PHÒNG GD & ĐT KRÔNG ANA
TRƯỜNG THCS TÔ HIỆU
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp
dạy học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt
lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam)
ởtrường THCSTô Hiệu.
Họ và tên: Nguyễn Thị Lành
Đơn vị công tác: Trường THCS Tô Hiệu, EaBông,
Krông ANa -Đăk Lăk.
Trình độ đào tạo: Đại học – Môn đào tạo Ngữ văn.
Krông Ana, tháng 3 năm 2016
MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở đầu:...................................................................................................1
I.1. Lý do chọn đề tài.............................................................................................1
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.........................................................................2
I.3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................2
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu..........................................................................2
I.5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
II. Phần nội dung ................................................................................................3
II.1. Cơ sở lý luận..................................................................................................3
II.2.Thực trạng.......................................................................................................5
a. Thuận lợi- khó khăn.........................................................................................5
b. Thành công- hạn chế........................................................................................5
c. Mặt mạnh- mặt yếu...........................................................................................6
d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.............................................................6
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trang mà đề tài đã đặt ra.....................8
II.3. Giải pháp, biện pháp: ....................................................................................9
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
.............................................................................................................................20
III. Phần kết luận, kiến nghị ............................................................................21
III.1. Kết luận: ..................................................................................................21
III.2.Kiến nghị:..................................................................................................22
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................23
ĐỀ TÀI:
Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào
dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt Nam)
ở trường THCS Tô Hiệu.
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
I.1. Lý do chọn đề tài.
Vấn đề dạy và học có hiệu quả là vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu trong giáo
dục.Đặc biệt trong tình hình xã hội hiện nay,đất nước ta đã và đang hội nhập với
thế giới, đòi hỏi người học phải có tri thức thực sự mới đáp ứng được yêu cầu xã
hội. Chính vì thế nên theo sự chỉ đạo của Bộ giáo dục và đào tạo, toàn ngành giáo
dục đã và đang đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các bậc học theo hướng
phát huy tính tích cực của người học, tập trung vào hoạt động học của học
sinh.Từ năm học 2014 - 2015, Bộ giáo dục đang thực hiện thí điểm về mô hình
trường học mớiViệt Nam (VNEN)đối với cấp THCS. Theo sách hướng dẫn học
Ngữ văn VNEN so với chương trình hiện hành thì chương trình sách hướng dẫn
học Ngữ văn VNEN có nhiều thay đổi về phương pháp dạy học. Do đó đòi hỏi
giáo viên phải có phương pháp dạy học tích cực, phù hợp với yêu cầu của chương
trình mới mà Bộ Giáo dục & Đào tạo đang thí điểm. Phân môn tiếng Việt trong
sách hướng dẫn học Ngữ văn 6(VNEN) được sắp xếp và giảng dạy không quá
khó đối với sự lĩnh hội tri thức của học sinh. Thế nhưng làm sao khi lên lớp giáo
viên phải truyền thụ kiến thức để học sinh nắm được một cách chắc chắn, đầy đủ
kiến thức cần thiết thì đòi hỏi người giáo viên phải nỗ lực rất nhiều.Làm được
điều này,được xem là thành công đối với người giáo viên. Từ thực tiễn đó, để
hướng dẫn học sinh học tập tốt từng tiết học ở phân môn tiếng Việt trong sách
hướng dẫn học Ngữ văn 6(V NEN), giáo viên phải sử dụng phương pháp nào,
phải tìm tòi, nghiên cứu, tích luỹ tri thức ra sao để truyền thụ cho học sinh đạt
hiệu quả cao thì không phải là vấn đề đơn giản đối với từng giáo viên. Chính vì lý
do trên tôi đã chọn đề tài “Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy
học tích cực vào dạy phân môn Tiếng Việt lớp 6 (Mô hình trường học mới Việt
Nam) ở trường THCS Tô Hiệu”.Trong phạm vi nghiên cứu khoa học này, tôi đi
sâu tìm hiểu phương pháp đổi mới cách dạy học phân môn tiếng Việt lớp 6
(VNEN) trong môn Ngữ văn cho học sinh THCS theo hướng tích cực. Tôi đã
quyết định chọn đề tài này để trước hết là bản thân có điều kiện khái quát nâng
Trang 1
cao chuyên môn sau thời gian nghiên cứu áp dụng và qua đây mong được chia sẻ
với đồng nghiệp cùng quan tâm để góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn và
đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn trong phạm vi nhà trường THCS.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
* Mục tiêu:Trên cơ sở tìm hiểu lí luận và thực tiễn việc dạy học Ngữ văn trường
THCS, đề tài đi sâu nghiên cứu, đề xuất một số biện pháp đổi mới việc dạy học
phân môn tiếng Việt theo hướng tích cực. Giúp giáo viên có được những định
hướng cần thiết để triển khai dạy học theo phương pháp mới có hiệu quả, đáp ứng
yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.Giúp học sinh tự tin, tích cực, yêu
thích môn học.
* Nhiệm vụ : Để đạt được mục tiêu trên, tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu chính
như sau:
- Xác định cơ sở lí luận của việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn theo
hướng tích cực.
- Điều tra, quan sát thực tế việc dạy học văn ở trường nói chung, việc dạy phân
môn tiếng Việt nói riêng.
- Đề xuất một số biện pháp vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong việc sử
dụng câu hỏi, cách thứctổ chức triền khai bài giảng thuộc phân môn tiếng Việt
trong chương trình Ngữ văn 6 (VNEN).
- Triển khai thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của đề xuất vận
dụng phương pháp đổi mới việc dạy phân môn tiếng Việt trong môn Ngữ văn cho
học sinh THCS. Trên cơ sở thực nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét, đánh
giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho hướng nghiên cứu tiếp theo.
I.3. Đối tượng nghiên cứu :
Sáng kiến kinh nghiệm này tập trung giới thiệu một số phương pháp dạy học phân
môn tiếng Việt thuộc chương trình Ngữ văn 6 (VNEN) có hiệu quả và cách chọn
lọc các hình thức dạy học tích cực phù hợp.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu :
Chỉ ra một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy phân
môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 6(VNEN). Đồng thời thực hiện hóa
một phần những định hướng về sử dụng phương pháp dạy học tích cực khi dạy
phân môn tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn 6(VNEN) qua việcsoạn thảo kế
Trang 2
hoạch dạy học mà bản thân đã và đang giảng dạy thực nghiệm tại lớp 6a1(VNEN)
trường THCS Tô Hiệu, năm học 2015 - 2016.
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
Làm đề tài này, tôi đã vận dụng nhiều phương pháp. Dưới đây là những phương
pháp chủ yếu:
1. Phương pháp thống kê: Qua việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học
sinh theo chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo viên thống kê kết quả thu được và so
sánh.
2. Phương pháp thực nghiệm qua giảng dạy: Thông qua các tiết dạy của bản thân
để xem xét, đánh giá.
3. Phương pháp đối chiếu, so sánh để thấy được kết quả trong thực tiễn.
4. Phương pháp quan sát: Quan sát học sinh lĩnh hội kiến thức thông qua tiết dạy
của bản thân kết hợp với việc dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp.
5. Phương pháp phân tích, tổng hợp.
II. PHẦN NỘI DUNG:
II.1.Cơ sở lý luận:
Để đi sâu vào nghiên cứu đề tài này, trước hết ta tìm hiểu về khái niệm
“Tích cực”.Khái niệm này có các cách hiểu như sau:
“1. Có tác dụng khẳng định, thúc đẩy sự phát triển; Nhân tố tích cực, mặt
tích cực của vấn đề.
2. Tỏ ra chủ động, có những hoạt động tạo ra sự biến đổi theo hướng phát
triển.
3. Tỏ ra nhiệt tình, đem hết khả năng, tâm trí vào công việc.” [Hoàng Phê
(chủ biên) ( 2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, tr.1217]
Như vậy, nội hàm khái niệm “tích cực” đã chỉ rõ bản chất của chủ thể hoạt động; chỉ tính chất, thái độ tham gia vào hoạt động, nhấn mạnh tính chủ
động, tự giác, nhu cầu, tính phát triển; sự nhiệt tình, dấn thân của chủ thể. Do đó,
thước đo của tính tích cực không chỉ thể hiện ở những hoạt động bề nổi mà quan
trọng chính là sự vận động của tâm lí nhận thức bên trong tạo nên sự vận động,
phát triển.
Trang 3
Vậy phương pháp dạy học tích cực là gì?Phương pháp dạy học tích cực là một
thuật ngữ rút gọn, được dùng để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo của người học. Phương pháp
dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không
phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy.
Trong những năm gần đây, vấn đề dạy học theo hướng tích cực luôn được chú
trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 của BCH TW Đảng khoá VIII nêu rõ: “Đổi
mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều rèn luyện
thành nếp tư duy sáng tạo của người học”, “phương pháp giáo dục phải phát huy
tính tích cực tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê
học tập và ý chí vươn lên”. Qua đó ta thấy được bộ giáo dục và đào tạo đã khẳng
định rất rõ tầm quan trọng của việc không ngừng đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực cho phù với đối tượng học sinh, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại.
Dạy học theo hướng “Tích cực hoá” lấy hoạt động học tập của học sinh làm
trung tâm, vai trò của người thầy là người tổ chức – chủ đạo, học trò là người
chủ động khám phá – lĩnh hội kiến thức. Vấn đề dạy học theo hướng tích cực là
nội dung quan trọng không thể thiếu trong việc đổi mới thay sách, đổi mới
phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Đặc biệt là trong chương trình
thí điểm VNEN đã được biên soạn rất cụ thể để hướng người dạy thực hiện đúng
phương pháp dạy học tích cực. Vì vậy đòi hỏi người dạy phải linh hoạt vận dụng
nhiều biện pháp, thao tác, kỹ năng để giảng dạy tốt hơn. Song việc đổi mới
phương pháp quá còn mới mẻ, còn khó khăn đối với giáo viên vì chương trình thí
điểm VNEN THCS mới chỉ thực hiện được chưa đầy hai năm. Giáo viên thực sự
là rất bỡ ngỡ và gặp không ít khó khăn khi giảng dạy. Đặc biệt đối với môn Ngữ
văn giáo viên phải giảng dạy tích hợp ba phân môn là Văn – Tiếng Việt – Tập
Làm Văn nên việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực phải thật sự khéo léo
thì mới tổ chức cho học sinh hoạt động để lĩnh hội tri thức được. Trong đó đối với
phân môn tiếng Việt trong phân phối chương trình không nhiều tiết nhưng không
phải vì thế mà chúng ta không quan tâm đến phân môn này. Giảng dạy tiếng Việt
làm sao đạt được hiệu quả để học sinh không nhàm chán, ngược lại học sinh ham
học phân môn này đó chính là điều trăn trở của mỗi giáo viên khi lên lớp.
Trang 4
II.2.Thực trạng:
a.
Thuận lợi- khó khăn:
* Thuận lợi:
- Được Sở giáo dục& Đào tạo Đăk Lăk,Phòng giáo dục& Đào tạo Krông Ana cử
đi tập huấn, lĩnh hội phương pháp tổ chức, dạy học theo mô hình trường học mới
ngay từ đầu năm học 2015 – 2016.
- Được nhà trường trang bị cơ sở vật chất đảm bảo cho việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học.
- Phía phụ huynh học sinh cũng đã tạo điều kiện về thời gian cho con học bài ở
nhà.
- Bản thân tôi đã trực tiếp dạy chương trình Ngữ văn lớp 6 (VNEN) nên rút ra
được kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy.
* Khó khăn:
Đối với giáo viên: Việc áp dụng phương pháp dạy học mới theoMô hình
trường học mới còn nhiều bỡ ngỡ.
Đối với học sinh: Học sinh của trường THCS Tô Hiệu đa phần là con em đồng
bào dân tộc thiếu số nên có học lực không đồng đều, số học sinh có học lực yếu
khá cao. Do khả năng tiếp thu kiến thức của các em chậm và đa số là lười học, về
nhà không học bài cũ, không soạn bài mới trước khi đến lớp; Do nhiều em còn rụt
rè, thiếu tự tin khi giao tiếp và học tập. Những học sinh học ở trường Tiểu học Võ
Thị Sáu và trường tiểu học Ea Bông các em chưa được học chương trình VNEN
nên giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để giúp đỡ các em làm quen với
phương pháp mới.
b.Thành công- hạn chế:
Với việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực vào phân môn tiếng Việt ở
chương trình Ngữ văn 6 (VNEN) đối với bản thân tôi đã có một số thành công
nhất định đó là:
- Giáo viên khi đứng lớp tự tin hơn vì đã thiết kế được kế được kế hoạc dạy học
phù hợp với chuẩn kiến thức, phù hợp đối tượng học sinh. Hình thức tổ chức dạy
học phong phú, thuận tiện trong giảng dạy, kiến thức được củng cố, mở rộng.
Trang 5
Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó thì khi sử dụng đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực trong giờ dạy phân môn tiếng Việt có những hạn chế
nhất định như:
- Để thiết kế được những hình thức đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi giáo viên
phải mất nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu, đọc sách, báo, Internet… thì mới lựa
chọn được nội dung ứng dụng phương pháp dạy học tích cực phù hợp với kiến
thức bài dạy và cả phù hợp với đối tượng học sinh.
- Phía học sinh phải siêng năng học bài cũ và soạn bài mới, phải nắm vững kiến
thức cơ bản của môn học thì mới trả lời được câu hỏi nhanh. Còn nếu học sinh
nắm mơ hồ về kiến thức cũ sẽ làm mất thời gian để giáo viên gợi mở như vậy sẽ
ảnh hưởng đến thời gian của tiết học. Trong lớp nếu có nhiều đối tượng học sinh
yếu thì áp dụng phương pháp dạy học tích cực rất khó thành công.
c. Mặt mạnh- mặt yếu:
Khi áp dụng phương pháp dạy họctheo hướng đổi mới có mặt mạnh là giúp
giáo viên dạy học theo tinh thần đổi mới phương pháp phù hợp với yêu cầu của
thời đại và dễ thực hiện trong mỗi tiết dạy. Giúp học sinh hứng thú với giờ học,
chủ động lĩnh hội tri thức, khắc sâu kiến thức cơ bản, có điều kiện củng cố, liên
hệ và mở rộng kiến thức liên quan.
Mặt yếu là khi áp dụng việc đổi mới trong dạy phân môn tiếng Việt đòi hỏi đối
tượng học sinh phải tích cực, chủ động.Nếu trong lớp có nhiều đối tượng học sinh
yếu, kém thì khi thảo luận, giáo viên phải trực tiếp hỗ trợ cho học sinh cho nên rất
vất vả.
d.Các nguyên nhân, các yếu tố tác động:
Chương trình Ngữ văn theo Mô hình trường học mới vẫn giữ nguyên ba phân
môn là Văn bản –tiếng Việt và Tập làm văn nhưng sẽ không trình bày mục tiêu
riêng của từng phân môn mà cố gắng tìm ra sự đồng quy của ba phân môn để qua
đó thực hiện quan điểm tích hợp. Chương trình mới coi trọng cả bốn kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết.Khi dạy phân môn tiếng Việt giáo viên phải thực sự chú ý rèn
cho học sinh cả 4 kĩ năng trên.Đặc biệt là việc rèn từ, đặt câu và viết đoạn văn là
việc làm rất cần thiết của giáo viên khi dạy phân môn tiếng Việt nhằm giúp học
sinh sẽ cảm thụ tốt khi học Văn bản và tạo lập văn bản tốt khi học Tập làm văn.
Trong thực tế giảng dạy chương trình VNEN, tôi nhận thấy với phân môn tiếng
Việt trong sách hướng dẫn học Ngữ văn 6,Bộ giáo dục đã thiết kế lồng ghép các
đơn vị kiến thức tiếng Việt vào trong một bài dạy chung cụ thể của chương trình.
Trang 6
Tuy biên soạn đã có sự đổi mới, thay đổi, chính lí, bổ sung nhưng cũng không
kém phần khó hiểu vì đã có sự cắt xén, giảm bớt nội dung kiến thức so với
chương trình hiện hành. Nếu giáo viên lên lớp mà không nghiên cứu kĩ tài liệu thì
khi giảng dạy nếu cứ rập khuôn theo câu hỏi của sách tài liệu hướng dẫn học đôi
khi sẽ gặp một số trở ngại trong dạy học. Bên cạnh đó trong những năm gần đây,
tình hình học sinh trong nhà trường có sự biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, với
tình trạng học sinh chây lười trong việc học các môn, trong đó có bộ môn Ngữ
văn sẽ ảnh hướng rất lớn đến chất lượng giờ dạy.
Bước vào đầu năm học tôi đã điều tra thu thập số liệu cụ thể về kết quả xếp loại
học lực môn tiếng Việt năm học 2014 – 2015 của học sinh lớp này năm lớp 5 như
sau:
Tổng số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
36
2
7
19
8
0
Sau khi vào đầu năm học 2015 – 2016 trong tháng đầu tiên của năm học, tôi đã
tiến hành khảo sát thực nghiệm kết quả học tập của học sinh về kiến thức phân
môn tiếng Việt thì tôi thu được kết quả như sau:
Tổng số học
sinh
Kết quả
Giỏi
36
Khá
Trung bình
Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2
5,6%
5
13,8
%
18
50%
11
30,6%
Như vậy với kết quả trên cùng với sựtheo dõi học sinh trong từng tiết dạy,
tôi nhận thấy khả năng tiếp thu bài của học sinh rất chậm, lớp học trầm, không
khí lớp học nặng nề, học sinh thụ động, ít phát biểu tham gia xây dựng bài, nhiều
em có vẻ chán nản không thích học, kĩ năng hoạt động nhóm không có…
Theo tôi thực trạng học sinh học tập thiếu tập trung như vậy đó là do những
nguyên nhân sau:
+ Học sinh chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, không chuẩn bị
bài mới, không hứng thú khi đến tiết học.
+ Giáo viên chưa có hệ thống những câu hỏi gợi mở, tích cực;chưa có những
phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh, từng tiết học cụ thể nhằm thu
hút, lôi cuốn học sinh. Ví thế, cần áp dụng phương pháp tích cực vào tiết học để
Trang 7
hoàn thiện vai trò “Thầy thiết kế, trò thi công” nhằm nâng cao chất lượng dạy và
học.
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Qua quá trình dạy học, quá trình dự giờ của đồng nghiệp trong trường và ở trường
bạn, quá trình đúc rút kinh nghiệm của bản thân, tôi nhận thấy:
Trong thực tế vẫn còn một số giáo viên chưa chú trọng đến khâu chuẩn bị bài
dạy hay nói cách khác đó là khâu thiết kế giáo án. Bởi tôi hiểu là theo sự chỉ đạo
của Bộ giáo dục trong dạy học chương trình VNEN, Bộ không yêu cầu giáo viên
phải soạn giáo án. Bởi vậy mà một số giáo viên chủ quan, họ có thể là không
nghiên cứu kĩ bài dạy nên khi lên lớp tổ chức tiết học cho học sinh có phần té
nhạt, lớp học rất trầm, không phát huy được sự chủ động, sáng tạo của học sinh.
Một số giáo viên rất lúng túng trong việc phối kết hợp các phương pháp dạy
học, đặc biệt làvẫn còn thói quen sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống:
giáo viên làm việc nhiều. Còn học sinh là người ghi nhớ, học thuộc lòng (học vẹt)
kiến thức đó rồi trả lời. Giờ học trở nên khô khan, trầm, thậm chí căng thẳng, học
sinh tham gia học bài một cách chiếu lệ. Rõ ràng điều đó dẫn đến chất lượng, hiệu
quả học tập của học sinh không cao. Và đó chưa phải là hình thức dạy học tích
cực của Mô hình trường học mới.
Còn một số giáo viên có vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực trong
dạy học nhưng còn mang tính hình thức cho nên hiệu quả chưa cao.
Ngoài ra, giáo viên chuẩn bị nội dung, hình thức bài dạy chưa thật kĩ. Đặc biệt
là giáo viên chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi phù hợp với nội dung bài dạy
để khắc sâu kiến thức, chưa linh hoạt trong đổi mới hình thức dạy học tích cực,
chưa chú ý tới việc chuẩn bị bài học của học sinh, chưa phân loại đối tượng học
sinh trong từng lớp. Từ đó mà giờ học tiếng Việt rất rời rạc, rất khô khan.Theo tôi
để cải thiện được nguyên nhân trên trong mỗi giờ dạy phân môn tiếng Việt trong
môn Ngữ văn giáo viên cần chú ý các vấn đề sau:
Một là, phải thay đổi hình thức dạy học tích cực thường xuyên để tránh sự
nhàm chán.
Hai là, không tạo áp lực trong giờ học cho học sinh mà phải tạo ra không khí
thoái mái để các em tự tin học tập.
Ba là, giáo viên đừng quá nghiêm khắc vì nếu giáo viên quá nghiêm khắc sẽ
không tạo được sự hưng phấn cho người học.
Trang 8
Bốn là, phải biết khơi dậy ở học sinh lòng say mê môn học bằng việc không
ngừng trau dồi chuyên môn, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới cách thức
kiểm tra, đánh giá.
Để làm được các vấn đề trên thì khi thiết kế giáo án giáo viên phải thực sự chú
ý khai thác nội dung bài dạy bằng việc xây dựng hệ thống câu hỏi và hình thức
dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, làm thâu tóm được kiến thức bài học.
Thông qua việc đổi mới phương pháp dạy học sẽ giúp người học hứng thú hơn,
chiếm lĩnh tri thức dễ dàng hơn từ đó sẽ có kết quả học tập cao hơn.
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a.
Mục tiêu của giải pháp, biện pháp:
-Tổ chức lớp học sinh động, tạo không khí thoải mái, nhẹ nhàng.
- Có những phương pháp phù hợp trong việc dạy học phân môn Tiếng Việt theo
hướng tích cực, phát triển các kĩ năng học môn Ngữ văn.
- Giáo viên củng cố kiến thức kịp thời cho học sinh, giúp các em năng động hơn,
có sự hứng thú hơn trong tiết học, chủ động lĩnh hội kiến thức từ đó kết quả học
tập sẽ được nâng cao.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
Để tiết dạy sinh động và giúp học sinh hứng thú với tiết học, giáo viên có thể
thực hiện áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào mỗi bài học. Tùy thuộc
vào những kĩ năng, kiến thức truyền đạt cho các em mà giáo viên sẽ chọn phương
pháp phù hợp, nhằm khảo sát được hiệu quả dạy của bản thân và chất lượng học
của các em học sinh.
Để việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực phát huy được tính cần thiết và
đạt hiệu quả cao, giáo viên cần đảm bảo những nội dung quan trọng sau.
b.1. Những việc cần chuẩn bị cho bài giảng:
- Sau mỗi tiết dạy, giáo viên phải nắm bắt được mức độ chiếm lĩnh tri thức của
từng học sinh (tức là những em đã hoàn thành bài học và những em chưa hoàn
thành bài) để từ đó giáo viên có những định hướng cụ thể khi xây dựng kế hoạch
bài dạy tiếp theo cho phù hợp với đối tượng học sinh.
- Với từng bài và từng nội dung truyền đạt mới, giáo viên chuẩn bị kĩ những việc
cần làm, xác định nội dung cần áp dụng phương pháp dạy học tích cực, xây dựng
được mức độ kiến thức cần phải nhớ cũng như kĩ năng mà học sinh có thể vận
dụng kiến thức.
Trang 9
- Giáo viên nên linh hoạt mở rộng nội dung kiến thức, không chỉ đề cập đến
những gì trong hướng dẫn học Ngữ văn mà còn liên hệ có hệ thống, khoa học
những nội dung khác, để các em có điều kiện tư duy, suy luận, giúp các em nắm
vững nội dung bài học. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, các
phương tiện nghe nhìn ngày càng hiện đại, có thể ứng dụng để phục vụ công tác
giảng dạy như tranh ảnh có màu sắc đẹp, hoặc những phương tiện điện tử tối tân
như băng tiếng, băng hình, phim, đèn chiếu.. .Với sự chuẩn bị như vậy giáo viên
mới có thể thực hiện bài trên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên,
cố vấn, trọng tài trong hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận của học sinh.
b. 2. Một số kinh nghiệm vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào dạy
phân môn tiếng Việt lớp 6 (VNEN) mà tôi đã thực hiện:
*Phương pháp 1:Kết hợp kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới thông qua hoạt
động khởi động:
Trong dạy Ngữ văn nói chung và dạy phân môn tiếng Việt nói riêng nếu giáo
viên sử dụng phương pháp kết hợp kiểm tra bài cũ, giới thiệu bài mới thông qua
hoạt động khởi động của bài học vừa tiết kiệm được thời gian, lại vừa tạo sự kết
nối trong bài giảng, vừa tạo sự hứng thú học tập cho học sinh.Vào bài đối với
phân môn tiếng Việt trong môn Ngữ văn chương trình VNENlà để học sinh cảm
thấy hứng thú với chủ đề sắp được học trong bài, đồng thời ôn lại kiến thức đã
được học liên quan đến bài mới hoặc để giáo viên tạo những nhu cầu giao tiếp
cần thiết cho các hoạt động của bài mới. Còn phần khởi động trong mỗi bài học
của chương trình VNen vô cùng quan trọng, nó có mục đích là chuẩn bị về tâm lí,
khơi dậy những kiến thức có sẵn cho học sinh có liên quan cần thiết cho bài học
mới, gây hứng thú cho bài học mới, tạo không khí dễ chịu giữa thầy và trò. Vì
vậy để làm được điều này, giáo viên cần linh hoạt sử dụng các thủ thuật khác
nhau như: Sử dụng tranh ảnh, vật thật thay cho tranh ảnh trong sách để gây hấp
dẫn, hát một bài hát, xem một đoạn video có liên quan đến bài mới hay chơi một
trò chơi nhỏ để khai thác các kiến thức có sẵn của học sinh và dẫn dắt vào bài
mới.
Ví dụ: Khi dạy bài “Hiện tượng chuyển nghĩa của từ” Sách hướng dẫn học Ngữ
văn 6, tập 1 (VNEN) GV có thể thực hiện như sau: Thực hiện hoạt động này
chung cho cả lớp.
Mời trưởng ban văn nghệ lên tổ chức cho lớp hát bài “Quả” (Nhạc và lời: Xanh
Xanh). Lớp hát xong, giáo viên đặt câu hỏi.
Trang 10
Em hãy tìm những câu hỏi và câu trả lời về các loài “quả” được nhắc đến trong
bài hát.
(Học sinh sẽ tìm được: - Quả gì mà chua chua thế? Xin thưa rằng quả khế.
- Quả gì mà da cưng cứng? Xin thưa rằng quả trứng.
- Quả gì mặc bao nhiêu áo? Xin thưa rằng quả pháo.
- Quả gì mà gai chin chít? Xin thưa rằng quả mít.
- Quả gì mà to to nhất? Xin thưa rằng quả đất)
Giáo viên hỏi tiếp:
- Trong các từ “quả” trên, từ “quả” nào là bộ phận của cây do bầu nhụy hoa
phát triển mà thành, bên trong có chứa hạt ? (HS: quả khế, quả mít)
Từ dùng để chỉ những vật có hình giống như quả cây ?(HS: quả trứng; quả
pháo, quả đất). Học sinh trả lời xong, giáo viên dẫn dắt:
- Vậy từ “quả” trong “quả khế”, “quả trứng”, “quả pháo”, “quả mít”, “quả
đất” từ nào được dùng theo nghĩa gốc, từ nào dùng theo nghĩa chuyển cô mời
các em tìm hiểu trong bài học hôm nay.
Bằng cách này, tôi đã gây được sự chú ý tập trung của học sinh, ôn lại được kiến
thức về nghĩa của từ đã học ở bài trước. Đồng thời còn tích hợp được với môn âm
nhạc, rèn kĩ năng hát tập thể, tạo không khí học tập vui vẻ và kết hợp dẫn dắt để
giới thiệu vào bài mới một cách hấp dẫn.
Phương pháp 2:Vận dụng câu hỏi tìm tòi(vấn đáp, phát hiện), câu hỏi nêu
vấn đề để tổ chức hoạt động hình thành kiến thức:
Trước hết giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình tài liệu hướng dẫn
học để xem bài dạy đó cần áp dụng các phương pháp dạy học tích cực như thế
nào để học sinh dễ tiếp thu kiến thức nhất. Giáo viên bám chắc vào mục tiêu bài
học và nội dung trọng tâm của bài để có thể xây dựng câu hỏi một cách lôgíc, hệ
thống. Chính hệ thống câu hỏi này sẽ có tác dụng phát huy được tính chủ động,
sáng tạo ở học sinh.Mọi đối tượng học sinh đều trả lời được.
Với Câu hỏi tìm tòi (vấn đáp phát hiện): Đây là loại câu hỏi trọng tâm
nhất trong một giờ học tiếng Việt. Để học sinh nắm bắt chính xác nội dung kiến
thức bài dạy, giáo viên phải đặt những câu hỏi khơi dậy tư duy ở các em. Cần tổ
chức việc trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa cô với cả lớp, giữa trò với trò,
thông qua đó các em nắm được tri thức mới do chính mình tìm tòi phát hiện. Hệ
Trang 11
thống câu hỏi được sắp đặt hợp lý nhằm phát hiện, đặt ra và giải quyết một vấn đề
xác định, buộc học sinh phải liên tục cố gắng, tìm tòi lời giải đáp. Trong vấn đáp
tìm tòi, hệ thống câu hỏi của người thầy giữ vai trò chỉ đạo, quyết định chất lượng
lĩnh hội của lớp học.Trật tự lôgic của các câu hỏi hướng dẫn học sinh từng bước
phát hiện ra bản chất của sự vật, quy luật của hiện tượng, kích thích tính tích cực
tìm tòi, sự ham muốn hiểu biết ở các em. Ở đây giáo viên là người tổ chức sự tìm
tòi còn học sinh là người tự lực phát hiện kiến thức mới, vì vậy kết thúc cuộc đàm
thoại học sinh có được niềm vui của sự khám phá, vừa nắm được kiến thức mới,
vừa nắm được cách thức đi tới kiến thức đó, trưởng thành thêm một bước về trình
độ tư duy. Cuối đoạn đàm thoại, giáo viên cần biết vận dụng các ý kiến của học
sinh để kết luận vấn đề đặt ra, dĩ nhiên là có bổ sung, chỉnh lí khi cần thiết. Làm
được như vậy, học sinh càng hứng thú, tự tin vì thấy trong kết luận của cô có phần
đóng góp ý kiến của mình. Để học sinh tìm tòi được kiến thức, rút ra được khái
niệm, có thể đưa ra câu hỏi và tổ chức như sau:
Ví dụ: Khi dạy phần kiến thức về“Phép so sánh” Ngữ văn 6 (VNEN) học kì
II.Để phát huy hết vai trò của hội đồng tự quản, giáo viên mời trưởng ban học tập
lên điều khiển hoạt động này trong vòng 5 phút. Trưởng ban học tập lên nhận
phiếu học tập,cho lớp hoạt động nhóm. Nội dung phiếu học tập là câu hỏi tìm tòi,
phát hiện như sau:
Đọc câu sau và trả lời câu hỏi:
“Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi đến trường cô giáo như mẹ hiền”
?Tìm những sự vật được so sánh trong câu trên. So sánh như vậy để làm gì?
Sau khi các nhóm thảo luận xong, trưởng ban học tập mời các nhóm trình bày kết
quả, đại diện các nhóm có thể tranh luận với nhau về cách trả lời của các nhóm.
Trưởng ban học tập lắng nghe, chốt ý và cuối cùng là giáo viên chốt lại kiến thức
cho các em.
(Sự vật được so sánh là mẹ và cô giáo. Mẹ so sánh với cô giáo vì giữa mẹ và cô
giáo có những nét tương đồng nhau (phẩm chất, tuổi tác …). So sánh như vậy để
tăng gợi cảm cho sự diễn đạt)
Từ các câu hỏi trên GV đã giúp học sinh rút ra được thế nào là phép so sánh và
hình thành được khái niệm so sánh: So sánh là đối chiếu sự vật, sự việc này với
Trang 12
sự vật, sự việc khác có nét tương đồng để làm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự
diến đạt.
* Câu hỏi nêu vấn đề: Câu hỏi nêu vấn đề có liên quan chặt chẽ đến vấn đề và
tình huống có vấn đề. Loại câu hỏi này phải làm rõ được vấn đề tiềm ẩn trong bài
dạy, phải gây hứng thú nhận thức cho học sinh và phải động viên, khuyến khích
học sinh giải quyết vấn đề đã nêu.
Ví dụ: Khi tổ chức cho học sinh tìm hiểu kiến thức về “Phép
ẩndụ”(Hướng dẫn học Ngữ văn 6 – tập II - VNEN), để học sinh rút ra được tác
dụng của phép ẩn dụ, giáo viên có thể hỏi: Trong câu thơ sau vì sao nhà thơ Minh
Huệ không gọi “Bác Hồ mái tóc bạc
Đốt lử cho anh nằm”
mà lại gọi
“Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm”
Rõ ràng đây là một câu hỏi có vấn đề, để trả lời được câu hỏi này buộc học sinh
phải suy nghĩ, tìm tòi, lập luận để giải quyết được vấn đề mà câu hỏi đặt ra. Việc
giải quyết được vấn đề tức là hình thành được kiến thức về tác dụng của phép tu
từ ẩn dụ.Tổ chức cho lớp hoạt động cặp đôi. Nhằm tạo không khí vui tươi, thi đua
học tập tốt thì giáo viên khích lệ học sinh bằng cách: Cặp đôi nào đưa ra được câu
trả lời nhanh và đúng nhất thì được tuyên dương, khen thưởng. (Với câu hỏi này
học sinh có thể trả lời: Không gọi
“Bác Hồ mái tóc bạc
Đốt lử cho anh nằm”
mà lại gọi
“Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm”
Gọi Bác Hồ là cha vì người cha và Bác Hồ có những phẩm chất giống nhau: tình
yêu thương, sự chăm sóc chu đáo, ân cầnđối với các con. Như vậyBác Hồ như là
người cha đầy lòng yêu thương đối với mọi người dân trên đất nước Việt Nam.
Đó là sự liên tưởng thú vị, cách diễn đạt mới lạ, hay nhất nhờ vào phép tu từ ẩn
dụ)
Trang 13
Hình ảnh giáo viên đang hướng dẫn các cặp đôi trả lời câu hỏi
Trang 14
Với cách khai thác triệt để dạng câu hỏi có vấn đề trong dạy tiếng Việt sẽ kích
thích được sự tư duy, sáng tạo của học sinh.
* Phương pháp 3: Tích hợp giáo dục qua bài học tiếng Việt bằng việc xem
videoclip để tạo hứng thú học tập cho học sinh:
Để việc lồng ghép tích hợp giáo dục qua tiết dạy tiếng Việt nhằm tạo không khí
nhẹ nhàng, sinh động, lôi cuốn học sinh thì giáo viên tự tạo video clíp hoặc sưu
tầm trên Internet những video clip có nội dung phù hợp với kiến thức bài dạy rồi
trình chiếu cho học sinh xem. Sau đó đặt câu hỏi.
Ví dụ: Khi dạy kiến thức về “Phép so sánh”trong chương trình Ngữ văn lớp
6(VNEN) ở phần củng cố bài, giáo viên trình chiếu cho học sinh xem bài hát “Ai
yêu bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên nhi đồng” sáng tác của nhạc sĩ Phong Nhã.
Câu hỏi: Theo dõi bài hát và tìm những câu sử dụng phép so sánh. Việc so sánh
như vậy có tác dụng gì?
Trang 15
Hình ảnh học sinh chăm chú xem video và tích cực trả lời câu hỏi
Sau khi nghe xong bài hát học sinh sẽ phát hiện ra những câu hát có sử dụng phép
so sánh là:
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu niên, nhi đồng.
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn thiếu nhi Việt Nam.
Việc tác giả sử dụng phép so sánh tác dụng: Khẳng định các em thiếu niên, nhi
đồng Việt Nam luôn luôn dành cho Bác Hồ một tình cảm yêu quý, sự kính trọng
và lòng biết ơn vô hạn mà không ai có thể sánh bằng.
Như vậy qua bài hát này giáo viên vừa củng cố cho học sinh kĩ năng phát hiện và
phân tích tác dụng của phép tu từ so sánh trong văn, thơ vừa giáo dục học sinh về
tình yêu, sự kính trọng Bác Hồcủa thiếu niên, nhi đồng Việt Nam.
Hoặc để tạo không khí học tập vui vẻ, để mở rộng kiến thức khác về phân môn
tiếng Việt giáo viên nên khai thác các video clíp trong chương trình “Sống đẹp”
của đài truyền hình Việt Nam để vừa mở rộng kiến thức vừa tích hợp giáo dục rất
có hiệu quả.
Trang 16
Rõ ràng là sau những phút xem clíp dù rất ngắn ngủi như thế nhưng giáo viên đã
củng cố được kiến thức cho học sinh, tích hợp giáo dục tốt lại vừa tạo tâm thế
thoải mái, nhẹ nhàng, vui vẻ để học sinh yêu mến môn học hơn.
* Phương pháp4: Tổ chức trò chơi xem hình ảnh để đặt câu nhanh.
- Cách thứ nhất:
Với cách này, giáo viên có thể tổ chức áp dụng cho nhiều kiến thức của các bài
dạy tiếng Việt có trong chương trình. Giáo viên phổ biến luật chơi: Cô sẽ cho các
em xem một số hình ảnh và sau đó chúng ta sẽ trả lời các câu hỏi phía dưới.
Nhóm nào có câu trả lời đúng, nhanh nhất sẽ được cộng thêm điểm thi đua.
Để tổ chức dạy theo phương pháp này giáo viên sưu tầm những hình ảnh phục
vụ tốt cho kiến thức cần khắc sâu, sau đó trình chiếu cho học sinh xem rồi đặt câu
hỏi. Ví dụ: Khi dạy kiến thức phần “Số từ, lượng từ” trong chương trình Ngữ
văn lớp 6(VNEN) để rèn học sinh đặt câu có số từ, lượng từ giáo viên cho các em
xem hình ảnh và đặt câu hỏi:
Nhìn những bức tranh sau và đặt câu văn miêu tả có sử dụng số từ và lượng từ?
HS trả lời:Những ruộng lúa bậc thang đẹp rực rỡ dưới ánh nắng bình minh.
Trang 17
Ba cô gái thanh niên xung phong đang san lấp mặt đường.
Các cô gái thanh niên xung phong đang san lấp mặt đường.
Những bông hoa cúc trắng đang khoe sắc dưới trời thu.
Trang 18
- Xem thêm -