc nặn được quả dạng tròn.
- Chăm sóc, bảo vệ cây xanh.
* Hs khá giỏi: Vẽ hoặc nặn được một số quả dạng tròn có đặc điểm riêng.
B. Chuẩn bị:
Giáo viên
- Tranh, ảnh về một số quả dạng
tròn
- Một số quả mẫu.
Học sinh
- Quả mẫu.
- Vở tập vẽ.
- Đồ dùng học vẽ.
- Tranh minh hoạ.
C. Các hoạt động dạy học chủ
yÕu:
Hoạt động 1: Quan sát, nhận xét
GV bày mẫu, đặt câu hỏi:
- Đây là những quả gì?
- Hình dáng quả?
-Màu sắc?
HS quan sát, tr¶ lêi:
- Táo, cam, bưởi…
GV yêu cầu quan sát tranh để nhận
- Có dạng hình tròn.
biết thêm một số quả có dạng tròn.
- HS kể.
HS quan sát.
Hoạt động 2: Cách vẽ
GV giảng kết hợp minh hoạ bảng:
- Quan sát kĩ mẫu trước khi vẽ.
- Vẽ hình dáng ngoài.
- Vẽ chi tiết
- Vẽ màu theo ý thích hoặc theo
mẫu.
HS quan sát, lắng nghe.
Bước 1
Bước 2+ 3
Hoạt động 3: Thực hành
GV hướng dẫn HS tự bầy mẫu HS bày mẫu vẽ bài.
bằng quả của mình.
GV quan sát, gợi ý cách bố cục.
Hoạt động 4: Nhận xét đánh giá
GV trưng bày và gọi HS nhận xét:
- Quả gì?
- Màu sắc?
- Tìm bài mình thích.
HS nhận xét bài bạn.
* Dặn dò:
- Quan sát cây cối.
- Nhắc HS luôn có ý thức chăm sóc, bảo vệ cây ăn quả, cây xanh.
- Chuẩn bị bài giờ sau.
_________________________________________
Lớp 1
Thứ năm, ngày 22 tháng 11 năm 2012
Mĩ thuật
Bài 13: Vẽ cá
A. Mục tiêu:
- Nhận biết hình dáng chung và các bộ phận và vẻ đẹp của một số loại cá.
- Biết cách vẽ và vẽ được con cá, vẽ màu theo ý thích.
- Yêu thích con vật;Có ý thức bảo vệ và chăm sóc con vật.
* HS khá, giỏi: Vẽ được một vài con cá và tô màu theo ý thích.
B. Chuẩn bị:
Giáo viªn
Học sinh
- Tranh ảnh về các loại cá.
VTV
- Hình hướng dẫn cách vẽ.
Dụng cụ học vẽ.
- Bài vẽ của HS năm trước
C. Các hoạt động dạy học chủ
yÕu:
Hoạt động 1: Quan sát – nhận xét.
GV giới thiệu cá, hỏi:
- Con cá có hình dạng gì?
HS quan sát, tr¶ lêi;
- Có những bộ phận nào?
- Gần tròn, quả trứng, thoi.
- Màu sắc của cá?
- Đầu, mình, đuôi..
- Kể tên một số loại cá mà em
biết ?
- Nhiều màu.
- HS kể.
- Cá có tác dụng gì?
- Để ăn, làm cảnh..
Hoạt động 2: Cách vẽ.
GV giảng minh hoạ cách vẽ.
- Vẽ mình cá.
- Vẽ đuôi.
- Vẽ chi tiết
- Vẽ màu theo ý thích
HS quan sát:
- Xem thêm -