PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Đã từ lâu, Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề
hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh
hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi
đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng
viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng
gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những
tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng,
lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy
sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ
thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng
Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn
cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong
đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên
kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo
lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy
để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành
(khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều
những phương tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập
nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường
say mê “nghiện” sách vở bị lãng quên, ham bạo lực
điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn
ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết
một đoạn văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi
chúng ta rèn luyện cho các em.Hơn thế nữa, tập làm
văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao
của môn Văn – Tiếng Việt, môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong
mối tương quan chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy Tập làm
văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn
văn thông thường. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác,
những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách
xây dựng đoạn văn trong phân môn tập làm văn được coi như vị trí hàng đầu.
Việc rèn cách viết đoạn văn cho học sinh THCS theo trục tăng dần qua các thể
loại văn học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận thuyết minh, điều hành ( hành
chính công vụ). Từ đó giúp các em biết vận dụng các thể loại văn bản để phục
vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của môn
Văn – Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết
theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà
cuộc sống đặt ra cho các em.
Thông qua môn Tập làm văn, qua bài làm văn của mình, các em bọc lộ
những tri thức, vốn sống tư tưởng, tình cảm của cá nhân. Vì thế người giáo viên
phải biết nắm lấy ưu thế này để phát huy những khả năng của các em, đồng thời
qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn giáo viên có dịp uốn nắn điều chỉnh
những lệch trong vốn sống, nhận thức, tư tưởng tình cảm - đặc biệt qua các thể
loại văn học mà các em sẽ học trong chương trình.
Trên đây là những lí do, vị trí, vai trò của việc xây dựng đoạn văn cho học
sinh THCS. Từ những mặt tích cực, hạn chế trên chúng tôi chọn đề tài này để
nghiên cứu và xây dựng các bước để rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt
hơn.
II/ LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết, vấn đề nghiên cứu, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
cho học sinh đã đặt ra từ lâu nhưng chưa được quan tâm nhiều do phân môn Tập
làm văn chưa được xem là phân môn chính và có nhiều quan niệm khác nhau:
Trước cải cách giáp dục (Từ những năm 1980 trở về trước), phân môn Tập
làm văn thuộc về môn Văn, là bộ phận của môn Văn, quan niệm Tập làm văn
giúp cho học sinh tạo lập được những văn bản văn học.
Đến cải cách giáo dục (1980 – 2001), Tập làm văn là một phần của môn
TiếngViệt, quan niệm dạy môn này và Tiếng Việt có tính chất như là công cụ để
học tốt các môn học khác. Làm văn là quá trình giúp học sinh xây dựng văn bản.
Giai đoạn hiện nay: phân môn Tập làm văn có tính độc lập nhưng có mối
quan hệ trực tiếp đến phần Văn và phần Tiếng Việt.
Lần thay sách giáo khoa này, phân môn Tập làm văn được tích hợp cùng
phân môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn mới. Các kiểu văn
bản của Tập làm văn chính là trục để xây dựng nội dung, chương trình Ngữ Văn
THCS từ năm học 2002 – 2003.
III/ MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích.
Tập làm văn với mục đích giúp cho học sinh nắm được các thể loại trong
chương trình tập làm văn ở THCS như Tự sự, Miêu tả, Biểu cảm, Nghị luận,
Thuyết minh, Điều hành. Từ đó, học sinh biết vận dụng các thể loại văn bản để
phục vụ cho học tập, trong đời sống. Đặc biệt đề tài này sẽ giúp cho các em biết
cách xây dựng đoạn văn thuộc các thể loại nói trên, với bố cục đoạn văn dù ngắn
hay dài đều phải đảm bảo mặt nội dung và hoàn chỉnh về hình thức, hướng dẫn
cho các em rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo bố cục ba phần: Mở bài, Thân
bài, Kết luận.
Mỗi đoạn văn đều bao hàm một ý chính của nó. Ý chính đó, có thể đứng ở
đầu đoạn văn theo cách diễn dịch hoặc đứng cuối đoạn văn theo cách qui nạp
hoặc ý chính của các câu bình đẳng nhau, ngang hàng nhau theo cách song hành.
Qua đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình
thức nói hoặc viết, tập vận dụng một cách sáng tạo, tổng hợp những kiến thức đã
tiếp thu được qua các môn Văn – Tiếng Việt và những kiến thức văn hoá xã hội
để có thể nói và viết theo yêu cầu, đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác
nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
Viết đoạn văn (trong phân môn Tập làm văn còn trực tiếp rèn luyện cho học
sinh một số đức tính như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì…Bởi vì môn
này góp phần phát triển trí tưởng tượng óc sáng tạo, biết phân biệt: đúng, sai,
tốt, xấu, phải, trái… Từ đó, nuôi dưỡng tâm hồn học sinh hướng tới cái chân,
thiện, mĩ.
2. Nhiệm vụ
Người giáo viên phải nắm lấy ưu thế của học sinh như những tri thức, vốn
sống, tư tưởng, tình cảm để phát huy những khả năng cao hơn. Đồng thời, qua
đó uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, vốn sống, tư
tưởng, tình cảm của các em.
Củng cố kiến thức Tiếng Việt và Văn học góp phần bồi dưỡng tâm hồn, trí
tuệ để học sinh biết rung động trước cái hay, cái đẹp, hướng các em tới nhu cầu
thẩm mĩ, sáng tạo và biết tôn trọng những giá trị thẩm mĩ khi xây dựng đoạn
văn.
Là bộ môn khó, đặc biệt yêu cầu kĩ năng càng khó hơn, đòi hỏi chúng ta
phải dày công, kiên trì dạy các em. Qua đó, hình thành thói quen, kĩ năng phân
tích đề, lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, trình bày, diễn đạt. Trong đó,
cách viết đoạn, dựng đoạn càng quan trọng trong bước đầu tạo lập viết đoạn,
dựng đoạn càng quan trọng trong bước đầu lập văn bản. Cũng từ dựng đoạn,
nhiệm vụ của giáo viên Ngữ Văn là phát huy năng lực tư duy, năng lực sử dụng
ngôn ngữ, giúp các em biết tích luỹ vốn kiên thức, biết huy động vốn kiến thức,
biết đặt ra các vấn đề và giải quyết các vấn đề ấy. Qua đó, biết trình bày kết quả
tư duy của mình một cách rõ ràng, chặt chẽ, có sức thuyết phục trước từng vấn
đề, từng kiểu văn bản khi viết đoạn và trong giao tiếp. Là phân môn có tính thực
hành cao, nên giáo viên cần cho học sinh đọc nhiều đoạn văn mẫu, viết nhiều
đoạn văn để tạo lập văn bản được dễ dàng hơn. Đó là những mục đích, nhiệm vụ
nghiên cứu của giáo viên Ngữ văn trong bước rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn
cho học sinh THCS.
IV/ ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Điều tra các đối tượng học sinh, phạm vi nghiên cứu ở một số trường trong
Huyện.
Đối tượng phần lớn là học sinh khối THCS.
V/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
Trước hết, chúng ta phải có cái nhìn khái quát toàn bộ chương trình ở cấp
THCS như sau:
Chương trình Tập làm văn THCS đồng tâm với chương trình Tập làm văn
của Tiểu học nhưng ở yêu cầu cao hơn, tiếp tục và hoàn chỉnh chương trình ở
THCS, mở rộng các thể văn mới hơn, yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Chương
trình Tập làm văn có mối quan hệ khá rõ ràng: Giữa Văn – Tiếng Việt – Tập làm
văn. Để trở thành thao tác tốt viết đoạn văn, giáo viên hướng dẫn học sinh như
cách dùng từ đặt câu và cao hơn là dựng đoạn. Vì vậy, có thể nói học sinh được
học và thực hành 15 loại văn bản ở bậc THCS, đủ để giao tiếp bằng văn bản và
tiếp tục học lên ở những bậc trên.
1. Phương pháp lí thuyết.
Bước đầu dạy cho học sinh những khái niệm về từng thể loại văn, làm quen
với những đề văn mẫu, những bài văn mẫu và tìm hiểu cụ thể từng bài qua các
tiết học: Lí thuyết về đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh học, tìm hiểu cách xây
dựng đoạn văn, bố cục đoạn văn, các câu chốt (câu chủ đề) trong đoạn văn, viết
theo các cách diễn dịch, qui nạp, song hành, móc xích …Từ đó, cho học sinh tập
viết đoạn văn, có vận dụng lí thuyết về thể loại văn ấy. Tuy nhiên, phương pháp
lí thuyết không quá nặng.
2. Phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu.
Học sinh là chủ thể trong quá trình dạy học để phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của các em trong quá trình tiếp nhận. Trong quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu cho học sinh tự thân vận động là chính, giáo viên im lặng đến mức tối
đa để khuyến khích học sinh sáng tạo trong giờ Tập làm văn. Vậy, trong tiết học
Tập làm văn mà đặc biệt là tiết rèn luyện viết đoạn văn, hướng dẫn các kĩ năng
nghiên cứu, tìm hiểu để vận dụng các kiến thức đã học để dựng đoạn theo đặc
điểm thể loại để tạo lập văn bản.
3. Phương pháp kiểm tra, khảo sát.
Với phương pháp này, đòi hỏi học sinh phải thực hành liên tục, chắc chắn
các thao tác từ lí thuyết về thể loại sau đó đến nghiên cứu, tìm hiểu. Từ đó, ta
mới đi vào kiểm tra, khảo sát để thấy được sự vận dụng tổng hợp, để sáng tạo
văn bản qua nhiều bước trong quá trình rèn luyện các kĩ năng. Đó là điều kiện
để đánh giá học sinh thông qua bài kiểm tra, bài viết ở lớp (hoặc ở nhà) đòi hỏi
phải đánh giá đúng năng lực của học sinh và đòi hỏi một sự nhạy cảm của thầy
trước yêu cầu thực hành của học sinh.
4. Phương pháp cố vấn, chuyên gia.
Đây là những phương pháp khó đối với học sinh. Học sinh thường không
chú ý đến những cái khó khăn này và cũng không cần hỏi ai những vấn đề cần
tháo gỡ, cần đến chuyên gia cố vấn.
Mặc dù, mức độ lí thuyết mang tính trừu tượng, việc kiểm tra, đánh giá, cố
vấn, chuyên gia, giáo viên giúp học sinh vận dụng kiến thức vào viết văn rõ ràng
hơn.
Như vậy, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn nói chung và viết đoạn văn
biểu cảm nói riêng giáo viên phải định hướng cho các em biết đối chiếu giữa
thực hành và lí thuyết, đối chiếu kết quả thực hành của mình với yêu cầu chung.
Nhưng, phương pháp cố vấn, chuyên gia phải được liên hệ một cách chặt chẽ
giữa giáo viên với học sinh.
Trên đây là một số các phương pháp nghiên cứu đối với việc rèn luyện các
kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm cho học sinh THCS.
PHẦN THỨ HAI:
NỘI DUNG
A/ LÍ THUYẾT VỀ ĐOẠN VĂN VÀ THỰC TRẠNG VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
KẾT HỢP VỚI MIÊU TẢ - BIỂU CẢM CỦA HỌC SINH THCS.
I/ LÍ THUYẾT VỀ ĐOẠN VĂN
Như chúng ta đã biết, bài viết được cấu thành bởi các đoạn văn( văn bản)
theo những phương thức và bằng những phương tiện khác nhau. Dựng đoạn
được triển khai từ ý trong dàn bài. Có thể Đoạn văn là một ý hoặc nhiều ý và
cũng có thể một ý có nhiều đoạn. Trong đoạn văn thường có bố cục ba phần: mở
đoạn, phát triển đoạn và kết đoạn. Ở góc độ đặc điểm cấu trúc thì các đoạn văn
có thể là đoạn diễn dịch, qui nạp, móc xích, song hành…
Để rèn luyện được kĩ năng viết đoạn văn, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ yêu
cầu diễn đạt thành lời, thành đoạn, phải sử dụng các phương tiện ngôn ngữ sao
cho phù hợp với ý của đoạn để hiệu qủa biểu đạt cao hơn, đoạn văn có sức cuốn
hút hơn với người đọc. Kĩ năng dựng đoạn văn gắn với kĩ năng luyện nói trên
lớp. Có triển khai ý thành đoạn cũng mới tiến hành được. Đây là những thao tác,
những kĩ năng có khi thực hiện và rèn luyện đồng thời cùng một lúc.
Qua đó, ta có thể hiểu được: Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản,
bắt đầu từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xưống dòng và
thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo
thành. Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề. Từ ngữ chủ đề là các từ
ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần (thường là
chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa) nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt. Câu chủ
đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và
đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn (hay còn gọi là câu chốt). Các câu trong đoạn
văn có nhiệm vụ triển khai và làm rõ chủ đề của đoạn bằng các phép diễn dịch,
qui nạp, song hành…
Khi chuyển từ đoạn này sang đoạn khác, cần sử dụng các phương tiện liên
kết để thể hiện quan hệ ý nghĩa của chúng. Có nhiều phương tiện liên kết trong
đoạn văn: dùng từ ngữ có tác dụng liên kết, quan hệ từ, đại từ, chỉ từ, các cụm từ
thể hiện ý liệt kê, so sánh, đối lập, tổng kết, khái quát…,và dùng câu nối trong
đoạn văn. Đoạn văn liên kết nhằm mục đích tạo sự liền mạch một cách hợp lí,
tạo tính chỉnh thể cho văn bản.
Như vậy, các phương tiện liên kết vốn mang ý nghĩa, nhưng đồng thời
chúng cũng là hình thức làm rõ tính liên kết của nội dung đoạn văn. Mặt khác,
lại có những phương tiện liên kết đồng nghĩa, gần nghĩa với nhau, nên cần lựa
chọn các phương tiện liên kết cho phù hợp với ý đồ chủ quan của người viết, với
sự việc được phản ánh và tình huống giao tiếp cụ thể.
Vì vậy, chúng ta cần tận dụng những hiểu biết và khả năng trên của học sinh
để phát huy tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc rèn
luyện kĩ năng viết đoạn văn được tốt và làm nền tảng cho chương trình THPT.
Mặc dù vậy, học sinh ở các trường THCS, phần lớn có khuynh hướng không
thích học văn mà đặc biệt là phân môn tập làm văn. Và vì thế nó đã ảnh hưởng
rất nhiều đến việc tiếp thu, vận dụng sáng tạo các kĩ năng viết đoạn văn của các
em.
II/ THỰC TRẠNG VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ CỦA HỌC SINH THCS
Cũng bộ môn Ngữ văn, nhưng theo khảo sát, phần lớn các em học phân
môn Tập làm văn còn yếu mà đặc biệt là cách dựng đoạn văn khiến cho giáo
viên và học sinh còn rất lúng túng. Thường thì thời lượng quá ngắn mà kiến thức
nhiều, nên học sinh không thể tìm hiểu kĩ các đoạn văn mẫu. Phần lớn học sinh
hiểu sơ sài về mặt Lí thuyết, vì thế xác định đề bài, chủ đề và bố cục đoạn văn
càng bối rối: việc rèn kĩ năng viết được tiến hành trong các tiết phân tích đề, dàn
ý và dựng đoạn, liên kết đoạn từ thấp đến cao, từ một tiêu đề, một ý, một đoạn
văn đến nhiều đoạn, cuối cùng là một văn bản hoàn chỉnh. Khi viết còn chưa
hiểu kĩ đề bài nên hay bị sai lệch. Việc phân phối thời gian, số lượng câu cho các
đoạn, các ý lớn, ý nhỏ chưa rõ ràng, cụ thể. Cho nên, có nhiều trường hợp viết
thừa hoặc thiếu chưa xác định cụ thể đề tài, chủ đề của đoạn văn. Quá trình lập
luận, trình bày chưa chặt chẽ, lô gíc và sinh động. Chưa biết vận dụng nhiều
phương pháp liên kết trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn văn. Vì thế các đoạn
văn thường hay đơn thuần, nhàm chán.
Phần lớn học sinh chưa biết sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với từng kiểu
văn bản. Và đặc biệt là phong cách văn bản.
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
I/ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN TỰ SỰ
“ Tự sự” là một thuật ngữ khoa học. Trong từ điển Tiếng Việt 2000( Đào
Duy Anh) giải thích:
“ Tự” là bày ra.
“ Sự” là việc ta làm.
Như vậy “ Tự sự” là lối bày tỏ sự thật.
Chúng ta cần phân biệt rõ hai khái niệm: tác phẩm tự sự (theo quan điểm lí
luận văn học) và phương thức tự sự (trong tập làm văn).
1.Theo quan điểm lí luận văn học.
“ Tác phẩm phản ánh hiện thực qua bức tranh mở rộng của đời sống trong
không gian, thời gian qua các sự kiện, sự cố xảy ra trong cuộc đời con người.
Trong tác phẩm tự sự nhà văn thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình thâm nhập
sâu sắc vào sự kiện và hành động bên ngoài của con người tới mức giữa chúng
hầu như không có sự phân biệt nào cả.
Nhà văn tả lại, kể lại những gì xảy ra bên ngoài mình khiến cho người đọc
có cảm giác hiện thực được phản ánh trong tác phẩm tự sự là một thế giới tạo
hình xác định đang tự phát triển, tồn tại bên ngoài nhà văn, không phụ thuộc vào
tình cảm ý muốn của nhà văn”.
2.Theo quan niệm trong Tập làm văn.
Trong Tập làm văn, khái niệm “Tự sự” được hiểu theo nghĩa rộng. Đó là
phương thức biểu đạt bằng cách kể ra các sự kiện theo mối quan hệ nào đó như
quan hệ nhân quả, quan hệ liên tưởng.
Sách giáo khoa Tập làm văn trước đây (1986 – 1995) không dùng khái
niệm tự sự mà dùng các khái niệm kể chuyện, trần thuật, tường thuật. Trong
sách giáo khoa Ngữ văn-6 Tập I- trang 28 – nhà xuất bản giáo dục 2002, nêu
định nghĩa về văn tự sự như sau:
“ Tự sự” (kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi sự việc, sự việc
này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Tự sự giúp ngươi kể giải thích sự việc, tìm hiểu con ngươi, nêu vấn đề và bày tỏ
thái độ khen, chê.
Theo quan niệm này thì kể chuyện về sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử,
tường thuật một hội nghị, một vụ hoả hoạn… đều thuộc phương thức tự sự. Nói
cách khác khái niệm tự sự bao gồm cả nội dung trần thuật, kể chuyện đã học
trong chương trình Tập làm văn trước đây.
Văn tự sự chia làm hai dạng: kể chuyện đời thường và kể chuyện tưởng
tượng.
+ Kể chuyện đời thường (kể chuyện đời sống) là kể người thực, việc thực ta
thường găp trong cuộc sống hàng ngày. Yêu cầu của dạng văn này phải tôn trọng
sự thật.
Có thể phân thành hai loại: kể chuyện danh nhân và kể chuyện đời thường.
+ Kể chuyện tưởng tượng: khái niệm kể chuyện tưởng tượng chỉ mang tính
ước lệ… Vì kể chuyện bao giờ cũng phải tưởng tượng để hình dung sự việc và
kể cho người khác nghe. Kể chuyện tưởng tượng là tưởng tượng cụ thể về số
phận và cuộc sống của một sự việc về môt kết thúc khác của một câu chuyện dẫ
viết. Kể lại chuyện cổ tích theo cách nhìn mới, cách hiểu mới, người kể phải hoá
thành nhân vật. Thậm chí phải thay đổi ngôi kể để kể chuyện hấp dẫn hợp lí.
3. Mối quan hệ giữa tự sự với các phương thức khác.
Trong quá trình tạo lập văn bản, tuỳ vào mục đích, nội dung và tính chất của
văn bản mà người viết kết hợp các phương thức biểu đạt với nhau. Điều đó cũng
có nghĩa là không thể kêt hợp các phương thức một cách tuỳ tiện. Trong thực tế,
tự sự có thể kết hợp với hầu hêt các phương thưc biểu đạt, song chủ yếu là các
phương thức miêu tả, biểu cảm và lập luận.
+ Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
Ở các văn ban tự sự, phương thức kể và tả kết hợp rất chặt chẽ. Tả, kể và
biểu cảm thường gắn bó với nhau. Chẳng hạn nếu kể là chính thì miêu tả trong
khi kể nhằm làm cho sự việc kể thêm sinh động màu sắc, hình dáng, diện mạo
của nhân vật, sự việc hành động như hiện lên sống đọng trước mắt người đọc.
Yếu tố biểu cảm xuất hiện trong khi kể giúp người viết thể hiện được rõ hơn thái
độ, tình cảm của mình trước việc đó, buộc người đọc phai trăn trở nghĩ suy
trước sự việc đang kể, ý nghĩa của chuyện này càng thêm sâu sắc.
Ví dụ 1: Tự sự kết hợp với miêu tả.
“Trong gian phòng lớn tràn ngập ánh sáng, những bức tranh của thí sinh
treo kín bốn bức tường. Bố, mẹ tôi kéo tôi chen qua đám đông để xem bức tranh
của Kiều Phương đã được đóng khung, lồng kính. Trong tranh, một chú bé đang
ngồi nhìn ra ngoài cửa sổ, nơi bầu trời trong xanh. Mặt chú bé như toả sáng ra
một thứ ánh sáng rất lạ. Toát lên từ cặp mắt, tư thế ngồi của chú không chỉ sự
suy tư mà còn rất mơ mộng nữa. Mẹ hồi hộp thì thầm vào tai tôi:
- “ Con có nhận ra tôi không ?”
Ví dụ 2: Tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm.
“ Nhưng, ô kìa ! Sau trận mưa vùi dập và những cơn gió phủ phàng kéo dài
suốt cả một đêm, tưởng chừng như không bao giờ dứt, vẫn còn một chiếc lá
thường xuân bám trên bức tường ghạch. Đó là chiếc lá cuối cùng ở trên cây. Ở
gần cuống lá còn giữ mầu xanh sẫm, nhưng với với rìa lá hình răng cưa đã
nhuộm mầu vàng úa, chiếc lá vẫn dũng cảm treo bám vào cành, cách mặt đất
lưng chừng 20 bộ” .
+ Tự sự kết hợp với nghị luận:
Ở chương trình Ngữ văn THCS đã cung cấp 6 kiểu văn bản dựa trên 6
phương thức biểu đạt chính. Nếu như các phương thức miêu tả, biểu cảm, tự
sự… chủ yếu dùng hình tượng, hình ảnh, cảm xúc để tái hiện hiện thực thì nghị
luận dùng lí lẽ lô gíc phán đoán nhằm làm sáng toả một ý kiến một quan điểm,
tư tưởng nào đó. Các phương thức trên là cơ sở của tư duy hình tượng, còn nghị
luận là cơ sở của tư duy lô gíc. Chính vì thế mà trong văn bản tự sự, để người
đọc, người nghe phải suy nghĩ về một vấn đề nào đó, người viết, người kể có khi
nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến nhận xét cùng những lí lẽ và dẫn chứng.
Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận làm cho câu chuyện
thêm phần triết lí.
Ví dụ 3: “ Chao ôi ! đối với những người ở xung quanh ta, nếu ta không cố
tìm mà hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc bần tiện, xấu xa bỉ ổi…toàn
là những thứ để ta tàn nhẫn không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác nhưng
thị khổ quá rồi. một người đau chân có lúc nào quen được cái chân đau của mình
để nghĩ đến một gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng nghĩ gì
đến ai được nữa. Cái bản tính tôt của người ta bị những nỗi lo lắng buồn đau, ích
kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận…”.
Như vậy, có thể nói rằng trong tự sự gần như có tất cả các phương thức biểu
đạt vì tự sự chính là bức tranh gần gũi nhất với cuộc sống mà cuộc sống thì hết
sức đa dạng, phong với đầy đủ tất cả các tình huống, cảnh ngộ, tất cả các kiểu
nhân vật, các mẫu người mà ta gặp thường ngày. Vì thế mà trong văn bản tự sự
có các yếu tố khác kết hợp. Song tiêu biểu là các yếu tố miêu tả, biểu cảm và
nghị luận như đã trình bày ở trên.
II/ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
1.Quan niệm về đoạn văn.
2.Trong các tài liệu về ngữ pháp văn bản đã thừa nhận : Giữa câu
và văn bản có một đơn vị ngữ pháp, đơn vị này được gọi bằng những tên gọi
khác nhau: chỉnh thể cú pháp phù hợp, chỉnh thể trên câu, thành tố của văn bản,
khổ văn xuôi, đoạn văn…Đó là đơn vị trung gian giữa các câu văn, văn bản.
Ngoại trừ văn bản chỉ có một câu, thông thường văn bản có nhiều câu. Nhưng
câu không phải là đơn vị cấu tạo nên văn bản mà chỉ là đơn vị trực tiếp cấu tạo
nên đơn vị trung gian này. “ Chỉnh thể trên câu là một đơn vị ngữ pháp có sự
gắn bó một cách chặt chẽ, có một kết cấu nhất định và thể hiện hoàn chỉnh một
tiểu chủ đề. Còn đoạn văn là một bộ phận của văn bản mang nhiều màu sắc
phong cách”. (Phong cách cá nhân và phong cách chức năng).
Vì vậy, dùng khái niệm đoạn văn trong việc xây dựng các loại văn bản là
hoàn toàn hợp lí. Tuy nhiên hiện nay đã và đang tồn tại nhiều cách hiểu khác
nhau về doạn văn.
Thứ nhất: đoạn văn được dùng với ý nghĩa chỉ sự phân đoạn về nội dung,
phân đoạn ý của văn bản.
Thứ hai: đoạn văn được hiểu là sự phân đoạn hoàn toàn mang tính hình
thức. Muốn có đoạn văn ta phải chấm xuống dòng.
Mỗi chỗ chấm xuống dòng cho ta một đoạn văn.
Nếu quan niệm đoạn văn như vậy có nghĩa là bất chấp nội dung một đoạn
văn. Như vậy, phải chăng đoạn văn được xay dựng một cách tuỳ tiện, không dựa
vào cơ sở ngữ nghĩa.
Hiện nay, có một cách hiểu thoả đáng hơn cả là coi đoạn văn vừa là sự phân
đoạn về nội dung, vừa là sự phân đoạn hình thức. Đoạn văn là đơn vị cơ sở của
văn bản. Về mặt nội dung đoạn văn phải đảm nhận một chức năng nào đấy về
mặt nghĩa, có thể hoàn chỉnh hoặc chưa hoàn chỉnh. Tính hoàn chỉnh này thể
hiện ở chỗ sau mỗi đoạn văn phải có dấu chấm xuống dòng,chữ đầu bao giờ
cũng phhải viết hoa và lùi vào phía trong. Dựa vào sự phân tích như trên có thể
quan niệm “ Đoạn văn là cơ sở cấu thành văn bản trực tiếp đứng trên câu diễn
đạt môt nộ dung nhất định, được mở đầu bằng chỗ lùi vào đầu dòng, viết hoa và
kết thúc bằng dấu chấm ngắt đoạn).
Vậy, vấn đề đặt ra là: nếu căn cứ vào quan niệm đoạn văn như trên, trong
những trường hợp có đối thoại giữa các nhân vật, tức là khi xây dựng những
đoạn văn tự sự, khái niệm này cần phải lí giải như thế nào ?
3. Đoạn văn tự sự.
Tự sự theo nghĩa rộng là phương thức biểu đạt bằng cách kể ra các sự kiện
theo mối quan hệ nào đấy như: quan hệ nhân quả, quan hệ liên tưởng. Cốt truyện
của tác phẩm tự sự được thể hiện qua môt chuỗi tình tiết, thông thường mỗi tình
tiết được kể bằng một đoạn văn. Bởi vậy, đoạn văn tự sự có thể giới thiệu nhân
vật (lai lịch, tên họ, quan hệ, tính tình, tài năng…) hoặc kể về các việc làm, hành
đọng, lời nói, kết quả và sự đổi thay do các hành động ấy đem lại. Ở đoạn có lời
đối đáp giữa các nhân vật thường tương ứng với một đoạn thoại, tức là đoạn đối
thoại ấy nhằm hướng đến một nội dung nào đó trong toàn bộ nội dung của văn
bản. đoạn thoại có thể gồm nhiều cặp thoạ cùng hướng đến một nội dung nào đó
trong toàn bộ cuộc thoại.
Vậy, thế nào là đoạn văn tự sự ? Đoạn văn tự sự có đặc điểm gì ? Để
hiểu được vấn đề này ta xết các ví dụ sau:
Ví dụ 1: “ Chẳng bao lâu, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa bé
không chân, không tay, tròn như một quả dừa. Bà buồn lắm toan vứt đi thì đứa
con bảo:
-Mẹ ơi, con là người đấy. Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp. Nghĩ lại
thấy thương con, bà đành để con lại nuôi và đặt tên cho nó là Sọ Dừa”.
Ví dụ 2: “ Vị quan nọ bảo:
-Được, tôi sẽ đưa anh vào gặp vua với điều kiện anh phải chia đôi
nửa phần thưởng của nhà vua. Nếu không thì thôi.
Người nông dân đồng ý. Viên quan nọ liền dẫn ông ta vào cung vua. Vua
cầm lấy viên ngọc và bảo:
-Thế anh muốn ta thưởng cho anh cái gì bây giờ ?
Người nông dân bèn thưa:
-Xin bệ hạ hãy thưởng cho thần 50 roi… Chỉ có điều là hạ thần đã
đồng ý chia cho viên quan đã đưa thần vào đây một nửa số phần thưởng của bệ
hạ. Vậy, xin bệ hạ hãy thưởng cho mỗi người 25 roi”.
Xét hai phần văn bản trên, chúng ta nhận thấy tương ứng các nội dung
sau:
+ Ở ví dụ 1: tâm trạng của bà mẹ và thái độ của Sọ Dừa.
+ Ở ví dụ 2: sự tham lam của viên quanvà thái độ thông minh của người
nông dân.
Đây là những đoạn văn tự sự trình bày những sự việc, những hành động
liên quan đến các nhân vật, tức là đã mang đặc trưng cho phong cách chức năng
và phong cách cá nhân. Khái niệm đoạn văn tự sự ở đây liên quan trực tiếp đến
ngữ dụng học, đặc biệt là những khái niệm như: cuộc thoại, đoạn thoại. Nhưng,
cần phải xác định: Đoạn văn tự sự là cuộc thoại hay đoạn thoại?
“ Cuộc thoại là đơn vị hội thoại bao trùm lớn nhất. Có thể nói, toàn bộ
hoạt động ngôn ngữ của con người là trong chuỗi dằng dặc những lời đối đáp
ấy của con người để nghiên cứu chính là cuộc thoại”.
Có trê dựa trên các tiêu chí sau để xác định một cuộc thoại: - nhân vật
đối thoại: sự đương diện liên tục của những người đối thoại.
- Tính thống nhất về thời gian và địa điểm.
- Tính thống nhất về đề tài diễn ngôn.
- Các dấu hiệu danh giới về cuộc thoại.
- Đoạn thoại: là một mảng diễn ngôn do một số cặp trao đáp liên kết với
nhau về ngữ nghĩa (một chủ đề duy nhất) hoặc về ngữ dụng (tính duy nhất về
đích).
Cấu trúc tổng quát của một đoạn thoại có thể là:
+ Đoạn thoại mở thoại.
+ Thân cuộc thoại.
+ Đoạn thoạ kết thúc.
Từ cách phân tích và những khái niệm trên, có thể đi đén khẳng định: tự sự
là phương thức trình bầy một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia,
cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một ý nghĩa.
Bài văn tự sự gồm nhiều đoạn văn. Đoạn văn tự sự có thể giới thiệu về nhân
vật (lai lịch, tên họ, quan hệ, tính tình, tài năng…) hoặc kể về các việc làm, hành
động, lời nói, kết quả và sự đổi thay do các hành đồng ấy đem lại.Ở những đoạn
có lời đối đáp giữa các nhân vật thường tương ứng với một đoạn thoại, tức là
đoạn đối thoại ấy nhằm hướng đến một nội dung nào đó trong toàn bộ cuộc
thoại.
Như vậy, phần văn bản ở ví dụ 1 trích dẫn ở trên là một đoạn văn tự sự
tương ứng với nội dung: tâm trạng của bà mẹ sau khi sinh con và thái độ của Sọ
Dừa khi nói với mẹ.
Phần văn bản ở ví dụ 2 gồm 2 đoạn văn tự sự tương ứng với hai nội dung
sau: mong muốn được dâng ngọc quí cho vua của người nông dân và điều kiện
của viên quan ; thái độ của vua và câu trả lời thông minh của người nông dân.
III/ YÊU CẦU CỦA ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
Khái niệm đoạn văn và những vấn đề liên quan đến đoạn văn, các lớp trên
học sinh mới tiếp thu một cách hoàn chỉnh và có hệ thống. Nhưng từ lớp 6, học
sinh đã phải viết các đoạn văn tự sự, miêu tả. Vì vây, trước khi hướng dẫn học
sinh viết đoạn văn tự sự, giáo viên cần cung cấp một số vấn đề liên quan đến
khái niệm đoạn văn và những yêu cầu cụ thể khi viết đoạn văn, đặc biệt tạo cho
học sinh kĩ năng xác định câu chủ đề trong đoạn văn và viết những đoạn văn có
câu chủ đề.
Đoạn văn là đơn vị trực tiếp tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa, lùi
đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương
đối hoàn chỉnh.
Một đoạn văn bao giờ cũng phải liên quan chặt chẽ với các đoạn văn khác
trong bài văn, nghĩa là đoạn văn ấy phải chịu sự chi phối của phong cách văn
bản. Đoạn văn tự sự phải mang màu sắc của văn bản tự sự, tức là phải kể về
người, về việc, về hành động của các nhânvậth. Mỗi đoạn văn tự sự thường có
một ý chính diễn đạt thành một câu gọi là câu chủ đề. Các câu khác diễn đạt
những ý phụ dẫn đén ý chính đó, hoặc giải thích cho ý chính, làm cho ý chính
nổi lên. Các câu trong đoạn văn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nội dung
(cùng hướng về một vấn đề) và hình thức (các câu liên kết với nhau thông qua
các phương tiện liên kết).
IV/ RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN TỰ SỰ
1 .Xác định ý của đề.
Để làm tốt bài văn tự sự, trước khi làm phải đọc kĩ đề bài và nắm vững
yêu cầu của đề bài, từ đó sẽ xá định nội dung theo yêu cầu của đề. Như vậy, xác
định của đề là suy nghĩ, định hướng, xác định nội dung sẽ viết theo yêu cầu của
đề. Cụ thể là xác định nhân vật, sự việc, tình tiết, diễn biến, kết qua và ý nghĩa
của truyện. Nếu là truyện sáng tạo thì cần phải nghĩ về việc đặt tên truyện.
Với việc xác định ý của đề tuỳ theo yêu cầu của đề bài mà giáo viên
hướng dẫn cho học sinh cách xác định ý, lựa chọn ý cho bài viết. Để làm sáng tỏ
yêu càu của đề bài học sinh cần phải triển khai, trình bày nội dung cụ thể của đối
tượng, tức là cần trả lời câu hỏi: viết những gì ? Với bài van tự sự học sinh
cầnphải xác định nhân vật, sự việc, diễn biến, kết quả và ý nghĩa của câu
chuyện.
2.Xác định câu chủ đề cho từng ý.
Trong văn bản tự sự có nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn thường diễn đạt một
ý tương đối hoàn chỉnh. Ý chính này thường được diễn đạt thành một câu, gọi là
câu chủ đề. Các câu khác diễn đạt những ý phụ dẫn đến ý chính đó, hoặc giải
thích cho ý chính, làm cho ý chính nổi lên. Để viết được các đoạn văn có nội
dung phù hợp với chủ đề của đoạn văn, trước hết xác định chủ đề lớn của bài
văn là gi ? Sau đó mới xác định câu chủ đề cho từng ý, tức là từng đoạn văn.
Các câu chủ đề của đoạn văn thường nằm ở đàu đoạn (đoạn văn trình bày theo
cách diễn dịch) hoặc ở cuối đoạn (đoạn văn qui nạp).
3.Sử dụng phép liên kết và cách dùng từ trong đoạn văn.
Mỗi đoạn văn bao giờ cũng phải trình bay tương đối hoàn chỉnh một ý. Các
câu trong đoạn văn phải có quan hệ về ý nghĩa và phải liên kết chặt chẽ với nhau
bằng các phương tiện liên kết.
Phương tiện liên kết những từ, những tổ hợp từ dùng để liên kết câu.
Phép liên kết là cách sử dụng các phương tiện liên kết để liên kết câu. Có
các phép liên kết sau: phép nối, phép lặp, phép thế, phép liên tưởng, phép nghịch
đối…
Ví dụ: - Đoạn văn sử dụng phép nối.
“ Cô không đẹp, chỉ xinh thôi. Và tính cô cũng như tuổi cô còn trẻ con lắm,
thấy khách hàng nói một câu bông đùa, cô đã chửi người ta chòng ghẹo mình,
díu đôi đôi lông mày lại và ngoe nguẩy cái mình. Khách trông thấy cũng cười.
Nhưng cô cũng không giận ai lâu, chỉ một lát cô lại vui tỉnh ngay”.
(Thạch Lam – Hàng nước cô Dầu)
- Đoạn văn sử dụng phép lặp.
“ Mặt trời lặn dần sau đỉnh núi. Đã đến lúc khỉ và cáo phải về nhà. Khỉ bảo
cáo: “ Mai mời cậu đến nhà tớ chơi nhé, được không ? Cáo băn khoăn: “ Chỗ
bạn ở có bao nhiêu là nhà, làm sao tớ tìm được” khỉ hào hứng “ Ồ thế này nhé,
tớ sẽ vẽ lên trên cánh cổng nhà tớ. Bạn sẽ tìm thấy ngay thôi mà”.
- Đoạn sử dụng phép thế .
“ Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Người
đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, Muốn kén
cho con một người chồng thật xứng đáng”.
4. Cách viết đoạn văn tự sự.
Một đoạn văn tự sự thông thường gồm có cấu tạo ba phần: Mở bài, Thân
bài, Kết bài.
Mở bài và Kết bài thường được viết thành một đoạn văn, còn phần thân bài
gồm nhiều đoạn văn.
4.1. Cách viết đoạn Mở bài:
Phần mở bài có nhiệm vụ giới thiệu nhân vật, tình huống phát sinh câu
chuyện, không gian, thời gian của câu chuyện. Như vậy, phần này phải trả lời
các câu hỏi: câu chuyên xảy ra ở đâu ? Vào không gian nào ? Câu chuyện có
mấy nhân vật ? Nhân vật chính là ai ? Cũng có lúc người ta bắt đầu từ một sự cố
nào đó, hoặc kết cục câu chuyện, số phận nhân vật, rồi ngược lên kể lại từ đầu.
Nhìn chung cách mở bài của bài văn tự sự rất phong phú đa dạng, bao gồm:
*Giới thiệu nhân vật và tình huống phát sinh câu chuyện. Cách mở bài này
nhằm thu hút người đọc, tạo sự tò mò đối với người đọc. Cách này ta thường
thấy trong những câu chuyện cổ tích, chuyện ngụ ngôn.
Ví dụ: “ Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương,
người đẹp như hoa, tính nết hiên dịu, vua cha yêu thương hết mực, muốn kến
cho con một người chồng thật xứng đáng”.
* Cách mở bài giới thiệu trực tiếp nhân vật.
Ví dụ: “Cô Mắt, cậu chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ xưa vẫn sông với
nhau khá thân thiết.
* Cũng tương tự như cách mở bài giới thiệu trực tiếp nhân vật nhưng có khi
kể lại theo ngôi thứ nhất, nhân vật trong truyện tự giới thiệu về mình.
Ví dụ: “ Chúng tôi có ba người. Ba cô gái. chúng tôi ở trong một hang dưới
chân núi cao điểm. Con đương qua trước hang kéo lên đồi đi đến đâu đóxa !
Đường bị đánh lỡ loét, Màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đương không có lá
xanh, chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rể nằm lăn lóc.
Những tảng đá to.Một vài cái thùng xăng hoặc vành ô tô méo mó, han ghỉ nằm
trong lòng đất”.
* Cũng có những truyện lại được bắt đầu bằng vài câu tả cảnh, tả thời khắc
lúc đó để tạo bối cảnh cho chuyện.
Ví dụ: “ Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt, cái
giống hoa ngay từ khi mới nở, màu săc đã nhợt nhạt;Hẳn có lẽ vì đã sắp hết
mùa, hoa đã vãn trên cành, cho nên mấy bông hoa còn sót lại trở nên đậm sắc
hơn”
* Cách mở đàu nói đến kết quả sự việc rồi mới ngược lên kẻ lại từ đầu.
Ví dụ: “ Các bạn ! Mỗi lần nhìn thấy cây lược ngà nhỏ ấy là mỗi lần tôi
băn khoăn và ngậm ngùi.Trong cuộc đời kháng chiến của tôi ; tôi đã chứng kiến
không biết bao nhiêu là cuộc chia tay, nhưng tôi chưa bao giờ lại xúc đông như
lần ấy…”
Như vậy, trong văn bản tự sự có nhiều cách mở đàu câu chuyện, điều đáng
quan tâm là phải mở đầu làm sao để thu hút sự quan tâm chú ý, tò mò, hấp dẫn
đối với người đọc. Hầu hết học sinh đều cảm thấy rất khó khăn khi viết đoạn mở
bài. Bởi vì mở bài có lưu loắt, trong sáng, hấp dẫn thì làm văn mới có cảm xúc,
mới hay và thu hút người đọc. Chính vì vậy, rèn luyện kĩ năng viết đoạn mở bài
cho học sinh là điều đáng quan tâm đối với mỗi giáo viên dạy văn.
4.2. Cách viết đoạn thân bài.
Phần thân bài của bài văn tự sự gồm nhiều đoạn văn. Mỗi đoạn văn là một ý
của bài. Các đoạn trong phần này có thể được trìng bày theo các trình tự nhất
định. Song vẫn có các cách viết khác.
+ Đoạn văn giới thiệu nhân vật.
Trong tác phẩm tự sự, nhân vật là đặc trưng thẩm mĩ cốt yếu đóng vai trò
trung tâm của tác phẩm. Không có nhân vật thì không có cốt truyện. Mọi diễn
biến mâu thuẫn và những vấn đề nảy sinh cần giải quyết đều phải biểu hiện qua
nhân vật và hành động của nhân vật. Mọi sự việc trong văn tự sự điều xoay
quanh nhân vật, do nhân vật làm và thể hiện tính cách nhân vật.
Ví dụ: “ Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” hai nhân vật này được khắc hoạ như sau: Sơn
Tinh ở vùng núi Tản Viên, có tài lạ. Vẫy tay về phía Đông, phía Đông nổi cồn
bãi, vẫy tay về phía Tây, phía Tây mọc lên dãy núi đồi. Còn nhân vật Thuỷ Tinh
thì: gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về, là chúa của vùng nước thẳm”.
Các nhân vật trong tác phẩm tự sự có quan hệ thân thiết với nhau và đều có
mối quan hệ với cốt truyện. Chính nhân vật sẽ quyết định việc lựa chọn cốt
truyện, bởi vì cốt truyện chính là hệ thống các biến cố tạo thành hệ thống quan
trọng duy nhất của tác phẩm. Xây dựng nhân vào trong quan hệ với các nhân vật
khác trong hệ thống các biến cố, sự kiện để từ đó tính cách nhân vật được bọc
lộ.
Nhân vật là một đặc trưng cơ bản của tác phẩm tự sự, vì thế việc xây dựng
đoạn văn về nhân vật giữ một vai trò quan trọng trong tác phẩm văn học.
+ Đoạn văn xây dựng sự việc:
Tự sự là trình bày một chuỗi sự việc để thông báo , giải thích, tìm hiểu, thể
hiện một điều gì (chủ đề). Do đó, muốn tự sự, người ta phải chọn sự việc, liên
kết sự việc sao cho thể hiện được điều muốn nói (tức là chủ đề của truyện) làm
cho câu chuyện có ý nghĩa. Vì vậy, tự sự không đơn giản là kể việc mà kể việc
sao cho có ý nghĩa, sắp xếp theo một hệ thống đảm bảo tính liên kết giữa các sự
việc, làm cho câu chuyện phát triển một cách tự nhiên. Nếu trong một đoạn văn
xây dựng sự việc theo kiểu sáng – trưa – chiều – tối thì không tạo câu chuyện,
hoặc chuỗi các sự vật liên tiếp không có sự kiện biến cố cũng không tạo thành
truyện bởi vì nó vô nghia. Sự việc tạo thành câu chuyện phải khác thường, tác
đông của sự việc phải gây biến đổi, nhằm bọc lộ ban tính, nguyên nhân bên
trong của con người hay sự vật mới tạo thành truyện.
Sự việc trong văn tự sự thường được kể một cách cụ thể: sự việc xảy ra
trong khoảng không gian, thời gian như thế nào (sáng, trưa, chiều, tối, thời kì
nào, ở đâu)
Ví dụ: “ Bấy giờ ở Trung Quốc, nhà Tần vừa thành lập( năm 221-trước
CN) .Năm 218 Tần Thuỷ Hoàng sai tướng Đỗ Thư đem 50 vạn quân chia thành
năm mũi xâm lược đất Bắch Việt ở phía Nam. Quân Tần Thuỷ Hoàng đến đâu
lấy thêm quân huyện mới đến đấy (…) quân xâm lược tàn bạo càng hung hăng
tiến sâu vào đất cua người Âu Việt – Lạc Việt”.
Trong hệ thống sự việc của đoạn văn tự sự : có sự việc khởi đầu, sự việc
cao trào, sự việc kết thúc. Khi xây dựng sự việc cần có sự việc mở đầu, nó là
nguyên nhâ trực tiếp làm bùng nổ các xung đột.
Ví dụ : sự việc mở đầu trong truyện “ Sơn Tinh – Thuỷ Tinh” là vua Hùng
Vương thứ mười tám kén phò mã. Đó là nguyên nhân của các sự việc tiếp theo:
Sơn Tinh – Thuỷ Tinh đến cầu hôn. Vua thách sính lễ, Sơn Tinh lấy được vợ.
Sự phát triển bao gồm các chuỗi sự kiện hoặc các biến cố nối tiếp nhau làm
cho xung đột phát triển đến cao trào, sự việc cao trào là xung đột gay gắt căng
thẳng và đi đến chỗ nhất thiết phải giải quyết.
Ví dụ: Thuỷ Tinh không lấy được vợ, nổi giận đem quân đuổi theo đánh Sơn
Tinh, hòng cướp lại Mị Nương, Sơn Tinh cũng không chịu thất bại và đánh trả
lại Thuỷ Tinh. Sự việc kết thúc là kết quả của xung đột được giải quyết, ví dụ:
Thuỷ Tinh thất bại.
Các sự việc được sắp xếp theo một trình tự hợp lí cái trước là nguyên nhân
của cái sau và là cái kết quả của cái trước. Đó là sự sắp xếp như thế khiến cho
các sự việc quan hệ với nhau gắn bó chặt chẽ. Như vậy, xây dựng sự việc chính
là quá trình tìm ý, chọn ý, sắp xếp các ý để viết đoạn văn tự sự.
* Đoạn văn sử dụng ngôi kể và thay đổi ngôi kể trong văn tự sự.
a/ Kể theo ngôi thứ nhất: khi kể theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng:
tôi, chúng tôi, em, chúng em. Cách kể này mang màu sắc cá nhân, kể những gì
mình biết, mình làm.
Có hai loại ngôi kể: ngôi kể thứ nhất của tác giả đứng ra kể chuyện mình
hoặc chuyện mình biết. Ví dụ: bút kí, hồi kí, và ngôi thứ nhất được kể bằng lời
của một nhân vật hư cấu. Ví dụ: “ Dế Mèn phiêu lưu kí” ( Tô Hoài)
b/ Kể theo ngôi thứ ba:
Kể theo ngôi thứ ba là ngôi kể rất cổ xưa, thường gặp trong thần thoại,
truyền thuyết, cổ tích. Ở đó, người kể bằng cách gọi tên sự vật, nhân vật. Nhưng
cũng có lúc người kể có nhu cầu bọc lộ thái độ chủ quan của mình bằng cách
bình luận về một điều gì đó.
Sự thay đổi ngôi kể trong đoạn văn tự sự.
Trong tác phẩm tự sự không phải lúc nào nhà văn cũng chỉ sử dụng một
ngôi kể, để tạo nên sự hấp dẫn cho câu chuyên cần phải phối hợp các ngôi kể với
nhau. Một câu chuyện có thể kể theo ngôi thứ ba, nhưng khi tả người, tả cảnh lại
nhìn nhận theo cách nhìn một nhân vật trong truyện.
Ví dụ: trong truyện “ Lão Hạc” (Nam Cao) toàn bộ câu chuyện được kể
bằng lời của ông giáo, nhưng khi tả cảnh bắt chó, Lão Hạc than thở lại được kể
bằng lời của Lão Hạc. Đó là sự chuyển đổi ngôi kể.
* Đoạn văn tự sự kết hợp với yếu tố miêu tả và biểu cảm.
Ví dụ: “Dân phu kể hàng trăm ngàn con người, từ chiều đến giờ hết sức giữ gìn,
kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre, nào đắp, nào cừ, bì bõm
dưới bùn lầy ngập quá khửu chân, người nào, người nấy lướt thướt như chuột
lột. Tình cảnh trông thật là thảm” – (Phạm Duy Tốn – Sống chết mặc bay).
* Đoạn văn tự sự kết hợp với yếu tố nghị luận.
Ví dụ: “ Nhĩ nghĩ một cách buồn bả con người ta trên đường đời thật khó
tránh được những điều vòng vèo hoặc chùng trình, vả lại nó đã thấy có cái gì
hấp dẫn ở bên sông đâu ? Hoạ chăng chỉ có anh đã từng trải, từng in gót chân
khắp mọi chân trời xa lạ mới thấy hết sự giàu có lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi
bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều riêng
anh khám phá thấy giống như một niềm say mê ph lẫn với một nỗi ân hận, đau
đớn, lời lẽ không bao giờ giải thích khác”.
4.3. Cách viết đoạn kết bài.
Cũng như phần mở bài, phần kết bài cũng có nhiêu cách kết thúc: thông
thường kết thúc hay gắn với chủ đề câu chuyện. Hay cụ thể hơn là truyện cổ tích
thường hay khép lại bằng hai chữ: từ đây, từ đó.
Ví dụ: “ Từ đó, oán nặng thù sâu, hàng năm Thuỷ Tinh làm mưa gió, bão
lụt dâng nước đánh Sơn Tinh…”
Ví dụ: Thánh Gióng đánh đuổi xong giặc Ân, một mình, một ngựa, cởi bỏ
giáp sắt và bay về trời” ( Thánh Gióng).
Kết thúc mở.
Là loại kết thúc mà khi các diễn biến còn chưa kết thúc để người đọc tự suy
luận về hướng phát triển của câu chuyện. Cách kết thúc như vậy lai chưa phải
kết thúc.
Ví dụ: Kết thúc của tác phẩm “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố.
Hoặc : tác phẩm “ Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long.
- Xem thêm -