Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học ...

Tài liệu SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học

.DOC
30
16452
128

Mô tả:

SKKN Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN ÂN THI TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA THÁM ----------------™™™™™--------------- Lĩnh vực: Chủ nhiệm Họ và tên: Đàm Thị Ngân Công việc được giao: Chủ nhiệm lớp 2A Tài liệu đính kèm:......................................................................................... ====================T™ Năm học : 2014 - 2015 ™T====================== PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO HUYỆN ÂN THI TRƯỜNG TIỂU HỌC HOÀNG HOA THÁM ----------------™™™™™--------------- Lĩnh vực: Chủ nhiệm Họ và tên: Đàm Thị Ngân Công việc được giao: Chủ nhiệm lớp 2A Tài liệu đính kèm:...................................................................................................... ====================T™ 2 Năm học : 2014 - 2015 ™T====================== MỤC LỤC: PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2. Cơ sở thực tiễn6 1. Cơ sở lí luận II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 1.Mục đích nghiên cứu 2. Nhiệm vụ nghiên cứu III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu 3. Phương pháp nghiên cứu8 2. Phạm vi nghiên cứu PHẦN II - NỘI DUNG I - CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận 2. Cơ sở thực tiễn 3. Khảo sát thực tế II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 1. Biện pháp 1: Tìm hiểu HS, nắm rõ tình hình lớp chủ nhiệm 2. Biện pháp 2: Ổn định nề nếp, xây dựng nếp tự quản tích cực 3 .Biện pháp 3: Động viên khích lệ HS 4. Biện pháp 4: Chăm sóc, GD đạo đức và kĩ năng sống cho HS Trang 5 6 7 7 8 8 8 8 9 9 9 10 11 13 13 16 21 22 5. Biện pháp 5: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện 6. Biện pháp 6: Kinh nghiệm giao tiếp và xử lí các tình huống SP III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 23 22 26 PHẦN 3 : KẾT LUẬN 27 I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM II. KHUYẾN NGHỊ 28 28 LỜI NÓI ĐẦU “Công tác chủ nhiệm lớp” là một vấn đề rộng lớn, bao la mà rất nhiều người thầy , người cô trăn trở để tìm ra những biện pháp thiết thực nhất, hiệu quả nhất phù hợp , phụ trợ cho quá trình dạy học của mình. Tôi cũng như bao GV khác rất muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp những kinh nghiệm ít ỏi của mình 3 cũng như muốn học hỏi thêm từ bạn bè đồng nghiệp những sáng kiến trong công tác chủ nhiệm lớp góp phần làm tốt hơn công tác này. Với vốn kinh nghiệm còn ít ỏi, lại đi vào một vấn đề lớn chắc chắn bài viết của tôi còn nhiều hạn chế, rất mong được sự đóng góp thêm từ phía Hội đồng khoa học Nhà trường cũng như từ các bạn đọc khác để giúp tôi tiếp tục nghiên cứu, khắc phục vấn đề còn hạn chế của bài viết. Tôi xin chân thành cảm ơn! PHẦN 1 : ĐẶT VẤN ĐỀ. I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI : 1.Cơ sở lí luận: 4 Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội. Khi bàn về vai trò yếu tố giáo dục trong sự phát triển nhân cách con người, Bác Hồ đã viết trong bài thơ “Nửa đêm” (trích “Nhật ký trong tù”): “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên” Theo quan niệm của Hồ Chí Minh con người ta khi mới sinh ra vốn bản chất là tốt, nhưng chỉ sau do ảnh hưởng của giáo dục và môi trường sống cùng sự phấn đấu, rèn luyện của mỗi cá nhân mà hình thành những con người thiện, ác khác nhau. Câu nói của người xưa trong Tam Tự Kinh: “Nhân chi sơ, tính bản thiện” đã từng được Người nhắc lại nhiều lần trong các bài viết, bài nói chuyện. Theo Người con người sinh ra bản chất là tốt, song trong xã hội luôn có thiện và có ác nên trong bản thân mỗi con người cũng có thiện và ác. Cái ác có là do ảnh hưởng của xã hội và sự biến đổi của mỗi người. Do đó, giáo dục làm một nhiệm vụ vô cùng cần thiết là rèn luyện, biến đổi dần dần tính cách con người, hướng người ta đến sự hoàn thiện của một nhân cách tốt đẹp, xây dựng một xã hội với những con người có ích và hướng thiện. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ là sự nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn của toàn Đảng, toàn dân ta nói riêng. Đối với nước ta, giáo dục được xác định là “quốc sách hàng đầu”, là vô cùng quan trọng và cấp thiết bởi sự thành đạt của một con người, sự phát triển của một thế hệ, sự hưng thịnh của đất nước đều phụ thuộc vào kết quả của hoạt động giáo dục “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Hơn thế, trong một thời đại hội nhập kinh tế, thời đại công nghệ thông tin phát triển như vũ bão hiện nay thì giáo dục lại vô cùng cần thiết. Làm thế nào để những người chủ tương lai của đất nước có đủ đức lẫn tài? Làm thế nào để sự nghiệp giáo dục mang lại hiệu quả tốt? Đây chính là trách nhiệm 5 chung của toàn xã hội, của tất cả những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là của người giáo viên chủ nhiệm lớp – người trực tiếp và thường xuyên nhất tiếp xúc với các em học sinh ( HS ). Bởi vậy, người gần gũi nhiều nhất với các em HS, người luôn ở bên cạnh giải đáp mọi khó khăn thắc mắc của các em, người mà các em kính trọng và yêu quí nhất, người mà được các em xem như là cha là mẹ không ai khác chính là người giáo viên chủ nhiệm lớp. Là một giáo viên ( GV ) chủ nhiệm lớp tôi rất mong muốn học trò của mình là những con ngoan, trò giỏi, tài đức vẹn toàn để sau này lớn lên các em tự tin, năng động, bản lĩnh bước vào đời, trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Về bản thân, tôi rất mong muốn mình là người đồng nghiệp được tin yêu, được phụ huynh tin tưởng khi gửi gắm con em mình đến để giáo dục, dạy dỗ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường T.H Hoàng Hoa Thám nói riêng và của huyện Ân Thi nói chung. 2. Cơ sở thực tiễn : Năm học 2014 – 2015 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2A. HS lớp 2 lớn hơn một chút so với lớp 1 cả về nhận thức và thể lực. Song trẻ vẫn mang đậm phong cách lứa tuổi nhỏ : thích nghịch, thích chơi. Vậy làm thế nào để người GV chủ nhiệm lớp dần đưa các em vào chiều hướng tích cực học tập để hoàn thành bài học mà không khiến cho HS căng thẳng, không tạo áp lực cho các em? Đó là cả một nghệ thuật mà người GV chủ nhiệm không chỉ dạy kiến thức mà cũng phải biết dỗ trẻ. GV phải nắm vững tâm lí của trẻ để động viên, khích lệ các em ham mê học hành. - HS lớp 2 rất hiếu động , dễ tin, rất nghe lời cô giáo song cũng rất nhanh quên. Các em cũng đã biết phân biệt đúng sai, biết xử lí được tình huống đơn giản, biết nói lên ý kiến của mình, nhận ra ra một mẫu hành vi chuẩn mực qua bài học , mạnh dạn , tự do cá nhân hơn ,..… - GV, đặc biệt lại là GV Tiểu học – một người Thầy tổng thể không chỉ dạy các em tri thức mà còn dạy các em cách làm người, hình thành những nhân cách ban đầu cho trẻ. Vậy phải làm thế nào để đạt được những yêu cầu này? Đó là 6 một câu hỏi khó không phải ai cũng tìm được câu trả lời. Thấy từ vấn đề này, tôi luôn coi trọng cả hai lĩnh vực dạy chữ và dạy người trong công tác giáo dục. Một mặt học tập đồng nghiệp, trau dồi thêm chuyên môn để không ngừng phát triển về năng lực giảng dạy, mặt khác tôi luôn coi trọng giáo dục đạo đức HS trong công tác chủ nhiệm lớp. Tôi biết GV chủ nhiệm lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết định quản lí của hiệu trưởng đối với lớp và các thành viên trong lớp. Ở cấp Tiểu học nơi mà các em đang hình thành và phát triển nhân cách, GV chủ nhiệm cũng là người phối hợp với các tổ chức, đoàn thể trong trường trong đó quan hệ nhiều là tổng phụ trách đội , hội cha mẹ HS , để làm tốt công tác dạy- học-giáo dục HS trong lớp phụ trách.Trong thực tế cũng có GV đến trường chỉ quan tâm nhiều đến việc dạy, chưa quan tâm đến việc hình thành nề nếp và tìm hiểu tình cảm cuộc sống của các em… Để có một lớp HS ngoan, chịu khó học tập, đội ngũ tự quản tốt, biết vâng lời thầy cô, biết yêu quý bạn bè, biết giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn, biết giữ gìn của công, biết giao tiếp, ứng xử văn minh, lịch sự…Thì thầy cô phải làm gì? Làm như thế nào cho có hiệu quả? Điều này đã thôi thúc tôi trăn trở để tìm ra giải pháp thực hiện công tác chủ nhiệm lớp sao cho có hiệu quả. Chính vì vậy tôi đã mạnh dạn lựa chọn : “ Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học ”nhằm đúc rút một số kinh nghiệm về công tác này đồng thời mong được bạn bè đồng nghiệp bổ sung góp ý thêm để công tác này có hiệu quả trong trường học. II. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU : 1.Mục đích nghiên cứu: Lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm về công tác chủ nhiệm lớp tôi không mong muốn gì hơn là tìm ra những giải pháp hợp lí để làm tốt công tác chủ nhiệm gắn liền với đời dạy học của mình. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu : - Nghiên cứu thực trạng HS liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp. - Tìm ra những giải pháp đem lại hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp. 7 - Đề xuất với cấp trên tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để thực hiện tốt hơn công tác này. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu mọi hoạt động liên quan đến công tác chủ nhiệm lớp. - Nghiên cứu tâm lí đối tượng HS để tìm ra biện pháp tốt nhất giáo dục HS trong công tác chủ nhiệm lớp. 2. Phạm vi nghiên cứu . - Lĩnh vực nghiên cứu: Công tác chủ nhiệm lớp . - Đối tượng thực nghiệm: HS lớp 2 - Thời gian thực nghiệm: Từ tháng 9 - 2014 đến hết tháng 3 - 2015 - Địa điểm: Trường Tiểu học Hoàng Hoa Thám, huyện Ân thi, tỉnh Hưng Yên Năm học này được phân công chủ nhiệm lớp 2A nên tôi chỉ vận dụng tại lớp mình chủ nhiệm với số lượng HS là 35 em. 3. Phương pháp nghiên cứu: 3.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc các tài liệu cần thiết. Tìm hiểu tâm sinh lý lứa tuổi của HS . 3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn : Điều tra quan sát; Tìm hiểu, phỏng vấn GV, phụ huynh HS; Điều tra HS. 3.3. Phương pháp kiểm tra, thống kê kết quả: Kiểm tra chất lượng qua mỗi giai đoạn. Thống kê kết quả ở từng giai đoạn. 3.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: GV rút kinh nghiệm cho mình, tổng kết thành các bài học cơ bản. PHẦN 2 : NỘI DUNG 8 I-CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI : 1. Cơ sở lí luận : 1.1. Căn cứ theo Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014- 2015 - Mục tiêu giáo dục Tiểu học được xác định trong điều 27 của luật giáo dục “ Giáo dục Tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để HS tiếp tục học Trung học cơ sở”. Chính vì thế, giáo dục Tiểu học là cấp học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Do vậy, người GV Tiểu học nói chung và người GV chủ nhiệm nói riêng có vị trí, vai trò quan trọng, góp phần quyết định trong trong việc thực hiện hoạt động dạy và học có chất lượng . 1.2 . Căn cứ khoa học của đề tài : Trong xã hội hiện nay, nền kinh tế thị trường làm cho đời sống, ý thức của người dân được cải thiện hơn, ai ai cũng từ chỗ “no cơm ấm áo” dần dần tiến tới “ăn ngon mặc đẹp”, chăm lo cho tương lai con cái nhiều hơn; chính sách mở cửa, giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các nước cũng rất đa dạng. Điều đó đã tác động ít nhiều đến sự nhận thức, hiểu biết của các học sinh chúng ta. Cho nên ta dễ dàng nhận thấy rằng học sinh ngày nay thông minh, nhanh nhẹn, sáng tạo và hiểu biết hơn. Đúng như ông cha ta đã từng nói: “Hậu sinh khả uý”. Đây là một điều rất đáng mừng vì: “Con hơn cha là nhà có phúc”. Tuy nhiên ta không thể không bàn tới mặt trái của nền kinh tế thị trường. Những cái xấu đã và đang len lỏi vào thế hệ trẻ chúng ta. Nó khiến những người làm công tác giáo dục, các bậc phụ huynh phải băn khoăn, lo lắng. 1.3. Tính mới của đề tài: Công tác chủ nhiệm là một công việc thường xuyên, khá gắn bó với người GV và hầu như GV dạy bộ môn nào cũng từng kinh qua công tác này. Vì vậy, đối với mỗi nhà giáo trong quá trình đảm nhiệm trọng trách này đều tích luỹ cho mình một số kinh nghiệm riêng. Hơn nữa trong thời đại ngày nay, cùng với sự tiến bộ của xã hội, sự giao lưu văn hoá, kinh tế,… rộng rãi như đã nói ở trên thì vấn đề làm sao để đáp ứng tốt vai trò một GV chủ nhiệm là vấn 9 đề không hề cũ. Kéo theo, những kinh nghiệm mà GV chủ nhiệm tích luỹ được cần được quan tâm, chia sẻ, bồi dưỡng thêm nhằm mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm, làm tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là giáo dục, rèn luyện các em ngày càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con người lao động “vừa hồng, vừa chuyên”, sống hoàn thiện, có ích trong tương lai. Chính vì những lẽ đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho công tác chủ nhiệm lớp mình. Hôm nay tôi mạnh dạn trình bày đề tài “một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp” đúc kết kinh nghiệm từ quá trình chủ nhiệm lớp của bản thân tôi trong các năm học vừa qua, đặc biệt là năm 2014 – 2015. Rất mong sự góp ý chân thành của cấp trên cùng quý bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng có thêm nhiều kinh nghiệm qúy báu trong công tác chủ nhiệm lớp, giúp tôi hoàn thành công tác tốt hơn và cũng là hoàn thiện bản thân mình hơn . 2. Cơ sở thực tiễn : Qua thực tế, ta nhận thấy đạo đức học sinh tiểu học chưa chịu tác động nhiều của xã hội như học sinh Trung học cơ sở và Trung học phổ thông. Nhưng dường như cũng đã bị xem nhẹ, do quan hệ giữa người với người, giữa cha mẹ học sinh với xã hội, mà đa số phụ huynh học sinh có con ở lứa tuổi tiểu học thì họ đều rất trẻ . Những lối sống , cách cư xử của cha mẹ trẻ. Rồi các tệ nạn xã hội như lưu truyền, tiếp xúc văn hóa phẩm đồi trụy, cờ bạc, mang về gia đình hay môi trường xung quanh hàng xóm một phần cũng đã ảnh hưởng tới đạo đức học sinh tiểu học….và đằng sau đó là một sự yêu chiều quá mức của gia đình. Thực trạng này luôn là rào cản, gây khó khăn cho những người làm công tác chủ nhiệm lớp. Bởi vì người giáo viên chủ nhiệm đâu chỉ là quản lí các em mà còn phải dạy dỗ, phải chịu trách nhiệm về mặt học tập, đạo đức của các em. Tôi thường nói với các em rằng: Các em là con của cô, cô thay mặt nhà trường (cùng với cha mẹ các em) là người uốn nắn, dạy bảo các con mang cho các con kiến thức , là người dìu dắt để các con vững bước vào tương lai. Do đó, chủ nhiệm lớp là một công việc khó khăn nhưng vô cùng nghiêm túc. 10 3. Khảo sát thực tế: 3.1.Tình trạng khi chưa thực hiện: - Qua nghiên cứu thực tế, tôi thấy không phải ai, không phải GV nào cũng làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Bởi vì công tác này đòi hỏi người GV cần có một nghệ thuật. Không chỉ cần chuyên môn vững đảm bảo dạy tốt cho các em những tri thức cần thiết của lớp mình phụ trách mà còn cần một tấm lòng yêu trẻ, một sự nhiệt tình trong công tác, nắm bắt đặc điểm tâm lí của từng em để có thể đưa ra biện pháp giáo dục cho phù hợp. 3.2. Thuận lợi: GV chủ nhiệm nhận được sự chỉ đạo, quan tâm sâu sát của chi bộ Đảng, của Ban Giám Hiệu, của Công đoàn giáo dục cơ sở cùng sự giúp đỡ của tất cả các ban ngành trong HĐSP nhà trường. - Bản thân năng nổ, thích học hỏi, tìm tòi sáng tạo là người trực tiếp giảng dạy các môn cơ bản ở lớp nên thời gian tiếp xúc với lớp chủ nhiệm rất nhiều . Đội ngũ các thầy cô giáo bộ môn nhiệt tình, yêu nghề và trách nhiệm cao, chuyên môn vững vàng. Hầu hết các phụ huynh HS đều rất quan tâm đến việc học của các em. Đội ngũ cán sự lớp tập trung những thành viên khá tích cực, ham hoạt động. 3.3. Khó khăn: Đầu năm học 2014 - 2015 tôi được Ban Giám Hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2A. Đây là lớp có trình độ tiếp thu của HS không đồng đều . - Nhiều em có hoàn cảnh khó khăn phải phụ giúp gia đình, ít dành thời gian cho việc học. - Đa số học sinh chưa ý thức học tập còn ham chơi. - Một số phụ huynh học sinh mải làm ăn bươn chải cuộc sống, ít có thời gian điều kiện để quan tâm chăm sóc con cái (như đi làm công ty từ sáng đến tối mới về, đi làm xa, vài tháng mới về 1 lần, gửi con ở nhà ngoại, nội, cô dì, chú, bác, …) - Khuôn viên nhà trường gần quán xá, đường giao thông, quán Internet ,.. 11 Qua tìm hiểu tôi thấy lớp 2A có một số đặc điểm sau: * Thành phần: Lớp có 35 em: 18 nữ, 17 nam. Học sinh trong lớp không đồng đều cả về thể lực cũng như học lực. Lớp có 1 HS có hoàn cảnh đặc biệt: - Em Nguyễn Văn trọng ( thuộc hộ nghèo, bản thân em bị dị tật bẩm sinh vùng hậu môn, thường ngày phải đóng bỉm đến lớp ). - Ngoài ra còn có một số em có hoàn cảnh khó khăn như em Phí Văn Đức, em Vũ Thị Thu Huyền nhà thuộc hộ cận nghèo; em Nguyễn Tiến Dũng có bố mẹ đi làm ăn xa, phải ở nhà với bác,... *Về đạo đức: Nhìn chung các em ngoan song chưa tự giác, hiếu động, một số em còn nhút nhát, xa lánh bạn bè, một số khác lại hay cãi, nghịch ngợm, hứa rồi xin lỗi nhưng lại mắc khuyết điểm, một số lại hay nói tự do, nghĩ sao là nói vậy cho dù đang học hay đang chơi. Nhìn chung lớp 2A có nhiều HS còn hay nói tự do, đối tượng HS khác nhau và rất phức tạp. *Về học tập: Qua kết quả khảo sát đầu năm cũng phần nào phản ánh được kết quả học tập của các em. Lớp có một số em lực học giỏi nhưng ngược lại có những HS tiếp thu rất chậm (cả tiết học chỉ viết được vài chữ ,... ), đặc biệt là em Nguyễn Chí Kiên không viết nổi từ 10 đến 15 chữ , .... Sau đây là kết quả kiểm tra đầu năm: Số Lần HS KT 35em Lần 1 Hạnh kiểm Đ CĐ 35 0 100% 0% Học lực Giỏi 12 II.BIỆN PHÁP THỰC HIỆN . 12 34,3% TB Khá 10 28,6% Yếu 11 31,4% 02 5,7% 1. Biện pháp 1 : Tìm hiểu học sinh , nắm rõ, nắm vững tình hình lớp chủ nhiệm: Muốn giáo dục học sinh thì phải hiểu được tâm tư tình cảm nguyện vọng của các em. Nhưng làm thế nào để hiểu được những đều ấy một cách tường tận? Theo tôi đó là tiếp cận với lớp chủ nhiệm nghĩa là chúng ta phải tiếp xúc gần gũi trò chuyện tìm hiểu về hoàn cảnh, đặc điểm tâm sinh lí, tính tình sở thích… của các em. Vì vậy trước tiên khi phụ trách một lớp tôi đã tìm hiểu học sinh qua các mặt. Ngay từ tuần đầu của năm học tôi đã tìm hiểu tỉ mỉ hoàn cảnh, cá tính của từng em. Có nắm chắc hoàn cảnh của từng em, cá tính của từng em, mới biết được sở thích, nguyện vọng cá nhân của từng em, giúp cho việc giáo dục đạo đức, xây dựng nề nếp, giúp cho việc giảng dạy của giáo viên, học tập của học sinh đạt kết quả tốt. Không chỉ dừng ở việc tìm hiểu học sinh qua xem sơ yếu lí lịch mà tôi còn , đến thăm gia đình các em nghe ý kiến của cha mẹ các em. Tôi còn thường xuyên gần gũi chuyện trò. Chính sự gần gũi của cô mà các em không còn cảm thấy sợ và ngần ngại mỗi khi nói chuyện . Để để tìm hiểu và nắm bắt được các nội dung trên tôi tiến hành làm các công việc sau: Bước 1: Điều tra lí lịch học sinh qua phiếu Sơ yếu lí lịch vào tuần đầu tiên của năm học mới với các nội dung sau: SƠ YẾU LÍ LỊCH HỌC SINH I. Phần tự ghi của học sinh 1. Họ và tên học sinh:……………….…………………… Giới tính: …… 2. Ngày…. tháng…. năm sinh…… Dân tộc:…..….. Tôn giáo:………. 3. - Địa chỉ thường trú: Xóm………..thôn ………..xã ……….huyện ..................................................................................................................... - Số điện thoại bàn của gia đình:………………… 4. - Họ, tên cha: ………….Tuổi……….Nghề nghiệp:……… Số điện thoại của bố :…………. - Họ, tên mẹ: ……………Tuổi……….Nghề nghiệp:………. 13 Số điện thoại của mẹ :…………. 5. Là con thứ .......trong tổng số ......con trong gia đình . 6. Điều kiện kinh tế gia đình:…………………. 7. - Xếp loại của năm học 2013 - 2014: - Học lực:…………….Hạnh kiểm:……………… - Chức vụ đã làm ở năm học 2013 - 2014:…………… 8.Năng khiếu:……………………….. - Những điều yêu thích : ……………………….…….......................................................................... - Những điều lo sợ : ....................................................................................................................... 9. Các bạn thân hiện nay:…….....................................…… 10. Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học này: Kiến thức, kĩ năng:…………………….........……….. Năng lực:…………………........................……………. Phẩm chất:………………......................………………. 11. Em có ý kiến, đề nghị gì với GVCN và nhà trường: ....................................................................................................................... ....................................................................................................................... B. Phần ghi của PHHS. 1. PHHS có thường xuyên quan tâm, giáo dục con em mình hay không ? Vìsao ?....................................................................................................... . 2. PHHS tạo điều kiện gì cho con em mình học tốt ? ....................................................................................................................... 3. PHHS có nhận xét gì về con em mình? ………………………………………………………………………………… 4. PHHS có đề nghị gì với nhà trường và GVCN? …………………………………………………………………………....... Bước 2: 14 Để kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà tôi thu thập được qua phiếu điều tra tôi cố gắng tìm hiểu thông qua nhiều kênh khác nhau như từ bạn bè, người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số học sinh,… Qua đó sẽ hiểu biết cụ thể hơn, chi tiết hơn hoàn cảnh gia đình các em. Từ đó tôi có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em bởi giáo dục không phải là một công thức chung có sẵn. Bên cạnh đó tôi còn trò chuyện với GVCN của năm trước, liên hệ các GVBM trong lớp để có thêm những thông tin chính xác về các em. Bước 3: Đây là bước tiến hành thường xuyên ở từng giai đoạn. Tôi cung cấp số điện thoại của bản thân, của nhà trường đến từng em và liên hệ với gia đình học sinh qua điện thoại, sổ liên lạc. Đây là sự liên hệ hai chiều qua lại giữa nhà trường với gia đình, giữa GVCN với PHHS. Bằng các hình thức liên hệ đó tôi sẽ nắm được những diễn biến về đạo đức, về học tập của các em từ đó có thể đánh giá hiệu quả những tác động sư phạm đồng thời điều chỉnh phương pháp giáo dục. Vì đạo đức, học lực của từng em luôn biến đổi từng giờ, từng ngày chứ không phải là bất biến theo kiểu “Đầu sao đuôi vậy”. * Tiến hành làm sổ chủ nhiệm: Sổ chủ nhiệm được xem là nhật kí của lớp. Nó ghi lại kết quả học tập, những diễn biến trong lớp trong suốt một năm học vì vậy khi làm sổ chủ nhiệm tôi thật thận trọng, tôi ghi đầy đủ các chi tiết theo mẫu: Trong đó tôi chú ý nhất là: - Sơ đồ chỗ ngồi. - Danh sách cán bộ lớp. (Địa chỉ – số điện thoại). - Nội quy trường lớp. - Theo dõi kết quả thi đua. - Theo dõi học sinh cá biệt. - Theo dõi mọi mặt từng HS theo định kỳ. - Kiểm diện phụ huynh đi họp. 2. Biện pháp 2 : Ổn định nề nếp, xây dựng nếp tự quản tích cực: 15 2.1. Ổn định nề nếp, xây dựng nếp tự quản : Ở lứa tuổi lớp 2, thiết nghĩ các em đã bắt đầu có khả năng tự quản, phát huy trách nhiệm của bản thân, trong mọi công việc trên tinh thần dân chủ, tôi luôn tôn trọng tin tưởng và giáo dục cho các em ý thức tự giác, tích cực phê bình và tự phê bình. Kích thích tính tự trọng và tình đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ ở mỗi HS. Xây dựng nề nếp là một trong những nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của người GV tiểu học. Thực tế, nếu một lớp học , HS không có nề nếp thì việc giáo dục và dạy học sẽ không đạt hiệu quả cao. Để xây dựng một tập thể tự quản tốt, muốn ổn định nề nếp học tập thì cần có đội ngũ cán bộ, cán sự lớp năng động sáng tạo, trách nhiệm. Vì lẽ đó bầu ban cán sự lớp là một việc cần phải suy nghĩ tính toán không phải học sinh nào cũng đảm nhiệm được. Ngay từ đầu năm, sau khi được BGH nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2A, tôi bắt tay vào việc ổn định tổ chức lớp . Tôi cho các em bầu ban cán sự lớp. Như vậy các em được tự chọn ra bạn ngoan, gương mẫu, học tập tốt và có khả năng lãnh đạo lớp vào đội ngũ cán bộ lớp. Đội ngũ cán bộ lớp đã có, tôi họp riêng các em phân công nhiệm vụ cho từng em . Trong buổi sinh hoạt lớp đầu năm tôi đã làm các công việc sau: + Em lớp trưởng: quán xuyến chung cả lớp, thay mặt GV kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện những qui định của lớp, của trường: đôn đốc các bạn thực hiện truy bài, kiểm tra đồng phục, việc xếp hàng ra vào lớp, xếp hàng khi thể dục, sinh hoạt tập thể . hàng tuần, hàng tháng, học kì, năm học và có báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm. + Em lớp phó phụ trách học tập : Kiểm tra việc làm bài và học bài ở nhà của các bạn và giúp đỡ các bạn khi các bạn chưa hiểu bài… và báo cáo cho lớp trưởng kết quả học tập của lớp hàng tuần, hàng tháng. + Lớp phó phụ trách văn nghệ thưòng xuyên giữ nề nếp hát đầu giờ, giờ ra chơi vào, sinh hoạt văn nghệ cuối tuần , trong các đợt thi do trường tổ chức. + Lớp phó phụ trách lao động thường xuyên quán xuyến cả lớp khi làm vệ sinh “1 phút sạch trường”, khi lớp lao động, vệ sinh cá nhân . 16 + Tổ trưởng (Dãy trưởng): Theo dõi các hoạt động của tổ (dãy), nắm kết quả học tập của từng tổ viên, xếp loại đánh giá tổ viên và báo cáo cho lớp trưởng tổng hợp. * Sắp xếp chỗ ngồi:  Chú ý các em có nhu cầu về tai mắt để ưu tiên ngồi lên trên  Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực (Thấp ngồi trước, cao ngồi sau; nam - nữ xen kẽ; HS Giỏi - Yếu, Khá - Trung bình ngồi cùng bàn; Tỉ lệ Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu ở các tổ đều nhau). Chú ý những em HS cá biệt, những em có học lực kém, hạn chế trong tiếp thu bài, hạn chế trong giao tiếp,... * Một số yêu cầu khác:  Học nội quy nhà trường , thảo luận và đề ra nội quy của lớp.  Các em chép nội quy nhà trường và về nhà theo dõi xin ý kiến của PHHS.  Qui định về thưởng phạt: Cuối mỗi tháng , mỗi học kì, bất kì HS nào có ý thức vươn lên, phấn đấu trong học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt nhất có thể được khen thưởng đồ dùng học tập / HS.(Trích từ quỹ lớp, GVCN hỗ trợ thêm, …).  Chú y: Những qui định này được đặt ra trên tinh thần dân chủ, phải lấy ý kiến của số đông tránh việc áp đặt. Khi đặt ra những qui định nội quy của lớp thì phải cố gắng thực hiện đúng , đều tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”. Và khi có sự thay đổi cũng phải lấy ý kiến của học sinh. 2.2. Xây dựng nề nếp trật tự kỷ luật: - Ngày đầu tiên mới nhận HS, tôi quy định rõ ràng: HS lớp 2 là phải học nhiều hơn HS lớp 1, hơn nữa thời gian lại có hạn, chính vì vậy trong giờ học không ai nói chuyện riêng, không ai nói tự do những việc ngoài lề. Nếu phát hiện có em nói chuyện hay làm việc riêng trong giờ, tôi ngừng giảng và nhìn đúng tại nơi đó với ánh mắt nghiêm khắc. HS tự giác ổn định lại ngay sau đó và giờ học lại được tiếp tục. Đây là một biện pháp rất hiệu quả khiến cho công tác 17 chủ nhiệm của tôi nhàn hơn. Không phải ngẫu nhiên mà bạn bè đồng nghiệp của tôi thường nhận xét rằng tôi không bao giờ nói to là vì thế. - Đặc biệt, HS lớp 2 thường hay mách cô. Với những lần như vậy tôi luôn phải hỏi rõ ngọn nguồn. Cả hai đối tượng đều được trình bày cộng với nhân chứng (nếu có). Từ đó GV mới có cách giải quyết công bằng đối với các em. Có những trường hợp GV phải chỉ ra lỗi cụ thể của một em hay cả hai đều mắc lỗi thì cần xin lỗi nhau để giải tỏa. Sau những lần như vậy GV lại rút kinh nghiệm những trường hợp này các em không nên và không cần thiết phải thưa cô vì việc đó không quan trọng. Dần dần HS tự nhận ra những việc gì thưa cô là chính đáng, cần thiết để giảm dần việc thưa mách cô, dành thời gian cho việc học tập . - GV vừa cứng rắn cương quyết vừa thể hiện tình cảm dịu dàng thương yêu chăm sóc các em. Song cũng cần thể hiện rõ sự nghiêm khắc không bỏ lửng khi nhắc nhở, giao việc cho HS. Chẳng hạn, HS về nhà không học bài. Cô không phạt mà yêu cầu lần thứ nhất cho phép các em về làm bù bài. Hôm sau cô phải kiểm tra ngay. Nếu chưa làm cô dành thời gian yêu cầu em đó hoàn thiện bài tại lớp. Tránh tình trạng cô giáo giao việc cho HS song không có sự kiểm tra đôn đốc khiến cho lời nói của cô trở nên kém trọng lượng, lần sau cô nói sẽ không có hiệu lực nữa. - GV kiên trì huấn luỵên phong thái tự tin cho HS làm lớp trưởng, luôn nghiêm túc trong công việc mà cô giáo giao. - GV hướng dẫn thật chi tiết, tỉ mỉ cho đội ngũ cán bộ lớp trong vài tuần đầu để các em quen thành nếp và dần dần có đội ngũ tự quản tốt. Trên cơ sở đó giáo yên tâm quản lí HS theo hướng chỉ đạo từ xa. Ví dụ: Khi có tiếng : “ Một phút sạch trường – sạch lớp” : Lớp phó phụ trách lao động điều khiển các bạn nhanh chóng vào vị trí tổ đã được phân công, bàn trực nhật ở lại làm vệ sinh trong lớp học. Truy bài ngồi theo nhóm (bàn) 2 người ôn lại bài cũ, kiểm tra việc học bài ở nhà của nhau. Khi xếp hàng ra vào lớp hay thể dục giữa giờ: lớp trưởng là người điều động các bạn sao cho thật nhanh ngay ngắn. 18 * Sau mỗi tuần, GV cần tổ chức sinh hoạt lớp để nhận xét công việc trong tuần qua: cả lớp cùng nhận xét các việc mà lớp đã thực hiện, nhận xét được mặt tốt cần phát huy cho lớp trong thời gian tới. Ví dụ : Lớp có bạn đi học trễ lớp nên nhắc nhở bạn đi học đúng giờ. Tuyên dương HS gương mẫu, tập thể có nhiều cố gắng. - GV ghi nhận những ý kiến đóng góp của các em và qua đó giáo dục các em biết được hành vi đúng sai. Giúp các em phát huy những mặt mạnh sẵn có. Với những việc các em làm được GV kịp thời khen ngợi, tuyên dương nhằm nhân rộng điển hình trong lớp, giứp nhiều HS học hỏi theo. 2.3.Xây dựng nề nềp học tập - GV sử dụng một số kí hiệu hoặc lệnh để điều khiển HS thực hiện trong giờ học. Ví dụ: Khi GV chỉ vào hình tròn có dấu chấm ở giữa là HS ngồi khoanh tay nhìn lên bảng. Khi chỉ vào hình chữ nhật HS lấy bảng con. Khi đang dùng bảng mà GV chỉ vào kí hiệu bảng thì HS lập tức cất bảng. Khi bạn làm bài xong để cả lớp tập trung nhận xét chữa bài GV gõ 1 tiếng thước. Khi yêu cầu HS lấy đồ dùng hay cất đồ dùng thì GV chỉ vào chữ Đ bên góc trái bảng. Chia nhóm đôi, nhóm ba, nhóm bốn, nhóm năm , nhóm sáu, muốn HS hoạt động theo nhóm nào GV chỉ thước vào kí hiệu đó viết sẵn ở góc trái của bảng lớp. - GV thường xuyên đến lớp sớm để cùng kiểm tra, chữa bài với các em. (Mặc dù đã giao cho em lớp phó phụ trách học tập và các bàn trưởng). Công việc này cần được kiểm tra vào đầu giờ học để có hiệu quả hơn. - GV khuyến khích tất cả HS hăng hái phát biểu xây dựng bài. Ví dụ: Khi gọi HS nhút nhát hoặc HS yếu trả lời được câu hỏi đề nghị cả lớp động viên bạn bằng tràng pháo tay. Còn để HS khá giỏi không cảm thấy buồn chán thì để các em nhận xét ý kiến . 19 - GV sử dụng phương pháp học mà chơi – chơi mà học, nhưng không vì thế mà làm ảnh hưởng đến những lớp xung quanh. Ví dụ: Trong khi học các em phải đảm bảo trật tự, không phát biểu chung cả lớp. Còn trong khi chơi các em cũng phải tuân thủ luật chơi, cổ vũ nhưng không la lớn, không đập bàn. - Giáo viên qui định cách giơ tay, giơ bảng, đứng đúng cách khi phát biểu. Ví dụ: Giơ tay phải, khuỷu tay chống xuống bàn, giơ tay đúng mới gọi phát biểu. Khi giơ bảng: hai khuỷu tay chống xuống bàn, bàn cuối cùng mới giơ cao tay. Đứng thẳng người, hai tay buông xuống khi được gọi phát biểu… Ngay cả việc học tập ở nhà, tôi cũng có yêu cầu rất rõ ràng. Tôi phân tích cho các em thấy, học là việc của chính bản thân các em. Bố mẹ, thầy cô không thể học hộ các em được. Do đó bài tập cô giáo, các con phải tự giác làm. Không có lí do gì lại nêu tại bố mẹ con không dạy con học, hay tại bố mẹ con không nhắc nhở. Tiếp đó, tôi kiểm tra thật sát sao, ai không làm bài, cô giáo nhắc nhở, phê bình. Nhờ đó, HS lớp tôi được phụ huynh phản ánh là các em rất tự giác học bài. Bố mẹ không cần giục giã, nhắc nhở mà con em họ rất lo lắng đến bài vở của mình. 3 .Biện pháp 3 : Động viên khích lệ HS. - Tôi biết rằng HS mới từ lớp 1 lên vẫn cò rất mải chơi, học không tập trung. Song nắm được tâm lí trẻ rất thích làm người lớn. Chính vì vậy mà ngay từ buổi học đầu tiên tôi đã động viên các em: “Từ hôm nay các con đã là HS lớp 2 rồi, các con đã lớn hơn nhiều, đã được các em lớp một gọi bằng anh, bằng chị vậy thì chúng mình cần học tập tốt hơn, ngoan hơn để làm gương cho các em. Nếu bạn nào chưa ngoan, chưa xứng đáng là HS lớp 2 thì sao? Các bạn có đồng ý để cô gửi về học lại lớp 1 không?’ Đương nhiên chẳng em nào muốn như vậy cả. Thế là buổi học hôm ấy cũng như những buổi sau nếu có em nào chưa ngoan, tôi cũng không cần nhắc tên chỉ cần nói nhẹ: “Bạn nào muốn về lớp cũ thì bảo cô nhé, cô sẽ đưa con về.” Vậy là HS ý thức được ngay và tiếp tục tập trung vào bài học. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan