A / PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Cơ sở lý luận :
M.Go-rơ-ki nhà văn vĩ đại của nền văn học thế giới đã
từng nói:“Văn học là nhân học”, ''Văn học giúp con người hiểu được bản thân
mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát
vọng hướng tới chân lí". Đúng như vậy! Văn học nói chung hay môn Ngữ văn
nói riêng có tác động vô cùng to lớn đối với đời sống tình cảm cũng như việc
phát triển tư duy của con người; giúp giáo dục, bồi đắp tư tưởng, tình cảm, đạo
đức… cho học sinh một cách hiệu quả nhất. Không chỉ vậy, môn Ngữ văn còn
có mối liên hệ tương hỗ với các môn học khác. Học tốt môn văn sẽ tác động tích
cực tới các môn học khác và ngược lại các môn học khác cũng góp phần học
tốt môn văn. Trong mối quan hệ tích cực đó, từ Hán – Việt đóng một vai trò
không thể phủ nhận được hay nói một cách khác là nó có vai trò vô cùng to lớn.
Nhờ sự đóng góp của từ Hán – Việt mà tiếng Việt thêm giàu có, tinh tế, trang
nhã, chuẩn xác và uyển chuyển, đủ khả năng đáp ứng một cách tốt nhất mọi sự
diễn đạt của con người trong giao tiếp, trong đời sống văn hoá xã hội. Bên
cạnh đó, lớp từ này còn giúp người Việt cảm nhận được tất cả cái hay cái đẹp
trong những tác phẩm văn chương với việc hiểu tường tận từng từ Hán - Việt ở
trong những tác phẩm đó.
II. Cơ sở thực tiễn :
Trong kho tàng ngôn ngữ của mình, người Việt sử dụng rất
nhiều từ ngữ gốc Hán (từ Hán - Việt chiếm 60% - 70%) nhưng việc hiểu sai,
dùng sai từ Hán - Việt là khá phổ biến. Trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta
gặp rất nhiều từ Hán – Việt nếu chúng ta không hiểu hoặc hiểu sai sẽ dẫn đến
nhiều vấn đề đáng tiếc xảy ra. Giáo sư Nguyễn Lân( cha của 9 vị giáo sư, tiến
sĩ) đã từng nói "Một điều cần chú ý hơn nữa là ngay trong tiếng Việt hiện nay
có bao nhiêu từ vốn là Hán tự bị người ta xuyên tạc, làm sai cả ý nghĩa, ảnh
hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt... phải làm thế nào cho thanh thiếu
niên ta phải biết chữ Hán thì mới dùng đúng tiếng Việt” ( đăng trên báo Đại
đoàn kết, số 28, ngày 7/4/1997) . Từ Hán - Việt không chỉ có trong môn ngữ văn
1
mà còn có trong tất cả các môn học khác. Không hiểu từ Hán Việt học sinh sẽ
gặp khó khăn trong khâu phân biệt các khái niệm, ghi nhớ khái niệm, hiểu nghĩa
của từ, hiểu nội dung bài học... Nếu biết nhiều từ Hán – Việt học sinh sẽ hiểu
kiến thức bộ môn nhanh hơn, kĩ hơn do hiểu được đến “chân tơ kẽ tóc” những
từ ngữ Hán - Việt ấy.
Ở chương trình giảng dạy môn ngữ văn THCS số lượng các tác
phẩm học nguyên tác viết bằng chữ Hán tương đối nhiều, chưa kể ở cấp THPT.
Trong quá trình dạy và học, giáo viên và học sinh phải đối chiếu với bản phiên
âm, bản dịch nghĩa và dịch thơ... Nếu cả thầy và trò biết nhiều từ Hán – Việt thì
việc học, tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp sẽ trở nên dễ dàng và toàn vẹn
hơn. Đối với từ Hán – Việt, người biên soạn sách giáo khoa chương trình ngữ
văn THCS đã chú ý tới. Cụ thể, ở cuối SGK học kì 2 các lớp 6,7,8 đều có bảng
“phụ lục tra yếu tố Hán Việt” gồm 50 từ ở mỗi lớp, riêng lớp 9 là 70 từ (tổng
cộng 220 từ ) và trong chuẩn kiến thức kĩ năng có ghi rất rõ : “Biết nghĩa 50 yếu
tố Hán – Việt thông dụng xuất hiện nhiều trong các văn bản học ở lớp…” nhưng
qua tìm hiểu thì giáo viên giảng dạy môn ngữ văn hầu như quên không giúp
học sinh đạt được yêu cầu này. Chính vì vậy, phần lớn học sinh không hiểu
tường tận nghĩa của từ Hán - Việt. Đối với học sinh trong trường Phổ thông thì
việc trang bị cho các em kiến thức cơ bản về từ Hán – Việt sẽ giúp các em tự
hiểu đúng nghĩa của từ ở trong các tác phẩm văn học, rèn rũa lời ăn tiếng nói,
học cách sử dụng từ của cha ông………để từ đó cảm thụ được vẻ đẹp của
“những viên ngọc quí” trong văn chương một cách sâu sắc, bồi dưỡng cho học
sinh lòng yêu mến tiếng nói của dân tộc, vốn văn hoá của ông cha.
Từ nhiều năm nay, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì
mục tiêu “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” kể từ khi cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng phát động công cuộc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” (Tạp chí
Học tập, s. 4-1966) vì đó là “thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu
của dân tộc” ( Hồ Chủ tịch). Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang trên đà phát
triển, sự hội nhập và giao thoa với các nền văn hóa ngày càng trở lên đậm nét.
Việc vừa phải giữ gìn bản sắc dân tộc và vừa phải có vốn kiến thức căn bản để
2
tiếp nhận những tinh hoa văn hóa của thế giới càng khiến chúng ta không thể
không khai thác tinh hoa văn hóa của chính dân tộc mình qua các văn bản chữ
Hán của cha ông ta để lại. Trước hết, nó có thể giúp cho học sinh hiểu và sử
dụng đúng lớp từ này, cảm thụ được những nét tinh tế, cái hay, cái đẹp trong
các tác phẩm văn học cổ điển được giảng dạy trong chương trình Phổ thông.
Công việc này cũng đồng thời bồi dưỡng cho học sinh tình yêu mến tiếng nói
của cha ông, niềm tự hào về truyền thống văn hóa, cũng như tinh thần trách
nhiệm trong việc “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
“Ngôn ngữ là linh hồn dân tộc”. Câu nói của W. Humboldt càng cho ta
thấy được tầm quan trọng của việc bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng cuả tiếng Việt.
Đây là một việc tương đối khó khăn nhưng giáo viên phải làm và làm được. Là
một giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn Trung học cơ sở tại trường PTCS
Bãi Thơm, tôi hiểu rất rõ giá trị của việc dạy và học từ Hán – Việt trong trường
THCS. Chính vì những trăn trở nhức nhối đó tôi đã suy nghĩ, tìm tòi, nghiên
cứu tài liệu…để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm :
“MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC DẠY TỪ HÁN – VIỆT TRONG TRƯỜNG THCS”
III . Phạm vi đề tài :
Việc giảng dạy từ Hán – Việt là rất cần thiết nên tôi thực hiện đề
tài này trong phạm vi chương trình Ngữ văn THCS là một phạm vi tương đối
rộng. Tuy nhiên, đề tài tôi thực hiện chỉ mang tính chất điểm xuyết, “cưỡi ngựa
xem hoa” với đối tượng là học sinh điểm Rạch Tràm nơi vùng xa của huyện đảo
( Nơi học sinh chưa ý thức được việc học, chưa có điều kiện đầy đủ, ….)
B / THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ :
I.Thực trạng, tình hình :
Như tôi đã trình bày ở trên, qua tìm hiểu thì hầu như giáo viên quên
dạy các em học sinh 220 từ Hán –Việt mà chuẩn kiến thức quy định, giáo viên
chưa thấy hết được tầm quan trọng của từ Hán –Việt đối với việc dạy và học
môn ngữ văn. Học sinh thì chưa có hứng thú đối với từ Hán –Việt, coi từ Hán –
Việt như một “ngoại ngữ”… II.Những hạn chế, khó khăn :
Ngay từ những năm đầu công tác tôi đã nhận thấy thực trạng trên
song nhận được sự giúp đỡ chưa nhiều . Thứ hai là do năng lực trình độ còn
3
nhiều hạn chế nên việc truyền đạt kiến thức còn chưa tốt. Thứ ba, do điều kiện
kinh tế, dân trí tại điểm Rạch Tràm cón thấp, học sinh chưa chăm học, phụ
huynh chưa quan tâm, sách thì thiếu… Khi kiểm tra thử một số từ Hán – Việt
thông dụng ở 2 lớp 8/3 và 9/3 đầu năm học 2011-2012 kết quả như sau :
Điể Điểm 8-10
SL
%
m
Lớp
Lớp 8 (7 HS)
Lớp 9 (6 HS)
0
0
Điểm 5 - 7
SL
%
0
0
1
1
Điểm dưới 5
SL
%
14,28
16,67
6
5
85,72
83,33
Trước thực trạng và những khó khăn trên tôi xin mạnh
dạn đưa ra một số giải pháp như sau :
C . GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ
I / TẠO HỨNG THÚ, TRUYỀN CẢM HỨNG TRONG VIỆC DẠY HỌC TỪ
HÁN VIỆT :
“ Người Thầy trung bình chỉ biết nói.
Người Thầy giỏi biết giải thích.
Người Thầy xuất chúng biết minh họa.
Người Thầy vĩ đại biết truyền cảm hứng.” (William A.
Ward)
1. Ý nghĩa từ những cái tên :
Khi dạy học, chúng ta cho học sinh tìm hiểu ý nghĩa những cái tên
của chính bản thân các em mà các em vô tình không hay biết. Hãy nói cho các
em hiểu mỗi cái tên của các em mang biết bao mơ ước, niềm tin, hoài bão, tình
cảm của ông bà, cha mẹ .........dành cho các em .Ví dụ :
Tên Khôi Nguyên là mong muốn con mình sau này đỗ đạt, học giỏi,đỗ đầu
các kỳ thi.
Tên Đan Tâm: tấm lòng son sắt, thủy chung , tình nghĩa.
Tên Hà Anh có nghĩa dòng sông tinh tuý, trong sáng.
Tên Vân Du (rong chơi như mây) con sau này sẽ có cuộc sống thảnh thơi, nhàn
4
hạ...
Tên Bảo Châu với ý nghĩa con là viên ngọc quý.
Tên Gia Bảo với ý nghĩa vật quý của gia đình . …v.v……
Nói chung cách nói chuyện về tên của chính học sinh sẽ gây hứng
thú, sự tò mò, ham hiểu biết của các em về từ Hán – Việt. Qua đó các em vô
tình đã có kiến thức về từ Hán – Việt đặc biệt kích thích hứng thú, sự tự học
của học sinh . Có thể lấy ví dụ về những cái tên mà các bậc tiền nhân đã mang
như :
Nguyễn Ái Quốc: Người yêu nước.
Võ Chí Công : Người hết lòng hết sức vì việc công không vì việc riêng …v.v..
Khi chúng ta dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường ta có thể cho học sinh
tìm hiểu tên hay bút danh của các nhà văn nhà thơ. Ví dụ :
Học văn bản “Cố Hương” ta có thể cho học sinh tìm hiểu về
quá trình Lỗ Tấn trở thành nhà văn, mục đích khi ông chuyển từ những ngành kĩ
thuật, y khoa… sang viết văn .Từ đó hỏi học sinh ý nghĩa cái tên Chu Thụ
Nhân(Chu Chương Thọ đổi thành Chu Thụ Nhân). Thụ Nhân có nghĩa là trồng
người từ đó nói sâu hơn về mục đích viết văn, cống hiến của Lỗ Tấn trong văn
nghiệp “thụ nhân” bằng văn chương của ông. Cũng cần nói thêm rằng trước
công nguyên bảy thế kỉ, nhà chính trị Trung Quốc thời Tiền Tần là Quản Trọng
(730 – 645 TCN) đã nói trong sách Quản tử của ông như sau :
“Trù tính việc một năm hãy có kế trồng lúa
Trù tính việc mười năm hãy có kế trồng cây
Trù tính việc trăm năm hãy có kế trồng người”
( Nhất niên chi kế mạc nhi thụ cốc
Thập niên chi kế mạc nhi thụ mộc
Bách niên chi kế mạc nhi thụ nhân)
Bác Hồ của chúng ta đã học hỏi tư tưởng này chuyển tải vào trong bài nói
chuyện với “Hội nghị cán bộ giáo dục toàn quốc” ngày 13/9/1958 :
“ Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”.
5
Khi dạy tác phẩm : “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho học
sinh tìm hiểu tên nhà văn đồng thời cung cấp cho học sinh câu nói của ông về
nhà văn, nghể văn : “ Nhà văn phải là người đi tìm hạt ngọc ẩn dấu sâu trong
lòng mỗi con người”. Minh Châu là “viên ngọc sáng” và cả cuộc đời ông là cuộc
đời của con người mải miết đi tìm những “viên ngọc sáng” trong lòng mỗi con
người. Đúng là tên nào, người ấy .v.v……
2. Đi tìm vẻ đẹp của từ Hán – Việt :
2.1.Vẻ đẹp từ lối chiết tự, câu đố từ Hán – Việt :
Giáo viên hãy cho học sinh thấy được vẻ đẹp của từ Hán – Việt qua
việc lồng ghép vào các bài giảng của mình . Ví dụ khi dạy bài : “ Trưởng giả học
làm sang” lớp 8 thì cho học sinh tìm hiểu từ “Kịch”, thể loại “Kịch”. Kịch là thể
loại xây dựng nhiều mâu thuẫn, xung đột và giải quyết những mâu thuẫn,
xung đột đó. Để giúp học sinh lĩnh hội nhanh ý này, giáo viên có thể vận dụng
việc chiết tự chữ “Kịch” để minh họa cụ thể như sau:
“KỊCH (
劇
) được kết lại từ ba bộ chữ
劇 đao (con dao)
劇 hô (vằn con hổ) + 劇 thỉ (con lợn) +
ba bộ chữ có hàm ý đối kháng nhau mạnh mẽ, bức bối. Người
xưa khi viết chữ KỊCH
劇
đã mặc nhiên công nhận thể loại này hàm chứa nhiều
mâu thuẫn, đối kháng...”. Giảng dạy như vậy là một cách gắn liền chữ với
nghĩa.
Trong bài “Tục ngữ về con người và xã hội”(Ngữ văn 7 tập 2
trang 12) khi dạy đến câu câu tục ngữ 9:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”
có thể học sinh sẽ hỏi : “ Thưa thầy(cô) cây là cây, núi là núi. Cây đứng cạnh
cây, nhiều cây thì thành rừng chứ tại sao lại thành núi được ạ ?” . Lúc đó giáo
viên sẽ trả lời như thế nào nếu không có vốn kiến thức về từ Hán – Việt nhất
định ? Trong Hán tự nét ngang (
sổ (
) được dùng tượng trưng cho mặt đất, nét
) tượng trưng cho cây. Nếu ba cây (3 nét sổ) trồng trên mặt đất ( nét
ngang ) thì tạo thành chữ “Sơn” (劇) có nghĩa là núi. Đúng là :
“Một cây làm chẳng nên non
6
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao”
Giảng như vậy rõ ràng là ngoài việc học sinh hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ
học sinh còn hiểu được cái tài tình, thâm thúy của cha ông trong việc dùng chữ,
thấy được sự thú vị trong giờ học .
Những câu đố hay (chiết tự) cũng góp phần tạo hứng thú
cho học sinh không chỉ trong bài dạy mà còn cho học sinh thấy được cái hay của
từ Hán – Việt, dĩ nhiên học sinh không trả lời được câu đố song mục đích chính
là cho các em thấy được cái hay của chữ Hán, của từ Hán – Việt. Ví dụ khi dạy
bài “Chơi chữ” giáo viên có thể mở rộng cách chơi chữ bằng lối chiết tự qua
một số câu đố :
Câu đố :
“Cô kia đội nón chờ ai
Hay cô yên phận đứng hoài thế cô.”
( Đố là chữ gì ?)
“Cô kia” là chữ “Nữ” (劇)ở dưới, đội nón là trên có chữ “Miên”( lợp trùm nhà
ngoài với nhà trong, mái nhà) tạo thành chữ An 劇( yên ổn ) .Ý nghĩa : Trong
nhà có người phụ nữ tạo nên sự bình yên.
Câu đố :
“Thiếp là con gái còn son,
Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề.”
( Đố là chữ gì ?)
“Con gái còn son” chính là chữ Nữ(劇) đứng bên trái, “con dựa kề” chính là chữ
Tử đứng bên trái tạo thành chữ Hảo 劇 (nghĩa là tốt).
Khi dạy các văn bản của tác gia Hồ Chí Minh ta có thể đưa
thêm vào trong bài học một số ví dụ sau để bài học thêm sinh động.
Trong kho tàng ca dao Nghệ Tĩnh có một bài ca dao hiện đại đã
được tác giả dân sử dụng hết sức độc đáo :
“Trăng xưa rọi tỏ lòng người
Treo gương nhật nguyệt cho đời soi chung”.
7
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu từ Hán – Việt theo chiều ngược lại, dịch từ
thuần Việt sang từ Hán : Trăng từ Hán là gì ? Xưa từ Hán là gì ? Từ đó rút ra từ
trăng xưa. Tương tự các từ lòng , nhật , nguyệt….
Trăng xưa dịch từ chữ Cổ Nguyệt[劇劇], Cổ và Nguyệt ghép lại thành chữ Hồ [劇].
Lòng người là thầm nói đến chữ Sĩ [劇] và Tâm [劇], ghép lại hai chữ này lại ta
có chữ Chí [劇]; còn chữ Nhật [劇] và chữ Nguyệt [劇] ghép lại thành chữ Minh
[劇]. Vậy ba chữ chiết tự từ câu ca dao ra là Hồ Chí Minh [劇 劇 劇]. Bài ca dao
thể hiện tình cảm tôn kính mến yêu của nhân dân đối với vị cha già của dân tộc.
Thật là tinh diệu ,thật là tài hoa!
Hay bài thơ “Chiết tự” của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là một bài thơ
giúp học sinh hiểu rõ vẻ đẹp của từ Hán – Việt :
“ Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc
Hoạn quá đầu thời thủy kiến trung
Nhân hữu ưu sầu,ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long”
Giải thích bài thơ như sau: Chữ Tù ( 囚 ) bỏ chữ Nhân ( 囚 ), cho chữ Hoặc
(囚)vào, thành chữ Quốc (囚). Chữ Hoạn (囚) bớt phần trên đi thành chữ Trung
囚. Chữ Nhân (囚) có thêm chữ Ưu (囚) trong ưu lo, thành chữ Ưu (囚) trong ưu
điểm, người biết lo là người có ưu điểm. Chữ Lung( 劇) bỏ (khai trúc) chữ trúc
(囚) (2 chữ trúc trên)thành chữ Long 劇
Dịch thơ :
(Người thoát khỏi tù ra dựng nước
Qua cơn hoạn nạn rõ người ngay
Người biết lo âu, ưu điểm lớn
Nhà lao mở cửa, ắt ra rồng)
2.2.Cách sử dụng, lựa chọn từ :
Trong việc dùng từ thì tiếng Việt có rất nhiều sự lựa chọn, nhưng chọn từ như
thế nào để diễn đạt một cách sâu sắc, trọn ven nhất thì cần phải hiểu cặn kẽ
từng từ ngữ .
Khi dạy bài: “Trau dồi vốn từ” lớp 9 giáo viên có thể phân tích hai tử
“Cảm tử” và “Quyết tử” trong câu chuyện về trung đoàn Thủ đô. Tết Đinh
8
Hợi 1947, Bác Hồ đã viết thư khen ngợi Trung đoàn Thủ đô với câu nói nổi
tiếng: "…Các em quyết tử để Tổ quốc quyết sinh". Để ghi dấu sự kiện quan
trọng này, năm 1984, tượng đài "Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh " đã được dựng
bên cạnh đền Bà Kiệu, hồ Hoàn Kiếm. Các cụ từng là chiến sĩ của Trung đoàn
Thủ đô quả quyết rằng, họ chưa bao giờ thề là cảm tử mà chỉ thề quyết tử mà
thôi. Sắc thái biểu cảm của chữ “Quyết” mạnh mẽ hơn chữ “Cảm”. Nghĩa ban
đầu của chữ “Quyết” là vỡ đê. Mà thế nước vỡ đê thường tạo ra cơn hồng
thuỷ, vốn được xếp hàng đầu trong bốn đại họa: thuỷ, hoả, đạo, tặc. Ngày
24/10/2004, tượng đài "Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" được dựng tại vườn
hoa Hàng Đậu để kỷ niệm nghìn năm Thăng Long - Hà Nội. Qua việc phân tích
từ ngữ như trên học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn nghĩa của từ “Cảm” từ “Quyết”
và đặc biệt có ý thức trong việc lựa chọn từ ngữ trong viết và nói. Một ví dụ
khác cũng sẽ giúp học sinh thích thú khi tìm hiểu cặn kẽ nó như từ “Khoái trá”
chúng ta vẫn hay viết như thế, vẫn hiểu là vui vẻ, vừa ý , thích thú. Khoái thì
đúng là vui vẻ, thích thú rồi nhưng Trá là giả dối . Tra quyển “ Hán – Việt từ
điển” của Đào Duy Anh thì từ Chá ( chứ không phải từ Trá) có nghĩa là miếng
thịt, miếng chả , là đồ ăn ngon” (trang 461) như vậy viết Khoái Chá mới đúng.
Khi dạy bài : “Sông nước Cà Mau” trong chương trình Ngữ văn lớp 6
ta có thể cho học sinh tìm hiểu về rừng U Minh, giáo viên hỏi tại sao khu rừng
đó lại có tên là U Minh ? U là gì ? Minh là gì ?..v.v……U là vắng vẻ yên lặng, tối
tăm. Minh thì học sinh sẽ biết nghĩa là sáng nhưng thực ra nghĩa từ Minh có
nhiều nghĩa .
Minh 1 : Sáng trái với tối
như bình minh, thông minh….
Rõ ràng
như xác minh, minh bạch……….
Minh 2 : Thề
như thệ hải minh sơn…….
Liên kết
như đồng minh, liên minh……..
Minh 3 : Tối tăm
như u minh ………..
Minh 4 : Kêu, bày tỏ
như minh oan, cộng minh………
Và từ Minh(劇) trong U Minh có nghĩa là tối tăm. Với hai từ cùng có
nghĩa tối tăm thì học sinh hiểu được đặc tính của khu rừng này một cách cụ thể
9
qua đó học sinh cũng có được kiến thức liên môn khi học Vật lí, Địa lí, Lịch sử
……….với những khái niệm, thuật ngữ : “quân đội đồng minh”, “ Rừng U Minh”,
“Minh oan”, “Quang minh chính đại” ………….
Khi dạy bài: “Từ đồng nghĩa” trong sách Ngữ văn 7 khi cho học
sinh tìm những từ cùng nghĩa là chết giáo viên có thể giải thích từ “ Quy tiên”
cho học sinh, “ Quy tiên” nghĩa là chết. “Quy” là về, nhưng tiên nghĩa là gì?
Có người cho rằng “ tiên” là “trước” rồi tưởng đến từ ghép “ tổ tiên” và cho
rằng “quy tiên” là về với tổ tiên. Như vậy một em bé chết cũng có nghĩa là
“quy tiên” sao ? Thực ra “tiên” trong quy tiên là “ người ở trên núi”. Vậy
“quy tiên” là “về cõi tiên”. Chính vì vậy người ta dùng từ này để nói đến cái
chết nhẹ nhàng, thanh thoát của những cụ ông, cụ bà đã có tuổi thọ. Từ đó học
sinh nhận ra rõ nét hơn sự khác nhau về sắc thái của từ đồng nghĩa, và từ đó
cũng có thêm kiến thức về từ Hán – Việt.
Giáo viên có thể phân tích giúp học sinh phân biệt các mà chúng ta hay
sử dụng lẫn lộn, không đúng khi dạy các bài “Trau dồi vốn từ” trong chương
trình ngữ văn 9, “Chuẩn mực sử dụng từ” trong chương trình Ngữ văn 7………..
như :
JDu côn
-
Du đãng Ò đều chỉ người không có nghề
nghiệp làm ăn, sinh sống lương thiện, chỉ biết ăn chơi, quậy phá bằng những
hành động phi pháp.
+ Côn Ò là cái gậy, tượng trưng cho sức mạnh thô bạo.
+ Đãng Ò là sống phóng túng, không theo khuôn phép.
“Du đãng” Ò là dân sống vỉa hè , sống lang thang, không chịu sự quản lí
của chính quyền địa phương và công an khu vực. Như vậy tên “ Du đãng” có
hành vi quậy phá như thằng “Du côn”, nhưng “Du đãng” không có hành vi côn
đồ như “Du côn”.
J Thường xuyên – Thường trực:
“Xuyên” nghĩa là dòng sông trôi chảy không ngừng, còn “ Trực” là
ở yên một chỗ để làm việc gì đó. Vậy cái gì thường có mặt mà ở trạng thái động
10
ta gọi là “Thường xuyên”. Còn cái gì có mặt mà ở trạng thái tĩnh ta gọi là “
Thường trực”.
J Cô độc và cô đơn :
“Cô độc” là chỉ có một mình, tách khỏi mọi liên hệ chung quanh . “Cô đơn”
là chỉ một mình, không có đôi, không biết nương tự vào đâu. Như vậy “cô độc”
và “cô đơn” đều có ngĩa chung là một mình, nhưng “một” trong “cô độc” là
chủ động, tự tại; còn “một” trong “cô đơn” lại cần đến một cái gì khác để được
là hai.
J Công nhân và nhân công :
“Công nhân” là người lao động
“Nhân công” là sức lao động của người. ( theo từ điển Hán Việt)
J Cực hình và nhục hình :
“ Hình” là sự trừng phạt người có tội. “Cực” ở đây có thể hiểu là quá
chừng quá mức.“Cực hình” là hình phạt nặng nhất, nặng hơn cả tử hình nói
chung, vì “cực hình” làm cho tội nhân chết một cách đau đớn. Để trừng phạt kẻ
giám chống lại quyền uy của triều đình, vua chúa ngày xưa dùng các cực hình
như lăng trí ( bắt chết chậm bằng cách cắt từng phần của cơ thể con người), tứ
mã phanh thây (cho bốn ngựa xé xác).“Nhục” là thịt, “nhục hình” là hình phạt
làm tội nhân đau đớn về thể xác.
của con người, gần giống nhược điểm, khuyết điểm
J Trạm xá – bệnh xá, y xá, trạm y tế :
Từ trạm xá: Hai tiếng này cùng nghĩa là nhà nhưng nhiều nơi
dùng từ trạm xá để chỉ nơi khám và chữa bệnh, tức là dùng thay cho từ trạm
y tế, y xá hay bệnh xá . Như vậy nơi khám chữa bệnh phải gọi là trạm y tế, y
xá hay bệnh xá.
J Mại – Mãi :
Những từ như khuyến mãi, khuyến mại, gái mại dâm, gái mãi
dâm hay bị sử dụng lầm lẫn . Mại là bán, Mãi là mua khác nhau rõ ràng. Gái
bán hoa phải gọi là gái mại dâm chứ không thể là gái mãi dâm được .
J Mạn và Mãn :
11
“Mãn” là tràn đầy, “mạn” là chậm. Nói “Mãn tính” (Vd: Viêm xoang là
một bệnh mãn tính là không đúng). Cần nói những bệnh phát triển chậm, lâu là
bệnh “mạn tính”.…v.v…………
Giáo viên cũng có thể chỉ cho học sinh lỗi dùng thừa từ mà chúng ta
hay gặp như : đường quốc lộ (lộ: đường), cây cổ thụ (thụ: cây), bà quả phụ
(phụ: bà), ngày sinh nhật (nhật: ngày)…..v.v ………. Như vậy, chúng ta thấy nhà
trường có vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
và mỗi người giáo viên phải có nhiệm vụ góp sức nhỏ bé của mình vào việc giữ
gìn sự trong sáng đó.
3. Kể chuyện :
Kể chuyện là một phương pháp giảng dạy gắn lí
thuyết với thực tiễn. Kể chuyện không chỉ giúp cung cấp kiến thức, mở ra một
chân trời mới cho học sinh mà còn giúp tạo hứng thú cho học sinh trong các giờ
học.
Với bài “Chơi chữ” trong sách Ngữ văn 7 giáo viên có thể vào
bài bằng câu chuyện “Đại điểm quần thần”. Cụ thể : năm 1934, quận Tâm
( Nguyễn Văn Tâm) được thăng ngạch Đốc phủ sứ. Ngày khai bằng khánh hạ,
mấy trăm người đến dự và tặng rất nhiều quà cáp. Bấy giờ ở Long Tiên có ông
Nguyễn Thiện Tiên, tục gọi là Hương Nghị Sảnh, nguyên là con trai cụ Nguyễn
Minh Triết, người của phong trào Minh Tân. Ông Nghị vốn là người học giỏi và
cương nghị, tuy chỉ làm chức vụ nhỏ trong Ban hội hương nhưng cũng bị buộc
phải đi dự lễ khai bằng. Ông bèn thuê thợ làm một tấm hoành phi sơn son thếp
vàng, chạm khắc bốn chữ “Đại điểm quần thần”, hàm ý khen tặng, trong số bầy
tôi của mẫu quốc, quan Đốc phủ làm điểm nổi bật nhất, to nhất.
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu tử Hán – Việt : Đại nghĩa là gì? Điểm nghĩa là
gì? Quần thần nghĩa là gì? Từ đó giải thích ý nghĩa câu chuyện. Đại nghĩa là to,
lớn. Điểm nghĩa là chấm. Quần thần là bề tôi, miền Nam là bầy tôi(Quận Tâm ở
Tây Ninh). Câu chuyện tiếp theo như sau:
Ít lâu sau mới có người phát hiện đây chỉ là câu chơi chữ, nói lái:
- Đại điểm là chấm to, lái lại là chó Tâm.
12
- Quần thần là bầy tôi, nói lái là bồi Tây.
Quận Tâm tức cành hông, nhưng tác giả thì đã cao chạy xa bay.
Như vậy, học sinh ngoài hiểu, thích thú với nghệ thuật chơi chữ
còn thấy được cái hay của từ Hán – Việt.
Còn với bài : "Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” trong chương
trình Ngữ văn 7 ta có thể kể một câu chuyện làm sáng tỏ truyền thống, tinh
thần yêu nước của nhân dân ta như chuyện về vị sứ thần “Bất Nhục Quân
Mệnh” Giang Văn Minh.
Giang Văn Minh (1582 – 1639) tự Quốc Hoa, hiệu Văn Chung, người làng Mông
Phụ (tên nôm là Kẻ Mía), xã Đường Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Lộc, tỉnh
Sơn Tây (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây nay là Hà Nội).
Ông đỗ đầu thi Hội (Hội nguyên) rồi thi Đình đỗ Đình nguyên Thám hoa (không
có Trạng nguyên, Bảng nhãn) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628)
đời Lê Thần Tông. Làm quan đã từng trải qua các chức: Binh khoa đô cấp sự
trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631). Năm Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hoà
năm thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được cử làm
chánh sứ cùng với bốn phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình
và Thân Khuê dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh.
Lúc này mặc dù nhà Mạc đã chạy đi Cao Bằng nhưng nhà Minh vẫn áp dụng
chính sách ngoại giao hai mặt (với cả Lê và Mạc) và vẫn ngầm mong cho cuộc
nội chiến Lê - Mạc kéo dài, nên sau khi sang đến Yên Kinh, sứ bộ ta phải ăn
chực nằm chờ ở dịch xá gần một năm trời. Đến khi triều kiến, Minh Tự Tông lấy
lý do “Vì lệ cũ không có những quy định cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong
khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để tưởng lệ” và – để thị uy – Minh Tự Tông
đã ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế đối:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Nhắc việc Mã Viện đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho
chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột
13
đồng gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong). Không chút do dự, Giang
Văn Minh đối ngay:
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Vế đối vừa chỉnh, vừa nhắc lại việc các triều đình phong kiến phương
Bắc trong quá khứ đã ba lần bị quân dân Đại Việt đánh cho đại bại trên sông
Bạch Đằng. Đó là: Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán (938), Lê Hoàn phá
Tống (981) và Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên Mông lần thứ ba – 1288).
Trước đông đảo văn võ bá quan của Thiên triều và sứ bộ các nước, việc làm của
Giang Văn Minh quả là ngang với tát vào mặt vua Minh Tự Tông. Bất chấp luật
lệ bang giao, Minh Tự Tông đã hèn hạ thét bọn đao phủ trói ông lại, gắn trám
đường vào miệng và mắt rồi cho người mổ bụng xem “ sứ thần An Nam to gan
lớn mật đến đâu”! Hôm đó nhằm ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639).
Tính ra, ông mới 58 tuổi. Hòng uy hiếp vua, dân Đại Việt, sau đó Minh Tự Tông
còn cho ướp xác ông bằng bột thuỷ ngân và cho sứ bộ ta đem thi hài ông về
nước. Khởi hành từ tháng Chạp năm Đinh Sửu (1637) đến cuối mùa thu năm Kỷ
Mão (1639), phái bộ ta mới đặt chân về đến cửa quan. Như vậy, chuyến đi sứ
lần này tính ra kéo dài gần hai năm. Thi hài Giang Văn Minh được quàn tại Đồng
Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm (quê ông). Vua Lê Thần
Tông đã cho cử hành lễ quốc tang và đích thân viết bài văn tế .
Với khí phách của một sứ thần “ Đi sứ không để nhục mệnh vua ”,
Giang Văn Minh đã đựơc vua Lê Thần Tông truy tặng chức: Công bộ Tả thị lang,
tước Vinh Quận công.
Rõ ràng câu chuyện không chỉ là dẫn chứng hết sức sinh động cho
bài học mà còn là cơ hội cung cấp, phát triển kĩ năng học từ Hán – Việt của học
sinh bằng cách hỏi học sinh những từ Hán – Việt có trong câu đối .
Khi dạy về văn học địa phương giáo viên có thể cho học sinh tìm
hiểu đôi câu đối về Nguyễn Trung Trực :
“Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khốc quỉ thần”
14
( Lửa đỏ sông Nhật Tảo vang trời đất
Kiếm Kiên Giang tung hoành khiến quỉ thần phải khiếp sợ)
Giáo viên cho học sinh tìm hiểu nghĩa từng chữ, tên địa danh gắn liền với
chiến công hiển hách của vị anh hùng dân tộc qua đó không những giáo dục
lòng yêu nước mà còn cung cấp kiến thức về từ Hán – Việt, về lịch sử, địa lí cho
học sinh…….
II / MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TỪ HÁN – VIỆT :
1. Lập sổ tay Hán – Việt :
Giáo viên cho học sinh tự lập sổ tay để ghi chép từ Hán – Việt có
trong bài học về từ Hán – Việt, có ở phần phụ lục sách giáo khoa Ngữ văn kì hai
các lớp, ở phần chú thích sau các văn bản, ở trong các bài thơ Đường luật ( như
“Hồi hương ngẫu thư”, “Nam quốc sơn hà”.........) hoặc giáo viên cung cấp trong
bài, hoặc học sinh sưu tầm ....
Ví dụ :
Yếu tố H–
V
Dĩ
Dị
Nghĩa
Từ chứa yếu tố H –V
1.Dùng, lấy
2 . Thôi , đã rồi
Khác , không bình thường , quái
Dĩ hòa vi quí
Dĩ nhiên
Dị bản , kì dị
lạ, riêng , đặc biệt
Diêm
Muối
Diêm sinh, diêm dân
Diệm(Diễm) Nhan sắc đẹp đẽ, sáng sủa
Kiều diễm
Tham khảo thêm tài liệu: “Bồi dưỡng về từ Hán– Việt” của trường PTCS
Bãi Thơm năm 2009 tại : hptt://baithom.tk.
Giáo viên sẽ hướng dẫn, nhắc nhở, kiểm tra, động viên...... học
sinh giúp học sinh có thêm thật nhiều vốn từ.
2. Dạy học qua thành ngữ Hán – Việt :
Thành ngữ Hán - Việt dùng để chỉ những kết cấu ngôn ngữ rất
ổn định, thông thường cô đọng về mặt ngữ nghĩa thịnh hành trong tiếng Hán,
được du nhập vào nước ta và được nhân dân sử dụng rộng rãi cho đến ngày
nay . Trước khi ghi tên bài học mới lên bảng giáo viên ghi một câu thành ngữ
( sau đó có thể là một câu danh ngôn, tục ngữ, câu thơ trong Kinh Thi....) lên
15
góc phải bảng để học sinh có thêm kiến thức về từ Hán – Việt, kích thích sự tò
mò, ham hiểu biết của học sinh....Cuối giờ giáo viên cho học sinh tìm hiểu nghĩa
của từng thành tố Hán – Việt sau đó tìm hiểu nghĩa của thành ngữ đó. Ví dụ
một số thành ngữ :
Bạch diện thư sinh :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen : học trò mặt trắng
+ Nghĩa bóng : Người học trò chưa có kinh nghiệm
Bất nhập hổ huyệt, bất đắc hổ tử :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen : Không vào hang hùm sao bắt được cọp con
+ Nghĩa bóng : Phải có gan mạo hiểm mới làm được việc khó.
Khắc cốt minh tâm :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen : chạm vào xương, ghi vào lòng.
+ Nghĩa bóng : ghi nhớ không bao giờ quên
Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ :
Nghĩa : Một ngày cũng là thầy, suốt đời mới là cha.
Nhất tiếu thiên kim :
Nghĩa :
+ Nghĩa đen: Một cái cười đáng giá nghìn vàng.
+ Nghĩa bóng : Ca tụng một phụ nữ đẹp.
Phu xướng phụ tùy .
Nghĩa :
+ Nghĩa đen: Tùy nghĩa là theo. Chồng nói, làm gì, vợ cũng làm theo.
+ Nghĩa bóng : Một quan niệm phong kiến cho là người phụ nữ phải luôn
luôn phục tùng người chồng…..
Như vậy ngoài việc học tìm hiểu từ Hán – Việt học sinh còn hiểu
cặn kẽ các thành ngữ đó để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày hoặc trong đời
sống.
16
3. Trò chơi : Chơi mà học – học mà chơi đó là cách học hiệu quả
nhất.
3.1.Ván bài lật ngửa :
Giáo viên hướng dẫn các em làm bộ bài để chơi. Bộ bài kích
thức hình dáng giống như bộ bài Tây chỉ khác hai mặt đều ghi chữ được( Hai
mặt màu khác nhau). Một mặt ghi từ Hán – Việt, một mặt ghi nghĩa của từ Hán
– Việt đó. Khi hướng dẫn xong giáo viên sẽ giao cho mỗi nhóm một lượng từ
khác nhau để các nhóm về nhà thực hiện. Sau khi đã hoàn thành bộ bài giáo
viên hướng dẫn cách chơi như sau : Cả lớp sẽ thành nhiều đội chơi, mỗi đội chơi
gồm hai người, bộ bài sẽ được chia đều số quân cho cả hai. Quy định cách đánh
tùy theo sự thống nhất của cặp chơi. Nếu người đầu tiên đánh mặt từ Hán –
Việt thì người kia sẽ phải trả lời nghĩa của nó. Trả lời không đúng hoặc không
trả lời được thì người đánh sẽ đánh tiếp, còn trả lời được thì người trả lời sẽ
được quyền đánh. Cứ như thế nếu ai hết bài trước sẽ là người chiến thắng. Trò
chơi này học sinh có thể sử dụng đánh trong những thời gian rảnh rỗi ở nhà , ở
lớp hoặc tự mình chơi để nhớ nghĩa từ Hán – Việt.
3.2.Tìm từ cùng chủ đề :
Giáo viên chia lớp thành bốn đội. Giáo viên cho bốn chủ đề
học sinh các đội sẽ thay nhau chạy lên bảng để ghi từ mà đội mình tìm được
theo chủ đề mà thầy đã giao, đội nào ghi đúng và nhiều thì đội đó sẽ thắng. Ví
dụ chủ đề màu sắc : bạch, hắc, hoàng , thanh, hồng .....
3.3.Nối cột :
Giáo viên treo bốn bảng phụ, mỗi bảng gồm hai cột từ Hán – Việt
và nghĩa của nó, quy định thời gian rồi cho các đội từng em một chạy nên nối
cột đội nào ghi nhiều, đúng sẽ thắng. Ví dụ :
Nối các từ HV với nghĩa của nó :
Từ Hán – Việt :
Nghĩa :
Thái bình
Ngàn xưa
Thiên cổ
Rất yên ổn, yên bình.
Giang san
Núi sông
Thiên bẩm
Dưới gầm trời (chỉ toàn xã hội; người ta)
Thiên hạ
Trời cho, trời ban.
4. Cung cấp tài liệu :
17
Giáo viên cung cấp những tài liệu giúp học sinh học tập
tốt từ Hán – Việt như cung cấp những bài đọc vần, thơ vần. Ví dụ :
“Thiên trời , địa đất , vân mây
Vũ mưa, phong gió, nhật ngày, dạ đêm
Cân khăn, y áo, thường xiêm
Đao dao, phủ búa, liêm liềm, sáp mai
Song đôi, nhất một, nhị hai
Bát tám, cửu chín, thập mười, vạn muôn
Họat bùi, cam ngọt, chỉ ngon
Toan chua, khổ đắng, quỷ dòn, tân cay
Tâm lòng, diện mặt, thủ tay
Tu râu, phát tóc, mi mày, túc chân
Lượng lường, xích thước, hoành cân
Cao sào, trượng gậy, can cần, tiêu nêu
Kê gà, nga ngỗng, đồn heo
Ngưu trâu, khuyển chó, miêu mèo, dương dê
Mộc cây, thảo cỏ, duân tre
Lương khê, mạch bắp, ma mè, giá dâu
Trì ao, tỉnh giếng, kiều cầu
Lang cau, yên thuốc, phù trầu, hôi vôi
Thán than, sài củi, mai mồi
Phùng may, hoạ vẽ, hồ bồi, tú thêu
Hổ hùm, thố thỏ, chương cheo
Lộ cò, ô quạ, diêu diêù, âu le
Vi làm, kiến thấy ,văn nghe
Tín tin, thành thật, khoa khoe, nhượng nhường
Kê trâm, trất lược, kính gương
Duy màn, tịch chiếu, sàng giường, phiên phên
Tông dòng, tính họ, danh tên
Vinh sang, đại cả, kiên bền, cửu lâu
18
Nhân người, tế rể, hôn dâu
Phu chồng, thê vợ, thiềp hầu, nhi con
Phương vuông, khúc vạy, viên tròn
Thành nên, kí dã, do còn, ngọ chưa
Thái rau, hàn mắm, thư đưa
Du bòng, lại mít, đa dừa, hoa bông
Nguyên nguồn, tể gặn, thanh trong
Hồ ao, hải biển, hà sông, ngạn bờ
Niên năm, nguyệt tháng, thời giờ
Tốc mau, trì chậm, giãi chờ ,vọng trông
Bất chăng, hữu có, vô không
Canh cày, quán tưới, thực hồng, bá gieo
Hành đi, tẩu chạy, duyên leo
Bả cầm, bạt rút, huyền treo, bão bồng
Lân long, phương phượng, long rồng
Quy rùa, hạc hạc, tước công, bàng hàng
Luận bàn, ẩm uống, thực ăn
Gián can, xiểm nịnh, tưởng khen, thệ thề
Du chơi, cư ở, quy về
Thiện lành, ác dữ, xi chê, tiếu cười
Khứ đi, trú ở, thiên giời
Kỉ 12 năm, kiếp vận, thế đời, đại thay
Cổ xưa, tân mới, kim nay
Thanh xanh, khô héo, tiên tươi, tạ tàn »
Hay :
« Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam ba,
gia nhà, quốc nước ,tiền trước, hậu sau, ngưu trâu, mã ngựa, cự cựa, nha răng,
vô chăng, hữu có, khuyển chó, dương dê, quy về, tẩu chạy, bái lạy, quỳ qùy,
khứ đi, lai lại, nữ gái, nam trai, đái đai ,quan mũ, túc dủ, đa nhiều, ái yêu, tăng
ghét, thức biết, trí hay, mộc cây, căn rễ, di dễ ,nan khôn, chỉ ngon, cam ngọt,
19
trụ cột, lương rường, sàng giường, tịch chiếu, khiếm thiếu, dư thừa, sứ bừa, cúc
quốc, chúc đuốc, đăng đèn, thăng lên, giáng xuống, điền ruộng, trạch nhà, lão
già, đồng trẻ, tước sẽ, kê gà, ngã ta, tha khóc, bá bác, di dì… ».
Học sinh sẽ dễ dàng học thuộc và từ đó đã có vốn từ Hán –
Việt tương đối . Lại có nhiều ý kiến cho rằng phải dạy trong trường Phổ thông
(PTCS, PTTH) cách viết 214 bộ thủ ta cũng có thể cung cấp từ Hán- Việt( ví dụ
mộc, thủy..), nghĩa (cây, nước…) của 214 bộ này để học sinh học trước khi việc
dạy này được Bộ Giáo dục triển khai (các nước như Nhật, Hàn Quốc, Singgapo
đã làm) :
DIỄN CA BỘ THỦ
“MỘC (木) - cây, THỦY (木) - nước, KIM (木) - vàng
HỎA (木) - lửa, THỔ (木) - đất, NGUYỆT (木)- trăng, NHẬT (木) - trời
XUYÊN (木) - sông, SƠN (木) - núi, PHỤ (木) - đồi
TỬ (木) - con, PHỤ (木) - bố, NHÂN (木) - người, SỸ (木) - quan
MIÊN (木) - mái nhà, HÁN (木) - sườn non
NGHIỄM (木) - hiên, HỘ (木) - cửa, cổng - MÔN (木), LÝ (木) - làng
CỐC (木)- thung lũng, HUYỆT (木)- cái hang
TỊCH (木) - khuya, THẦN (木) - sớm (4), Dê – DƯƠNG (木), HỔ(木) - hùm
NGÕA (木) - ngói đất, PHẪU (木) - sành nung
Ruộng - ĐIỀN (木), thôn - ẤP 木 (5), què - UÔNG (木), LÃO(木) - già
DẪN 木- đi gần, SƯỚC 木 - đi xa
BAO 木 - ôm, TỶ 木 - sánh, CỦNG 木 - là chắp tay
ĐIỂU 木 - chim, TRẢO 木 - vuốt, PHI 木 - bay
TÚC 木 - chân, DIỆN 木 - mặt, THỦ 木 - tay, HIỆT 木 - đầu
TIÊU 木 là tóc, NHI 木 là râu
NHA 木 - nanh, KHUYỂN 木 - chó, NGƯU 木- trâu, GIÁC 木 - sừng
DỰC 木 - cọc trâu, KỶ 木 - dây thừng
QUA 木 - dưa, CỬU 木 - hẹ, MA 木 - vừng, TRÚC 木 - tre
HÀNH 木 - đi, TẨU 木 - chạy, XA 木 - xe
20
- Xem thêm -