Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp...

Tài liệu Skkn nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp

.DOC
29
3165
141

Mô tả:

Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CÀ MAU TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU ****************** ĐỀ TÀI: NAÂNG CAO NĂNG LỰC LÀM VĂN CHO HỌC SINH LÔÙP 5 QUA TIẾT TRẢ BÀI VIẾT TRÊN LỚP Giáo viên thực hiện: Mai Thị Anh Naêm 2013 MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Mở đầu I/. Lí do chọn đề tài 1/. Mục tiêu và nhiệm vụ môn Tiếng Viết ở trường tiểu học Môn Tiếng Việt ở trường tiểu học nhằm: (1) Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (đọc, viết, nghe, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường học tập, hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, khái quát, hệ thống) (2) Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người; văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. (3) Bồi dưỡng những tinh yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con ngưởi Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 2/. Vị trí của phân môn Tập làm văn Những lời được chúng ta nói ra hoặc viết ra khi giao tiếp với nhau gọi là ngôn bản. Hoạt động lời nói gồm hai bình diện: sản sinh (tạo lập) và tiếp nhận (hiểu) ngôn bản. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sản sinh ngôn bản. Nó có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ. Đây là phân môn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác – Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu đã hình thành. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh kĩ năng sản sinh ngôn bản, nhờ đó tiếng Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp, Như vậy, phân môn Tập làm văn đã thực hiện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của việc dạy học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học tập. 3/. Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn Sản phẩm của Tập làm văn là các ngôn bản ở dạng nói và dạng viết theo các dạng lời nói, kiểu bài văn do chương trình quy định, nói cách khác mục đích của Tập làm văn là tạo lập được các ngôn bản. Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản của dạy học Tập làm văn là giúp học sinh MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp tạo lập được các ngôn bản nói và viết theo các phong cách khác nhau do chương trình quy định. Nhiệm vụ của dạy học Tập làm văn là hình thành, phát triển và tạo lập ngôn bản cho học sinh. Năng lực tạo lập ngôn bản được phân tích thành các kĩ năng bộ phận như: xác định mục đích nói, lập ý, triển khai ý thành lời dưới dạng nói viết thành câu, đoạn bài. Vì vậy, phân môn Tập làm văn phải cung cấp cho học sinh những kiến thức và hình thành, phát triển ở các em những kĩ năng này. Ở tiểu học, phân môn Tập làm văn có nhiệm rèn kĩ năng nói theo các nghi thức lời nói, nói viết có ngôn bản thông thuờng, viết một số các văn bản nghệ thuật như kể chuyện, miêu tả. Ngoài các kĩ năng chung để viết văn bản, mỗi loại văn bản cụ thể đòi hỏi có những kĩ năng đăc thù. Để viết văn bản miêu tả cần có kĩ năng quan sát, kĩ năng diễn đạt một cách có hình ảnh, để viết văn bản kể chyện cần có kĩ năng xây dựng cốt truyện và nhân vật, kĩ năng lựa chọn các tình tiết,… Phân môn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn những kĩ năng này. Ngoài nhiệm vụ là rèn năng lực tạo lập ngôn bản, phân môn Tập làm văn đồng thời góp phần rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách cho học sinh. Phân môn Tập làm văn góp phần rèn luyện tư duy hình tượng từ óc quan sát đến trí tưởng tuợng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát đuợc đến khả năng nhào nặng các chất liệu trong cuộc sống thực để xây dựng nhân vật, cốt truyện. Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích đề, lập dàn ý, viết đoạn… Quá trình sản sinh văn bản cũng giúp học sinh có kĩ năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn. Để giao tiếp phải có thái độ đúng đắn với đối tựong giao tiếp. Phân môn Tập làm văn khi dạy các nghi thức cũng đồng thời dạy cách cư xử đối với mọi người như sự lễ phép, lịch sự trong nói năng. Để viết văn cần có hiểu biết và tình cảm với đối tượng được viết. Vì vậy, phân môn Tập làm văn đã ạto cho học sinh có sự hiểu biết và tình cảm yêu mến gắn bó với thiên nhiên, với con người và vạn vật xung quanh: từ một cơn mưa, một buổi sáng đẹp trời, một em bé bị ngã, một người phụ nữ đang gặp khó khăn đến một chú gà trống, một đồ vật đã từng gắn bó. Từ đây, tâm hồn và nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển. 4/. Thực trạng dạy học phân môn Tập làm văn và tiết dạy, tiết trả bài viết trên lớp Giờ trả bài viết trên lớp từ trước đến nay giáo viên vẫn còn xem là một tiết đơn giản, bình thường; thậm chí có những giáo viên không chú trọng đến việc soạn một tiết trả bài, chỉ soạn đại khái, sơ lược các bước thông dụng như: thống kê loại bài, nêu sơ sài ưu – khuyết điểm… Còn đối với học sinh thì càng ý thức đây là một giờ học “khoẻ” nhất, chỉ cần nghe thầy cô nói và đọc những bài hay, hoặc nêu những ưu – khuyết điểm chung chung của lớp là MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp xong, khỏi phải trả bài cũ, không cần tập trung tinh thần tiếp thu kiến thức mới: Đó là một quan điểm hết sức sai lầm. Theo tôi, tiết trả bài viết trên lớp là một tiết vô cùng quan trọng, vì đây là điều kiện cho học sinh tự đối chiếu kiến thức của mình với kiến thức của giáo viên truyền đạt, để nhận ra những thiếu sót trong quá trình làm bài của mình, cũng như những ưu điểm trong bài làm của mình. Từ đó, các em phát huy ưu điểm, đẩy lùi hạn chế để nâng cao khả năng làm văn của mình. Trong những năm qua, phần lớn học sinh chưa thích học phân môn Tập làm văn, các em chưa thấy đuợc tầm quan trọng của nó, cho nên còn hạn chế rất nhiều về khả năng làm một bài viết. Hạn chế lớn nhất của học sinh là chưa thấy hướng đi của một bài văn. Khi tiếp xúc với một đề tài mới, các em suy nghĩ bám vào đề bài xem nội dung nói về điều gì, rồi trình bày đại trà theo quan điểm chủ quan của mình. Từ đó dẫn tới hàng loạt khuyết điểm như: Trình bày không đúng nội dung Viết câu không hết ý Không biết xây dựng bao nhiêu đoạn trong bài văn Không biết hướng đi, không nắm đuợc dàn bài chung của một số thể loại, kiểu bài trong chương trình quy định. Không có điểm dừng… Bên Cạnh những hạn chế trên, còn có một phần lớn học sinh không tự làm mà đi chép những bài văn mẫu do cha me, anh chị trang bị cho các em để đọc tham khảo. Qua nhiều năm giảng dạy, tiếp xúc phân môn Tập làm văn, tìm hiểu về những đặc thù riêng của nó rồi rút ra nhận xét như sau: Nếu giáo viên làm tốt khâu trả bài sẽ giúp học sinh nhận thức nhanh, rõ ràng những ưu – khuyết điểm trong bài viết của mình; đặc biệt các em dễ dàng nhận thấy thiếu nội dung gì? hụt hẫng những kiến thức nào? chỗ nào cần phát huy? Chỗ nào cần bỏ bớt… Vậy giờ trả bài viết cho học sinh là giờ mà giáo viên giúp học sinh chủ động, tích cực tự đánh giá, nhín nhận lại năng lực thực sự của mình, nhằm rút ra những kinh nghiệm tốt hơn cho bài viết lần sau. Muốn thực hiện tốt điều đó, giáo viên phải có những biện pháp trả bài viết sao cho hiệu quả. Đây cũng là đề tài mà tôi đã thể hiện thành công trên lớp đối với tất cả các đối tượng học sinh lớp 5 của trường Hermann Gmeiner tỉnh Cà Mau. Tóm lại, vì những lí do trên đây tôi chọn đề tài: “ Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiết Trả bài viết trên lớp”, với mong muốn chia sẽ với quý thầy cô, quý đồng nghiệp… những kinh nghiệm của bản thân. Từ đó, nhằm nâng cao chất lượng dạy học nói MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp chung, nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt nói riêng, đặc biệt nâng cao kĩ năng làm văn cho học sinh khi hết bậc Tiểu học, góp một nền tảng vững chắc tiếp nối cho các em học tốt hơn ở bậc Trung học cơ sở. II/. Phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu phân môn Tập làm văn lớp 5 Nghiên cứu về vấn đề: Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 Nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của đề tài để tìm ra biện pháp trả bài viết trên lớp đạt hiệu quả tốt nhất. III/. Phương pháp nghiên cứu 1/. Nghiên cứu lí thuyết Đọc tài liệu, tham khảo, phân tích tài liệu có liên quan đến đề tài gồm: Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt 1 Giáo trình phương pháp dạy học Tiếng Việt 2 Giáo trình Hoạt động giao tiếp với dạy học tiếng Việt ở tiểu học Sách giáo khoa Tiếng Việt 5, tập 1 và tập 2 Sách giáo viên Tiếng Việt 5, tập 1 và tập 2 Giáo trình tâm lí học tiểu học Phương pháp dạy học các môn học Giáo trình Tiếng Việt 2 Giáo trình Tiếng Việt 3 Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 5 tập 1 Giáo trình Dạy học tích cực và cách tiếp cận trong dạy học tiểu học. 2/. Tổng kết knh nghiệm - Dự giờ đồng nghiệp về phân môn Tập làm văn ở lớp 4 và lớp 5. - Knh nghiệm có được dựa vào quá trình giảng dạy, kinh nghiệm giảng dạy lớp 5 trong nhiều năm (1999-2013) 3/. Điều tra khảo sát Điều tra thực tế dạy và học tại trường Hermann Gmeiner Cà Mau; lấy số liệu kết quả thực tế qua một số bài kiểm tra 4/. Thực nghiệm sư phạm Soạn kế hoạch bài học (giáo án) và dạy bài: Trả bài văn tả người (Lớp 5A, Trường Hermann Gmeiner Cà Mau) MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Chương I CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỂN I/. Cơ sở lí luận Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp, nó dựa trên kết quả nghiên cứu của nhiều khoa học khác nhau như: Tâm lí học, Tâm lí ngữ học, Ngôn ngữ học… Sau đây, ta đi phân tích một số cơ sở khoa học chi phối trực tiếp đến dạy học Tập làm văn 1/. Hoạt động giao tiếp và ứng dụng vào dạy Tập làm văn - Dạy Tập làm văn là dạy một hoạt động Bản chất của tâm lí là hoạt động, năng lực của con người chỉ được hình thành và phát triển trong hoạt động. Nói năng cũng là một hoạt động, hoạt động lời nói. Hoạt động nói năng còn gọi là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ hay hoạt động giao tiếp. Cũng như các hoạt động tâm lí khác, hoạt động lời nói chỉ nảy sinh khi có động cơ nói năng. Chính vì vậy, công việc đầu tiên của dạy học Tập làm văn – là dạy sản sinh lời nói là tạo ra được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia vào cuộc giao tiếp (nói, viết) Nghiên cứu hoạt động lời nói, người ta nhận thấy rằng cách kích thích hành vi nói năng thường là một cái gì đó nằm ngoài ngôn ngữ. Chính vì vậy, xét đến tận cùng dạy Tập làm văn không phải bắt đầu từ hoạt động ngôn ngữ, từ sự tổ chức hoạt động ngôn ngữ mà phải bắt đầu từ những hoạt động sống khác của học sinh. Nói cách khác, những kích thích bói năng không thể tách rời với việc hình thành những kĩ năng sống khác. Cần phải tổ chức cho học sinh trồng cây, quét dọn sân trường trước khi cho các em viết một bài văn kể về một buổi lao động trồng cây, quét dọn sân trường… Các hoạt động khác sẽ tạo ra động cơ và nội dung của nói năng. Vì vậy, để dạy Tập làm văn, trước hết phải trau dồi vốn sống của học sinh, phải dạy cho các em biết suy nghĩ, tạo cho các em có cảm xúc, tình cảm rồi mới dạy cho các em cách thể hiện những suy nghĩ, tình cảm đó bằng ngôn ngữ nói và viết. Cũng chính vì vậy, các đề bài Tập làm văn trong giờ Tập làm văn chỉ đuợc xem là tốt khi chúng yêu cầu viết về những gì gần gũi, thân thiết với học sinh, tạo được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung mà đề bài đã yêu cầu. - Các giai đoạn của hoạt động lời nói và các kĩ năng làm văn Hoạt động lời nói là một cấu trúc động bao gồm bốn giai đoạn kế tiếp nhau: định hướng, lập chương trình, thực hiện hoá chương trình và kiểm tra, hiệu đính… Cấu trúc này đã được các nhà nghiên cứu giáo dục đưa ra phương pháp dạy học Tập làm văn vận dụng triệt để khi xây dựng hệ thống kĩ năng làm văn. Có thể thấy mối quan hệ này trong sơ đồ sau: MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Cấu trúc hoạt động lời nói 1. Định hướng Hệ thống kĩ năng làm văn - Kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu và giới hạn đề bài viết (kĩ năng tìm hiểu đề). - Kĩ năng xác định tư tưởng cơ bản của bài viết. - Kĩ năng tìm ý (thu thập tài liệu cho 2. Lập chương trình nội bài viết). dung biểu đạt - Kĩ năng lập dàn ý (hệ thống hoá, lựa chọn tài liệu). - Kĩ năng diễn đạt (dùng từ đặt câu) thể hiện chính xác, đúng đắn phong cách bài văn, 3. Hiện thực hoá chương tư tưởng bài văn. trình - Kĩ năng viết đoạn, viết bài theo phong cách khác nhau (miêu tả, kể chuyện, viết thư, …) 4. Kiểm tra hiệu đính - Kĩ năng hoàn thiện bài viết (phát hiện và sửa chữa lỗi). Mỗi đề bài Tập làm văn đều xác định một nhiệm vụ giao tiếp, việc xác định nhiệm vụ giao tiếp (định hướng giao tiếp) sẽ được thực hiện dưới dạng tìm hiểu đề bài. Việc tìm hiểu đề bài phải trả lời câu hỏi nói (viết) để làm gì? (xác định mục tiêu nói năng), nói (viết) về cái gì (xác định nội dung nói năng), nói (viết) theo thể loại nào? (hình thức nói năng), viết cho ai (xác định vai, thái độ nói). Các đề Tập làm văn phải có đủ thông tin để giúp học sinh xác định được những nội dung này. Ứng với giai đoạn lập chương trình là kĩ năng lập ý, tìm ý, xây dựng dàn ý. Việc làm này sẽ giúp học sinh trình bày nói (viết) một cách đầy đủ, mạch lạc, có logic. Khi lập dàn ý, phải xác định được ý chủ đạo và sắp xếp ý theo một trình tự nhất định. Ứng với giai đoạn thực hiện hoá chương trình là kĩ năng nói (viết) thành đoạn, bài; nó gồm các kĩ năng bộ phận như dùng từ, đặt câu, viết đoạn, viết bài. Ứng với giao đoạn kiểm tra kết quả là nhóm kĩ năng kiểm tra kết quả, gồm kĩ năng phát hiện lỗi – lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu, lỗi dựng đoạn và kĩ năng chữa lỗi. - Các nhân tố của hoạt động lời nói và dạy học Tập làm văn MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Việc chỉ ra các nhân tố tham gia vào hoạt động giao tiếp có ý nghĩa lớn trong việc tổ chức dạy học Tập làm văn. Hoạt động nói năng không thể có hiệu quả nếu không tính đến những nhân tố này. Đây là những căn cứ để đánh giá chất lượng một ngôn bản: có phù hợp với lời nói không, phù hợp với hoàn cảnh nói năng không, có lựa chọn đúng các phương tiện giao tiếp không, có đạt được mục đích giao tiếp không… Sự hiểu biết về hoạt động lời nói đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được các đề bài gắn với tình huống giao tiếp tự nhiên cho học sinh, tổ chức các giờ học Tập làm văn làm sao để tạo cho học sinh có nhu cầu giao tiếp. - Các dạng lời nói và dạy Tập làm văn Lời nói trước hết được chia ra thành lời nói miệng (khẩu ngữ) và lời viết (bút ngữ). Vì vậy, kĩ năng Tập làm văn trước hết được chia thành kĩ năng nói và kĩ năng viết. Kĩ năng nói được hình thành trước kĩ năng viết nhờ giao tiếp tự nhiên. Kĩ năng viết chỉ có được nhờ quá trình học tập. Ở các lớp đầu cấp học, khẩu ngữ phát triển hơn, còn kĩ năng viết mới được hình thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào viết thế ấy, mắc các lỗi được tính vào lỗi phạm qui phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Kĩ năng viết là sản phẩm của quá trình học tập. Nó là phương tiện học tập và giao tiếp có hiệu quả. Năng lực viết chứng tỏ trình độ văn hoá, văn minh của một người. Trong văn bản, các câu thường đầy đủ và phức tạp hơn khẩu ngữ, dùng nhiều từ ngữ sách vỡ hơn, văn bản có khối lượng lớn hơn so với một bài nói miệng cùng một đề tài. Trong khi viết, không có sự hỗ trợ của các yếu tố phi ngôn ngữ. Người ta phải triển khai đầy đủ ý ở dạng lời viết, phải dùng các dấu câu để tách câu, phân chia văn bản thành từng đoạn – tách đoạn, dùng các kiểu chữ khác nhau. Ở các lớp đầu cấp bậc tiểu học, học sinh mới được làm quen với ngôn ngữ dạng viết – bút ngữ nên cần có phương pháp dạy học đặc biệt. Kĩ năng viết ngày càng phát triển ở các lớp trên. Tập làm văn có vai tró hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này, đồng thời chúng ta cần biết tận dụng các cơ hội viết bài của các phân môn khác của môn Tiếng Việt và các môn học khác để trau dồi năng lực viết cho học sinh. 2/. Ngữ pháp văn bản và ứng dụng vào dạy học Tập làm văn - Tính thống nhất của văn bản và việc dạy học Tập làm văn Để tạo lập một văn bản phải tạo nên tính thống nhất thể hiện cả hai mặt: sự liên kết về nội dung và liên kết hình thức. Sự liên kết này có được là nhờ tính hướng vào mục đích của MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp văn bản. Vì vậy, để rèn luyện kĩ năng viết văn cho học sinh, chúng ta phải giúp học sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này trong suốt bài viết để bài văn không lan man, thiếu nhất quán. Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy nên trong dạy học Tập làm văn, nhiều người thường chú ý đến hình thức ngôn từ mà không coi trọng đúng mức đến logic của các ý trong bài, trong khi chữa văn bản cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lời mà không chữa ý. Đây là một thiếu sót cần được khắc phục. Bên cạnh liên kết nội dung, ngữ pháp văn bản còn chỉ ra cả một hệ thống các biện pháp liên kết hình thức. Nó là sự biểu hiện ra bên ngoài của liên kết nội dung. Những hiểu biết về liên kết hình thức mà ngữ pháp văn bản đem lại giúp nhiều cho giáo viên trong việc hướng dẫn viết bài, chữa bài viết cho học sinh. Bên cạnh duy trì chủ đề, để đạt được mục đích giao tiếp, văn bản phải có sự phát triển. Chủ đề cần phải được triển khai. Các đề bài Tập làm văn cần phải chỉ ra các hướng triển khai: theo trật tự thời gian, trật tự không gian, từ toàn thể đến bộ phận, theo trật tự tâm lí,… - Các bình diện ngữ nghĩa của văn bản và dạy học Tập làm văn Các bình diện ngữ nghĩa của văn bản cũng được tập trung chú ý trong ngữ văn bản. Việc chỉ ra nghĩa liên quan cá nhân của văn bản dẫn đến một yêu cầu bắt buộc: các văn bản (bài viết) của học sinh, nhất là văn bản văn chương phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc. Điều này sẽ chi phối kĩ thuật viết đồng thời đòi hỏi dạy Tập làm văn phải bắt đầu từ việc hình thành tình cảm đối với đối tượng được nói, viết. - Cấu trúc của đoạn văn và dạy học Tập làm văn Có thể nói đoạn văn là đơn vị trung tâm trong dạy học Tập làm văn của chương trình mới: Đoạn thể hiện một tiểu chủ đề, có thể xem như một tiểu văn bản là một dung lượng vừa sức hơn với học sinh tiểu học và phù hợp với lượng thời gian tiến hành trong một tiết học. Trong chương trình Tập làm văn, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Việc chỉ ra các kiểu cấu trúc của đoạn trong ngữ pháp văn bản đã giúp các nhà phương pháp xây dựng các kiểu, dạng bài tập viết đoạn theo cấu trúc, ví dụ cho một câu chủ đề yêu cầu viết tiếp thành đoạn… Đoạn văn còn được phân loại theo chức năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Mỗi đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên. 3/. Thể loại văn học và dạy học Tập làm văn MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Các kiến thức về thể loại văn học, đặc biệt là kiến thức về kể chuyện và miêu tả thự sự cần thiết để dạy hai kiểu bài viết văn bản nghệ thuật: kể chuyện, miêu tả. Để có thể dạy tốt các bài Tập làm văn ở tiểu học, giáo viên cần vận dụng các tri thức về miêu tả và kể chuyện (trong đó có các hiểu biết về cốt chuyện, chi tiết nhân vật – cách biểu hiện ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, suy nghĩ) về ngôi kể về truyện ngắn, truyện dài, về đề tài, chủ đề, tư tưởng, về kết cấu,… Các tri thức này góp phần chỉ ra nội dung luyện tập của các kĩ năng làm văn. Nói cách khác, dựa trên các hiểu biết về thể loại văn học, giáo viên mới hiểu biết đặc thù của từng kĩ năng trong từng kiểu bài văn. Để “vẽ được bằng lời” phải dạy tìm ý hướng dẫn cho học sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết cách diễn đạt được điều quan sát một cách gợi tả, gợi cảm tức là có hình ảnh và cảm xúc… Có hiểu biết về cốt truyện, về ngôi kể, về kết cấu mới có thể hiểu và hướng dẫn được các tiết tìm ý, lập dàn bài trong văn kể chuyện (thực chất là xây dựng cốt truyện, lựa chọn kết cấu và ngôi kể, tình tiết cho câu chuyện…) II/. Cơ sở thực tiễn 1/. Chương trình, nội dung phân môn Tập làm văn lớp 5 Chương trình Tập làm văn lớp 5 gồm các kiến thức và kĩ năng làm văn hình thành qua từng bài học của các tuần học như sau: Tuần 1 2 3 4 5 Tên bài học - Cấu tạo của văn tả cảnh - Luyện tập tả cảnh (một buổi sáng trong ngày) - Luyện tập tả cảnh (một buổi sáng trong ngày) - Luyện tập làm báo cáo thống kê - Luyện tập tả cảnh (một hiện tượng thiên nhiên) - Luyện tập tả cảnh (một hiện tượng thiên nhiên) - Luyện tập tả cảnh (trường học) - Kiểm tra viết (tả cảnh) - Luyện tập làm báo cáo thống kê - Trả bài văn tả cảnh MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 - Luyện tập làm đơn - Luyện tập tả cảnh (sông nước) - Luyện tập tả cảnh (sông nước) - Luyện tập tả cảnh (sông nước) - Luyện tập tả cảnh (cảnh địa phương em) - Luyện tập dựng đoạn mở bài, kết bài - Luyện tập thuyết trình tranh luận - Luyện tập thuyết trình tranh luận - Ôn tập kiểm tra (2 tiết) - Trả bài văn tả cảnh - Luyện tập làm đơn - Cấu tạo bài văn tà người - Luyện tập tả người (quan sát và chọn lọc chi tiết) - Luyện tập tả người (tả ngoại hình) - Làm biên bản cuộc họp - Luyện tập tả người (tả ngoại hình) - Làm biên bản cuộc họp - Luyện tập tả người (tả hoạt động) - Luyện tập tả người (tả hoạt động) - Kiểm tra viết (tả người) - Làm biên bản một vụ việc - Ôn luyện về viết đơn - Trả bài văn tả người - Ôn tập cuối học kì I (2 tiết) - Luyện tập tả người (dựng đoạn mở bài) - Luyện tập tả người (dựng đoạn kết bài) - Viết bài văn tả người - Lập chương trình hoạt động - Lập chương trình hoạt động - Trả bài văn tả người - Ôn tập về văn kể chuyện - Viết bài văn kể chuyện MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp 23 24 25 26 27 - Lập chương trình hoạt động - Trả bài văn kể chuyện - Ôn tập về tả đồ vật - Luyện viết lời hội thoại - Ôn tập về tả đồ vật - Viết bài văn tả đồ vật - Luyện viết lời hội thoại - Trả bài văn tả đồ vật - Ôn tập về tả cây cối 28 - Viết bài văn tả cây cối - Ôn tập (2 tiết) 29 58 - Trả bài văn tả cây cối 32 63 - Trả bài văn tả con vật 67 - Trả bài văn tả cảnh 68 - Trả bài văn tả người 34 Từ việc xác định vị trí của các tiết trả bài viết trên lớp trong chương trình Tập làm văn lớp 5, ta rút ra một số điểm sau: - Thứ nhất là trong chương trình, rất nhiều đoạn văn được học sinh sản sinh tại lớp thì các giai đoạn của hoạt động lời nói được thực hiện ngay ở tiết học đó, kể cả khâu định hướng đến khâu cuối cùng là kiểm tra, hiệu đính. Mặc dù, chúng được coi như một tiểu văn bản. - Thứ hai là những văn bản mang phong cách nhật dụng cũng không có tiết trả bài riêng mà cũng được tiến hành như đối với các đoạn văn. - Trong chương trình chỉ có 10 tiết / 70 tiết trả bài viết trên lớp chỉ dành cho những văn bản trọn vẹn mang phong cách nghệ thuật. Các tiết này tập trung nhiều ở học kì II, đặc biệt là các tuần gần cuối năm học. Qua đây, ta thấy được, các tiết trả bài viết trên lớp chiếm thời lượng khá khiêm tốn trong chương trình Tập làm văn lớp 5 nhưng không phải quá ít. Đặc biệt, là sự phân bố giữa các tiết làm bài viết với các tiết trả bài luôn luôn có một khoảng giãn ra nhất định. Theo tôi, hai thuận lợi nêu trên đủ để giúp giáo viên có thời gian chấm bài, thời gian chuẩn bị cho tiết trả bài trên lớp đạt hiệu quả tốt nhất. b/. Các tài liệu dạy – học phân môn Tập làm văn lớp 5 MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp - Tài liệu chính được coi như pháp lệnh được cả giáo viên và học sinh sử dụng trong phân môn Tập làm văn là hai cuốn Sách giáo khoa Tiếng Việt 5 tập 1 và Tiếng Việt 5 tập 2. - Ngoài ra, một số tài liệu để giáo viên tham khảo trong quá trình dạy: Sách giáo viên Tiếng Việt 5 tập 1 và sách giáo viên Tiếng Việt 5 tập 2; sách phương pháp dạy học các môn học ở tiểu học,... - Tài liệu không thể thiếu đối với giáo viên hiện nay đó là sách Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học. 2/. Hoạt động dạy học a/. Hoạt động dạy của giáo viên Bên cạnh đội ngũ giáo viên có hiểu biết về lí luận dạy học, thông hiểu nội dung, chương trình dạy học, biết tích lũy kinh nghiệm dạy học để vận dụng sáng tạo vào dạy Tập làm văn . Vẫn còn một lực lượng không nhỏ giáo viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, không tâm huyết nghề nghiệp; ít quan tâm học sinh, không trăn trở, không lo cái lo cùng học sinh. Mặc nhiên, lực lượng này vẫn đứng trong đội ngũ nhà giáo với trình độ chuẩn hoặc trên chuẩn. Nhiều giáo viên chưa vận dụng linh hoạt các phương pháp đặc trưng của phân môn trong dạy Tập làm văn. Họ chỉ dạy qua loa, đại khái; đặc biệt, họ rất lúng túng trong các tiết dự giờ, thao giảng phân môn này. Nhược điểm lớn nhất hiện nay là nhiều giáo viên, nhiều trường tiểu học chưa chú trọng đẩy mạnh đẩy mạnh các hoạt động thực tiễn, hoạt động ngoại khóa hỗ trợ cho việc dạy Tập làm văn. Học sinh bị gò ép trong bốn bức tường của lớp học và gia đình. Đây là nguyên nhân sâu xa ảnh hưởng đến chất lượng dạy - học Tập làm văn . Ngoài ra, hiện nay một số trường tiểu học đã thực hiện việc dạy chuyên các môn. Trong đó, mỗi giáo viên chỉ đảm nhiệm dạy một môn. Môn Tiếng Việt được giao cho những giáo viên không những có năng lực, có hiểu biết về lí luận dạy học mà họ còn có giọng nói truyền cảm, thu hút, có khiếu và sự đam mê văn chương. Đây là một hướng đi tốt. b/. Hoạt động của học sinh Đa phần học sinh chưa ham thích học Tập làm văn . Nhiều học sinh khi làm bài văn cảm thấy khó, thấy bí, không biết viết gì, nói gì vì các em thiếu vốn sống, vốn hiểu biết. Chính vì vậy, các em gặp rất nhiều khó khăn cả về tri thức, phương pháp, hiểu biết và cảm xúc về đối tượng cần tả, cần kể. Các em không có nguyên liệu để làm ra sản phẩm. Từ đó, tâm lí chán học, ngại học Tập làm văn . Chính vì thế, những hành vi sao chép văn của khác hoặc sao chép văn mẫu thường xảy ra. MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Chương II MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KĨ NĂNG LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 5 QUA TIẾT TRẢ BÀI VIẾT TRÊN LỚP I/. Phương pháp chung của dạy kiểu bài trả bài viết Tập làm văn lớp 5 Giờ trả bài có mục đích rèn cho học sinh kĩ năng kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh bài viết. Đây là một kĩ năng quan trọng trong hoạt động giao tiếp. Kĩ năng kiểm tra là kĩ năng đối chiếu văn bản nói, viết của học sinh với mục đích giao tiếp và yêu cầu diễn đạt, sửa lỗi nội dung và hình thức diễn đạt. Để có kĩ năng này học sinh phải tập nhận xét văn bản nói hay viết của bạn, tự sửa chữa bài viết chính thức ở lớp, rút kinh nghiệm và tự sửa chữa (hoặc viết lại) bài văn đã được giáo viên chấm, luyện tập để hình thành kĩ năng và thói quen tự điều chỉnh tự học tập để luôn luôn tiến bộ. Các bước tiến hành giờ dạy gồm: - Giáo viên nhận xét bài làm của học sinh: + Giúp học sinh xác định lại yêu cầu của đề bài để tự đối chiếu với kết quả bài viết xem đã thực hiện được đến đâu. + Nêu rõ ưu điểm, khuyết điểm của học sinh trong việc thực hiện yêu cầu của đề bài (dẫn chứng cụ thể qua bài viết được giáo viên chấm); kết hợp nhận xét về chữ viết và cách trình bày bài văn, công bố kết quả điểm số và biểu dương học sinh có bài văn làm tốt hoặc bài văn có tiến bộ. - Hướng dẫn học sinh sửa chữa bài: Căn cứ vào kết quả bài làm của học sinh, giáo viên tiến hành việc sửa chữa bài đạt hiệu quả thiết thực theo một trong hai cách sau: Cách 1: + Trả bài làm cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài làm, lời nhận xét chung và những chỗ lưu ý cụ thể của giáo viên trong bài viết. + Hướng dẫn học sinh chữa một số lỗi chung về nội dung (sai, thiếu ý hoặc chi tiết) và hình thức (về bố cục, cách dùng từ, đặt câu, lỗi chính tả…) + Tổ chức cho học sinh tự chửa4 bài làm của cá nhân; sau đó, đổi bài để kiềm tra, giúp đỡ lẩn nhau về việc chữa lỗi. Cách 2: MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp + Nhận xét cụ thể về bài văn của học sinh theo bố cục ba phần: mở bài, thân bài, kết bài. * Hướng dẫn chữa lỗi về mở bài – kết bài (theo cách đã học), về thân bài (sắp xếp ý theo trình tự một cách hợp lí); sau đó tổ chức cho học sinh tiến hành tự chữa lỗi cá nhân và trao đổi bài cho nhau để cùng kiểm tra, chia sẽ kinh nghiệm. + Hướng dẫn học sinh học tập cách viết văn hay. * Đọc cho học sinh nghe đoạn văn, bài văn hay trong lớp (hoặc lớp khác, năm học trước do giáo viên sưu tầm được). * Gợi ý học sinh nhận xét, trao đổi để học tập những ưu điểm trong bài văn của bạn (về bố cục sắp xếp ý, diễn đạt, dùng từ, đặt câu, sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh hay nhân hóa sinh động). + Hướng dẫn chọn viết lại một đoạn văn trong bài làm cho tốt hơn. Tùy điều kiện thời gian cho phép. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh thực hiện yêu cầu này tại lớp hoặc luyện tập thêm ở nhà để nâng cáo kĩ năng viết văn. Đoạn văn học sinh chọn viết lại cho tốt hơn có thể là đoạn văn còn mắc nhiều lỗi 9chính tả, dùng từ, đặt câu…), đoạn văn viết chưa hay, có thể là đoạn viết theo cách khác. Ví dụ: Từ mở bài trực tiếp thành mở bài gián tiếp, từ kết bài không mở rộng thành kết bài mở rộng… sau khi học sinh viết lại, giáo viên cần cho học sinh so sánh để thấy rõ được sự tiến bộ và tự rút kinh nghiệm về cách làm văn đạt kết quả tốt. II. BIỆN PHÁP TRẢ BÀI VIẾT TRÊN LỚP ĐẠT HIỆU QUẢ PHẦN 1: CHUẨN BỊ Để có một tiết trả bài viết thành công thì khâu chuẩn bị của thầy và trò là rất quan trọng. cũng giống như bất kì công việc gì muốn đi đến kết quả tốt đẹp thì sự chuẩn bị phải tốt, phải chu đóa. Khâu chuẩn bị cho tiết trả bài không những cần có thời gian, có sự sắp xếp theo trình tự hôp lí, khoa học mà nó cần sự đầu tư sức lực, trí tuệ của người giáo viên. Nó đòi hỏi người giáo viên phải tập trung cao độ vận dụng kiểu bài và nhiều yếu tố khác một cách sáng tạo, mang lại hiệu quả tốt nhất. 1. Phải thiết lập được sự đồng bộ giữa thầy và trò Trước khi bước vào tiết trả bài viết đầu tiên của năm học, Giáo viên cần dành một khoảng thời gian nhất định để phổ biến đến học sinh những kí hiệu chấm, chữa bài của mình trong bài viết của học sinh. Từ đó, học sinh hiểu và biết được bài viết của mình co những ưu điểm, khuyết điểm gì một cách dễ dàng. MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Sau đây là một số kí hiệu chấm bài của giáo viên (giáo viên sử dụng viết màu mực đỏ để chấm và kí hiệu trong bài viết của học sinh). - Đối với lỗi chính tả: Gạch 1 gạch dưới từ viết sai chính tả. Ví dụ: Tuy Lan còn nhỏ tuổi nhưng bạn có suy nghỉ rất chu đáo như người lớn làm cho em không khỏi giật mình. - Đối với lỗi dùng từ: Các loại lỗi về dùng từ rất nhiều, có thể là dùng từ sai nghĩa, dùng từ không đúng với sắc thái, tình cảm hoặc dùng sai cặp từ so với nội dung câu văn… + Nếu sai 1 từ: khoanh tròn vào từ đó. + Nếu sai 2 từ: khoanh tròn và gạch hai gạch dưới cặp từ. Ví dụ: Từ ngày vĩnh biệt cả lớp sang trường khác dạy chúng em rất nhớ thầy. (chia tay hoặc tạm biệt) Ông em rất thương con cháu, mội lần gặp em, ông đều vỗ đầu và thơm lên má em. (xoa) Tuần trước, cháu gửi về tặng bà hộp thuốc bổ, bà đã nhận được chưa? (biếu) Bạn Nam luôn là tấm gương sáng cho cả lớp noi theo, Vì nhà xa nên Nam luôn đi học đúng giờ. (tuy … nhưng) - Đối với lỗi đặt câu: + Nếu câu viết thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ (câu què) hoặc câu viết thiếu cả hai thành phần chính của câu, chỉ có thành phần nên ý chưa trọn vẹn (câu cụt): đánh dấu ba chấm trong ngặc đơn vào ngay chổ thiếu của câu đó. + Đối với câu có nhiều từ ngữ thùa, rờm rà, lủng củng: gạch 1 gạch dưới toàn bộ câu đó. Ví dụ: Đoạn văn tả cây cối và con vật sau cơn mưa: Ánh nắng lại chiếu xuống rực rỡ trên thảm cỏ xanh lấp lánh. Những hàng cây hai ven đường . Mấy chú chú chim không biết tránh mưa ở đâu đó giờ đã đậu trên cành cây hót véo von. Chị gà mái tơ.(…) Đàn gà con.(…) Chú mèo khoang.(…) Đạo văn tả cơn mưa: Mưa càng ngày càng nặng hạt. Sấm sét ầm ầm to hơn sấm thứ nhất làm cho một vài mọi con người tưởng tượng sấm sét đánh to. Mưa giảm dần rồi tạnh hẳn. Có mấy ba, bốn chú bé ra ngoài rồi tạnh mưa. - Đối với lỗi về bố cụ bài văn: có thể học sinh thiếu mở bài hoặc kết bài; thiếu một phần trong thân bài: ghi chữ V vào phần khuyết đó. MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp - Đối với những lỗi về sự liên kết nội dung và hình thức, những học sinh viết không đúng với yêu cầu đề bài (lạc đề) thì giáo viên chỉ có thể phê trên lời phê không thể dùng kí hiệu. Sau đây là một ví dụ tổng hợp những kí hiệu của giáo viên chấm bài tả một cơn mưa của em Trần Xuân Huyền lớp 5A, Trường Hermam Gmeiner Cà Mau Bài làm Quê tôi hạn hán đã lâu, đất đai nức nẻ, cây cối héo tàn, người dân ở đây đang mong chờ có một đám mưa rào trôi qua như mong mẹ về chợ. Bầu trời đang nắng chang chang bỗng những đám mây đen từ đâu ùng ùng kéo đến. trời sai lính cầm dùi lên và bắt đầu rõ vào chiếc trống tùng tùng… để báo hiệu cho mọi người là trời sắp mưa. Lộp độp, lộp độp những hạt mưa bắt đầu rơi xuống trần gian.. những hạt mưa mảnh mai, nhẹ nhàng rơi xuống các nhành cây, kẽ lá mát rượi. và hạt mưa càng lúc càng nhiều và nặng hạt hơn. lúc này, mọi người tấp dưới mái hiên để chú mưa. Những thằng cu tí cởi trần trùng trục thỏa thích tắm mưa, nước văng tung tóe, chúng cười toe toét. Một số thanh niên chạy xe dù về nhà, mình ướt sũng, môi run lập cập. những máy hiên, nóc nhà nước từ trên đổ xuống(…)V Khi Xuân Huyền nhận lại bài văn của mình, nhìn vào kí hiệu của giáo viên em biết: bài mình có 2 lỗi dùng từ, 6 lỗi chính tả, 1 lỗi diễn đạt chưa trọn vẹn, thiếu phần kết bài. 2. Cần phải tính đến sơ đồ lớp học đối với tiết trả bài viết Vị trí gnồi học của từng học sinh cũng rất quan trọng trong tiết trả bài viết. mục đích cuối cùng của tiết trả bài là học sinh biết điều chỉnh để làm bài tốt hơn. trong tiết trả bài phần hướng dẫn sửa lỗi rất quan trọng. nếu giáo viên biết sắp xếp vị trí của học sinh trong lớp phù hợp thì giáo viên sẽ rất nhẹ nhàng trong khâu này. Học sinh sẽ tự điều chỉnh lỗi của mình, sau đó bạn ngồi bên sẽ giúp kiểm tra lại và điều chỉnh tiếp (nếu có). Lúc này, giáo viên chỉ là người bao quát lớp và chỉ giúp đở nhóm nào nếu cả 2 học sinh đều không phát hiện hoặc không biết cách sử chữa. Vì vậy, giáo viên phải sắp xếp những học sinh có kiến thức về chính tả tốt, viết chính tả tốt ngồi cùng bàn, cùng nhóm với học sinh viết hay sai chính tả, những học sinh diễn đạt tốt ngồi cùng bàn với học sinh yếu về diễn đạt, những học sinh dùng từ tốt và sử dụng từ sinh động ngồi cùng bàn với học sinh hay sai lỗi về dùng từ. 3. Thao tác chấm bài MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Đây là nhân tố quyết định của một giờ trả bài trên lớp đạt hiệu quả hay không? Vì chấm bài càng kĩ càng nắm vững thiếu sót của học sinh, giáo viên sẽ bổ sung vào đúng khuyết điểm của học sinh. Cũng như trị cho cây khoai; cây đậu nào đó chẳng hạn, ta phải biết cây bệnh chỗ nào? Bệnh do thiếu chất gì? Trị bằng cách nào? Từ đó, ta dùng đúng thuốc và đúng cách cây sẽ phục hồi nhanh chóng. Ở học sinh cũng vậy, giáo viên cần phải biết học sinh sai cái gì? Sai ở chỗ nào? Vì sao sai như vậy Giáo viên sẽ giúp học sinh bổ sung kịp thời sẽ lấp chỗ hỏng kiến thức nhanh chóng, giúp học sinh tiến bộ nhanh hơn. a. Chấm bài phải có biểu điểm và đáp án Tuy trong môn Tiếng Việt nói chung, phần môn Tập làm văn nói riêng, đặc biệt là loại văn mang phong cách nghệ thuật này không thể chấm chính xác như các môn học khác, hai người chấm vẫn cho phép có sự chênh lệch nhưng sự chênh lệch đó không quá xa. Có những học sinh nói: Nếu làm văn trúng ý thầy thì sẽ được điểm cao. Nhưng ta thấy Tập làm văn trong trường tiểu học mang tính quy phạm, nên những bài văn dù viết hay nhưng thiếu một trong 3 phần trong cấu trúc bố cục thì bài văn đó không được đánh giá cao. Vì vậy, giáo viên khi chấm điểm cần có đáp án và tỉ lệ điểm giữa các phần ở mức tương đối; sau đó, tùy vào tình hình thực tế để điều chỉnh cho phù hợp với từng kiểu bài, từng dạng bài. + Tỉ lệ điểm được xác định như sau: Mở bài: 1 điểm Thân bài: 7 điểm Kết bài: 1 điểm Trình bày và chữ viết: 1 điểm + Khung điểm trừ: Lỗi chính tả: - 0,2 điểm/ 1 lỗi Lỗi dùng từ: - 0,5 điểm/ 1 lỗi Lỗi vế câu: - 1 điểm/ 1 lỗi + Bài viết lạc đề: không ghi điểm Ví dụ: Cho đề bài sau: Tả hình dáng và tính tình của một cụ già 9cụ già có thể là ông, bà em hoặc người em quen biết). Tác phẩm Biểu điểm Đáp án MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp Mở bài 1 điểm - Giới thiệu tên cụ già định tả - Mối quan hệ của cụ già với em (7 điểm) 3,5 điểm - Tả hình dạng + Tả bao quát, tuổi tác, tầm vóc, dáng vẻ, cách ăn mặc. + Tả chi tiết: chọn những chi tiết nổi bật để tả Thân bài (làn da, mái tóc, giọng nói, khuôn mặt) 3,5 điểm - Tả tính tình + Cách đối xử của cụ già với con cháu + Thái độ của cụ già đối với mọi người xung quanh + Thói quen hằng ngày của cụ già 1 điểm Kết bài Trình bày và + Thái độ của mọi người với cụ già - Tình cảm của em dành cho cụ già - Lời hứa hoặc những mong muốn tốt đẹp đối 1 điểm chữ viết với cụ già - Chữ viết rõ ràng, đúng mẫu - Trình bày đúng quy cách bài văn và không tẩy xóa, dơ bẩn * Tác dụng của đáp án - Nhìn vào đáp án sẽ thấy bài văn tối thiểu cũng được 4 đoạn (mở bài 1 đoạn, thân bài 2 đoạn, kết bài 1 đoạn) giáo viên dễ dàng phát hiện học sinh thiếu sót nội dung nào khi chấm bài. - Nhìn vào đáp án, giáo viên sẽ đối chiếu với bài của học sinh rất nhanh, không mất thời gian và phát hiện ngay học sinh thiếu những yêu cầu nào trong từng phần một, đối chiếu với thang điểm cụ thể, ta cho điểm từng phần cho học sinh (Tất nhiên là giáo viên phải căn cứ với điểm trừ theo từng mảng sai lỗi). - Nhìn vào đáp án, giáo viên phát hiện ngay học sinh xây dựng đoạn văn đúng hay không đúng quy cách. - Ngoài ra, đáp án giúp giáo viên cho điểm chính xác không sót nội dung trình bày của học sinh. Tuy nhiên, giáo viên cần phải linh động hơn trong chấm bài. Có thể có những học sinh không xây dựng phần thân bài thành hai đoạn mà các em vừa tả hình dạng kết hợp với MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU Nâng cao năng lực làm văn cho học sinh lớp 5 qua tiêt trả bài viết trên lớp làm nổi bật tính tình của cụ già qua hình dạng và các em còn thể hiện cảm xúc ngay trên một đoạn văn thì giáo viên nên khuyến khích, khen ngợi những học sinh đó. a. Chấm điểm phải có phiếu chấm Trong năm học, giáo viên cần chuẩn bị một quyển sổ dùng để theo dõi bài làm văn của từng học sinh. Dành cho một học sinh một trang sổ. giáo viên sử dụng trang sổ đó để làm phiếu chấm bài cho học sinh, giáo viên ghi ưu điểm, tồn tại của học sinh trong từng bài một cách cụ thể. Mỗi một trang sổ như vậy sẽ sử dụng từ đề đầu tiên đến đề cuối cùng của năm học. sau khi giáo viên chấm bài của học sinh, giáo viên dùng viết đó để kí hiệu các lỗi sai và tổng hợp ưu điểm thiếu sót cụ thể và ghi điểm số vào phiếu chấm. Ví dụ: Một trang sổ giáo viên sử dụng làm phiếu chấm cho 1 học sinh như sau: STT Đề bài Ưu điểm Trình Tả một cơn 1 mưa trên quê em Khuyết điểm Điểm số bày sạch, đẹp, sắp xếp ý hợp lí, bài Sai 5 lỗi chính tả, 2 lỗi văn có hình ảnh dùng từ, thiếu phần kết bài. 7 và thể hiện cảm xúc tốt. Trình bày sạch đẹp, bố cục Tả một cảnh đủ 3 phần, dùng 2 đẹp ở phương Sai 2 lỗi chính tả, 1 lỗi địa từ ngữ rất sinh dùng từ và 1 câu diễn đạt 8 động, sử dụng lủng củng. phép nhân hóa rất tốt. 3 … … … … Tương tự còn lại, giáo viên cũng ghi cụ thể vào phiếu chấm của các đề bài còn lại trong một năm học. Nếu giáo viên làm tốt điều này, không những giúp cho từng tiết trả bài tốt mà còn là một cơ sở quan trọng để theo dõi bước tiến của học sinh trong khả năng làm bài. Từ đó, cho phéo giáo viên điều chỉnh cách dạy hợp lí hơn. Sau những trang dành làm phiếu chấm cho từng các nhân học sinh, những trang còn lại của quyển sổ giáo viên sử dụng để tổng kết ưu khuyết điểm chung cho cả lớp. giáo viên MAI THỊ ANH – TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER CÀ MAU
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất