Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn một số biện pháp rèn học sinh viết chữ đẹp – giữ gìn vở sạch sẽ ...

Tài liệu Skkn một số biện pháp rèn học sinh viết chữ đẹp – giữ gìn vở sạch sẽ

.DOC
22
167
89

Mô tả:

Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN HỌC SINH VIẾT CHỮ ĐẸP - GIỮ GÌN VỞ SẠCH SẼ HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN THỊ KIM TÁNH I. ĐẶT VẤN ĐỀ Từ xưa đến nay, người Việt Nam rất coi trọng chữ viết. Trong lịch sử nước ta, có những danh nhân nổi tiếng văn hay chữ tốt, được nhân dân ta truyền tụng từ đời này sang đời khác, lấy đó làm gương cho học trò bao thế hệ noi theo như Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu...Theo quan niệm của ông cha ta: “Văn là người, chữ cũng là người”. Nhà văn Nguyễn Du lại có câu: “Nết nhà văn lựa nên văn chương”, ý nói văn chương chữ nghĩa thể hiện sự giáo dục và kết quả giáo dục của con người. Ngày nay, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhắc nhở nhà giáo chúng ta qua lời dạy: “ Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho các em viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em đức tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như đối với thầy cô giáo và bạn đọc vở của mình”. Từ những vấn đề trên, bản thân là giáo viên Tiểu học, là người trực tiếp hàng ngày dạy dỗ các em, không chỉ truyền thụ cung cấp giúp các em nắm vững kiến thức mà còn phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu để giúp các em viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch sẽ. Có như thế mới đáp ứng được mục tiêu giáo dục hiện nay. 1. Cơ sở lí luận 1 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku Đối với học sinh Tiểu học, việc rèn luyện cho các em có nề nếp thói quen “viết chữ đẹp - giữ vở sạch sẽ” là một việc phải thường xuyên, liên tục, không chỉ trong vài giờ, vài phút hay trong một môn học nào mà phải luôn thường nhật ở hầu hết tất cả các môn, nhất là môn Chính tả và Tập viết. Lâu nay, nhiều thế hệ thầy cô giáo, nhiều nhà nghiên cứu đã cố gắng góp nhiều công sức cải tiến kiểu chữ, cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy môn Tập viết. Tuy vậy, học sinh vẫn viết sai, viết xấu và viết chậm. Điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập, nhất là môn Tiếng Việt. Không những thế mà còn ảnh hưởng rất lớn đến tính cách của con người. Nếu không đưa các em vào khuôn khổ, cứ để các em viết một cách tự do, thoải mái thì dần dần các em sẽ đi sâu vào lối mòn và ngày càng ăn dần vào bản tính con người, sẽ trở thành một người cẩu thả, lười nhác, sống không có qui củ, nề nếp, ưa tự do, phóng túng và sẽ trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Vì thế, ngay từ khi ở bậc Tiểu học, các em cần được rèn luyện viết chữ đẹp, giữ gìn vở sạch sẽ thì đó cũng chính là góp phần giúp các em học tập tốt và có nhân cách tốt. 2. Thực trạng a. Giáo viên: - Một số giáo viên cho rằng chữ viết không ảnh hưởng gì đến chất lượng học tập nên rất ít khi quan tâm đến việc giáo dục học sinh viết chữ đẹp - giữ vở sạch sẽ. - Vẫn có một số giáo viên chữ viết còn quá xấu, nguệch ngoạc, nét chữ không chân phương, thậm chí còn viết sai lỗi 2 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku chính tả, chữ mẫu môn Tập viết viết không chuẩn xác, không đúng kích cỡ, không đẹp, trình bày bảng không thẩm mĩ và khoa học. - Một số giáo viên mải cuốn hút chạy theo chất lượng, quên đi việc rèn chữ cho học sinh. - Giờ Tập viết, giáo viên dạy qua loa đại khái, làm việc riêng, cứ phó thác cho học sinh viết sao thì viết, miễn sao viết đầy trang vở là được. - Rất ít khi nhắc nhở học sinh về việc rèn chữ viết và giữ gìn vở sạch sẽ. Cho nên cũng không tổ chức thi vở sạch chữ đẹp tại lớp. Hàng tháng, cứ đánh giá cảm tính, đại khái vào sổ chủ nhiệm cho có số lượng. b. Học sinh: - Một số học sinh thiếu tính cẩn thận, đi học hay quên sách vở và đồ dùng học tập, khi viết bài không tuân theo sự chỉ dẫn của giáo viên, ưa tự do. - Chữ viết không đúng kích cỡ, viết không đẹp, không chân phương. - Cách ngồi viết, để vở, cầm bút không đúng qui cách. - Một số em viết với tốc độ quá nhanh nên dẫn đến chữ viết quá xấu, nguệch ngoạc. - Bài viết hay tẩy xoá, trình bày không đẹp. * Từ thực trạng trên, muốn thực hiện tốt việc rèn học sinh viết chữ 3 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku đẹp - giữ gìn vở sạch, trước tiên, giáo viên cần thăm dò, khảo sát phân loại học sinh. Trong tháng 9, sau gần một tháng học, tôi đã tiến hành kiểm tra vở của cả lớp, phân loại như sau: Sĩ số học Chữ đẹp Điểm Điểm Điểm Vở sạch Điểm Điểm Điểm sinh 8-9-10 5-6-7 dưới 5 8-9-10 5-6-7 dưới 5 35 8 15 12 10 15 10 II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP A. Biện pháp 1. Biện pháp 1: Rèn học sinh viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch thông qua một số tiêu chuẩn đánh giá xếp loại. Ngay từ đầu năm học, cùng với thời gian cho các em học tập nội qui, nhiệm vụ và những điều không nên làm đối với học sinh, tôi cũng thông báo và cho các em học tập tiêu chuẩn đánh giá xếp loại vở sạch, chữ đẹp Loại A với nội dung như sau: *Vở sạch: Đạt điểm : 8 ; 9; 10 với điều kiện: Vở bao bìa, dán nhãn cẩn thận, đẹp, không quăn mép, không bị giây mực bất cứ trang nào, không tẩy xoá, không gạch tay, tên các môn học phải gạch chân, sau mỗi bài học phải gạch ngang qua ở giữa, chừa hai bên, mỗi bên ba ô li vở, sau mỗi buổi 4 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku học phải gạch ngang qua hết chỉ chừa lề và chỉ viết một màu mực. * Chữ đẹp: Đạt điểm: 8; 9; 10 với điều kiện: Chữ đẹp, chân phương tức là rõ ràng, ngay ngắn các nét, viết đúng và đều nét, viết đúng kích cỡ, viết liền nét giữa các con chữ cái. Đầu câu phải viết hoa, đầu dòng phải lùi vào cách lề một ô li vở, không tẩy xóa. Tôi phô tô cho mỗi học sinh Bảng tiêu chuẩn đánh giá xếp loại, yêu cầu các em mang về đưa cho bố mẹ tham khảo, sau đó, nhờ bố mẹ dán vào ngay trang đầu của vở ghi đầu bài. Qua giải pháp này, tôi nhận thấy, phần nào các em cũng được sự quan tâm nhắc nhở của bố mẹ, đồng thời luôn túc trực với các em hàng ngày, hàng giờ để các em luôn ghi nhớ về tiêu chuẩn đánh giá, xếp loại trên. Cũng từ đó, các em có ý thức tốt trong việc rèn chữ và giữ gìn vở sạch sẽ. 2. Biện pháp 2: Tổ chức thi viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch 2 tháng/ lần - có thưởng. Trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi thông báo 2 tiêu chuẩn trên cho phụ huynh nắm và đề nghị phụ huynh luôn quan tâm nhắc nhở con em mình thực hiện tốt. Tôi vạch ra kế hoạch: Cứ 2 tháng, tổ chức thi vở sạch - chữ đẹp một lần trong lớp, chọn vài bộ xuất sắc khen thưởng. Để có phần thưởng động 5 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku viên cho các em, tôi huy động sự trợ giúp của Ban đại diện cha mẹ học sinh, làm công tác tư tưởng với phụ huynh cả lớp, trích khoản tiền nhỏ trong quĩ lớp để mua phần thưởng cho các em. Với kế hoạch này, tất cả phụ huynh đều nhất trí 100%. Cứ hai tháng, tôi tổ chức thi vở sạch chữ đẹp một lần, lựa chọn những bộ vở xứng đáng để tuyên dương và phát thưởng. Phần thưởng tuy nhỏ, chỉ là một cây bút hay vài quyển vở nhưng đã động viên các em rất nhiều. 3. Biện pháp 3: Giúp học sinh giữ gìn vở sạch đẹp bằng hình thức tương thân tương ái. Bên cạnh phần lớn học sinh đến trường được sự quan tâm của gia đình: các em có đầy đủ sách vở được bao bọc đẹp, dán nhãn cẩn thận, nhưng cũng không tránh khỏi một vài trường hợp đáng thương tâm: các em đến trường nhưng thiếu vở, thiếu bút, có vở cũng không được cha mẹ bao bọc, dán nhãn ... Tôi đã huy động sự trợ giúp của các em học sinh có điều kiện, hỗ trợ cho bạn mình những quyển vở, những bìa bao, những cái nhãn...Tôi cùng một số học sinh khéo tay dán nhãn, bao bọc cẩn thận cho các em để tránh đi sự mặc cảm với bạn bè. Từ đó, sẽ không ảnh hưởng đến chất lượng học tập. 4. Biện pháp 4: Rèn học sinh viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch thông qua việc hướng dẫn cách cầm bút, để vở, cách sử dụng bút khi viết bài và tư thế ngồi viết. 6 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku Ngay đầu năm học, tôi dành thời gian của một tiết sinh hoạt lớp, dạy cho các em về tư thế ngồi, cách cầm bút, cách sử dụng bút và cách để vở để viết chữ đẹp.Tôi vừa giảng lý thuyết vừa thực hành cho học sinh xem, sau đó các em thực hành theo cô. Không chỉ dừng lại ở tiết sinh hoạt đó mà trong tất cả các buổi học, từng tiết học, tôi thường xuyên nhắc nhở đối với những em chưa thực hiện đúng yêu cầu trên. a/ Tư thế ngồi viết: - Khi ngồi viết, các em cần ngồi ngay ngắn với tư thế thoải mái, không gò bó dễ gây tê mỏi. Hai tay phải đặt đúng điểm tựa qui định mới điều khiển cây bút theo sự chỉ huy của não được. Mắt cách vở từ 25 - 30 cm, không được nhìn quá gần vở vì thiếu ánh sáng sẽ dẫn đến gây cận thị. - Cột sống lưng luôn ở tư thế thẳng đứng, vuông góc với mặt ghế ngồi. Không ngồi vặn vẹo, không nằm dài trên bàn, nếu thế lâu dần sẽ thành tật, dẫn đến cong vẹo cột sống, rất khó chữa sau này. - Hai chân thoải mái, không để chân co, chân duỗi khiến cột sống phải lệch vẹo và chữ viết sẽ xiên lệch theo . - Tay trái đặt trên mặt bàn, bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải cũng để trên mặt bàn. Với cách để tay như vậy, khi viết, bàn tay và cánh tay phải có thể dịch chuyển thuận lợi từ trái sang phải dễ dàng. b / Cách cầm bút 7 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku Khi viết, học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa). Không cầm bút quá chặt, đầu ngón trỏ cách đầu ngòi bút chừng 2,5 cm, đặt ở phía trên đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. Ba điểm tựa này giữ bút và điều khiển ngòi bút dịch chuyển linh hoạt. Mép bàn tay là điểm tựa của cánh tay phải khi đặt xuống bàn viết. Lúc viết, điều khiển cây bút bằng các cơ cổ tay, khuỷu tay và các ngón tay. Khi viết, học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay ( ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa). Đầu ngón trỏ cách đầu ngòi bút chừng 2,5 cm đặt ở phía ngtaycái c / Sử dụng bút trong khi viết: Cầm bút xuôi theo chiều ngồi. Góc độ bút, đặt so với mặt giấy khoảng 45o. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90 o như cách cầm bút lông viết chữ nho. Đưa bút từ trái sang phải, từ trên xuống dưới. Các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt giấy. d/ Cách để vở: Vở cần để chếch lên phía phải so với mép bàn một góc khoảng từ 25 - 300 Sở dĩ để như vậy vì chiều thuận của vận động tay khi viết chữ Việt là vận động từ trái sang phải. Trong quá trình viết bài, tôi 8 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku theo dõi quan sát những em nào không thực hiện đúng, tôi ân cần nhắc nhở và sửa ngay cho từng em. 5. Biện pháp 5: Rèn học sinh viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch thông qua sự mẫu mực của giáo viên Dưới con mắt học sinh, thầy cô là người mẫu mực nhất, học sinh coi thầy cô như tấm gương sáng để các em noi theo. Từng con chữ viết mẫu trong tiết Tập viết, cách trình bày bảng, chữ viết trên bảng, chữ viết của giáo viên khi chấm bài, chữa bài, ghi lời nhận xét trong vở học sinh cũng như điểm số đều được học sinh quan sát, coi đó như loại chữ mẫu. Vì thế, thời gian ở nhà, bản thân tôi luôn cố gắng luyện viết chữ đúng mẫu, đúng kích cỡ, viết đẹp, rõ ràng để khỏi lúng túng khi lên lớp. Trình bày bảng khoa học, thẩm mĩ, không gạch chân bằng tay. 6. Biện pháp 6: Rèn học sinh viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch thông qua dạy phân môn Chính tả: Trong tiết Chính tả, sau khi hướng dẫn học sinh phần Luyện viết từ khó, đến khâu đọc bài cho học sinh viết, giáo viên cần đọc thong thả và diễn cảm toàn bộ bài được chọn viết chính tả, nhằm giúp các em có cái nhìn bao quát, có ấn tượng chung về nội dung của bài viết, làm cơ sở cho việc viết chính tả của học sinh. Khi đọc bài cho học sinh viết, giáo viên cần đọc chuẩn xác, phải đúng với chính âm, đọc thong thả, rõ ràng từng câu. Nếu gặp câu văn dài, giáo viên có thể đọc theo từng cụm từ (cụm từ ấy phải diễn đạt một ý nhỏ). Mỗi câu, mỗi cụm từ phải đọc từ 2 đến 3 lần, tốc 9 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku độ đọc phải phù hợp, tương ứng với tốc độ viết của học sinh. Cả việc đọc (của giáo viên) và việc viết (của học sinh) đều không theo từng từ riêng lẻ mà phải gắn với cả câu (hoặc cụm từ) trọn nghĩa. Như vậy, học sinh viết chính tả trên cơ sở thông hiểu từ ngữ, thông hiểu nội dung văn bản, sẽ tránh được các lỗi do không hiểu những gì mình viết và với cách đọc như vậy, học sinh sẽ có cơ hội rèn chữ đẹp, giữ gìn vở sạch. * Ví dụ: Khi dạy bài chính tả: Nghe - Viết Nhớ lại buổi đầu đi học (tuần 6 tiết 12) Sau khi hướng dẫn học sinh luyện viết từ khó xong, đến khâu đọc cho học sinh viết bài, trước hết, giáo viên đọc cả nội dung bài viết qua một lượt cho học sinh nghe, sau đó mới đọc từng câu hoặc cụm từ có nghĩa cho học sinh viết. Qua cách đọc cả nội dung bài viết cho học sinh nghe, phần nào giúp các em có cái nhìn bao quát, có ấn tượng chung về nội dung của bài viết. Đoạn văn nói lên sự bỡ ngỡ, rụt rè của đám học trò mới tựu trường lần đầu. Phần đọc từng câu, từng cụm từ cho học sinh viết bài, giáo viên cần đọc với giọng thong thả, rõ ràng, đọc đúng với chính âm, không đọc giọng địa phương. * Ví dụ: - “học trò” đọc là “học trò”, không đọc “học chò” - “bỡ ngỡ” đọc là “bỡ ngỡ”, không đọc “bở ngở.” 10 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku - “quãng trời” đọc là “quãng trời”, không đọc “quảng chời” - “thèm vụng” đọc là “thèm vụng”, không đọc “thìm dụng” - “ rụt rè” đọc là “rụt rè”, không đọc “rục rè” * Đối với các tiếng có thanh ngã, cần đọc nhấn giọng hơn những tiếng có thanh hỏi. * Với các câu văn dài, giáo viên không đọc hết cả câu mà cần đọc từng cụm từ (cụm từ ấy phải diễn đạt một ý nhỏ). * Ví dụ: Về cách đọc của bài chính tả trên: Cũng như tôi/, mấy học trò mới / bỡ ngỡ đứng nép bên người thân/, chỉ dám đi từng bước nhẹ /. Họ như con chim / nhìn quãng trời rộng muốn bay/, nhưng còn ngập ngừng e sợ /. Họ thèm vụng và ước ao/ thầm được như những người học trò cũ /, biết lớp/, biết thầy/ để khỏi phải rụt rè/ trong cảnh lạ./ * Như vậy, học sinh viết chính tả trên cơ sở thông hiểu từ ngữ, thông hiểu nội dung văn bản, sẽ tránh được các lỗi do không hiểu những gì mình viết và với cách đọc như vậy, học sinh sẽ có cơ hội rèn chữ đẹp. * Cách chấm điểm: Như chúng ta đã biết, đối với học sinh Tiểu học, điểm số hằng ngày của hai môn Toán và Tiếng Việt chỉ là cơ sở cho chúng ta cũng như phụ huynh tham khảo để nắm bắt tình hình học tập của con em mình chớ không ảnh hưởng gì đến kết quả 11 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku đánh giá xếp loại học sinh. Chính vì thế, việc chấm điểm môn Chính tả cần phải gắt hơn thì từ đó, các em mới có ý thức giữ gìn vở sạch sẽ, rèn viết chữ đẹp. Việc quy định chấm điểm môn Chính tả, tôi đưa ra tổ tham khảo thống nhất, xin ý kiến của nhà trường đồng ý rồi trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi phổ biến thì hầu hết phụ huynh nhất trí 100%. Sau đó, thông báo cho học sinh trong lớp nắm luôn các tiêu chuẩn đó. Từ đó, mới áp dụng vào việc chấm điểm. Trong tiết Chính tả, tôi thường chấm từ 5 -7 bài, điểm chính tả tôi chấm riêng, điểm chữ viết tôi chấm riêng. Đối với điểm chính tả, nếu bài viết bẩn, dập xóa nhiều, tôi trừ từ 1- 2 điểm, nếu chữ Chính tả không gạch chân, tôi trừ tiếp 1điểm nữa. Đối với điểm chữ viết nó là cơ sở để giáo viên đánh giá xếp loại Vở sạch chữ đẹp của học sinh hàng tháng. Điểm chữ viết đạt 10 phải đảm bảo điều kiện: chữ viết đẹp, chân phương, viết đúng độ cao các nét, đánh dấu thanh đúng vị trí, sạch sẽ, không dập tẩy. Tùy theo mức độ, giáo viên trừ bớt số điểm. Việc chấm điểm theo hình thức này nó đã tác động không nhỏ đến ý thức của học sinh. Các em luôn luôn cố gắng viết đẹp, viết đúng kích cỡ, không tẩy xoá, làm bẩn, đặc biệt chữ Chính tả lúc nào cũng gạch chân, tạo nên thẩm mỹ cho bài viết. 7. Biện pháp 7: Rèn học sinh viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch thông qua dạy học phân môn Tập viết. Học sinh có được kĩ năng viết chữ tốt, biết viết đẹp, viết đúng qui trình, viết đúng mẫu chữ, cỡ chữ chủ yếu là nhờ việc dạy học tốt phân môn Tập viết. Để làm được việc đó, giáo viên cần chuẩn bị một số điều kiện như sau: 12 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku a. Bảng con: Thực tế việc dạy viết hiện nay cho thấy chưa có một phương tiện nào ưu việt hơn thay thế bảng con để học sinh luyện viết chữ. Vì vậy, cần chú ý những điều kiện tối thiểu về việc chuẩn bị bảng con cho học sinh. Trong buổi họp phụ huynh học sinh đầu năm, tôi đã thống nhất với phụ huynh tìm mua cho con em mình loại bảng nhựa màu đen, cỡ lớn, có dòng kẻ ô li (tôi đưa ra một cái bảng mẫu cho phụ huynh xem). Loại bảng này rất thuận tiện cho việc học sinh tập viết chữ đúng kích thước, đồng thời học sinh có thể nhận xét chữ viết của mình, của bạn và có thể xoá ngay chỗ sai để viết lại cho đúng. b. Về phấn viết: Tôi cũng rất quan tâm đến chất lượng phấn viết, không cho học sinh viết phấn quá cứng hoặc phấn kém phẩm chất, có sạn, vì dùng loại phấn này các em rất vất vả mà nét phấn viết không rõ ràng, chữ viết không đẹp. Tôi thiết nghĩ, bước chuẩn bị cho học sinh viết trên bảng con là rất quan trọng, vì các em có viết chữ ở bảng con đẹp, đúng mẫu thì viết chữ trong vở mới đẹp, mới đúng. Để dạy Tập viết đạt hiệu quả, giáo viên cần sử dụng Bộ chữ viết mẫu được ban hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Những chữ viết mẫu này nhằm mục đích giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý 13 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong quá trình dạy học viết chữ theo hướng đổi mới phương pháp dạy học. Giáo viên cho học sinh quan sát mẫu chữ, để các em phát hiện sự giống và khác nhau của chữ đang học và đã học. Từ đó khắc sâu những biểu tượng về chữ viết. Giáo viên phải phân tích được cấu tạo chữ: gồm mấy nét, đó là những nét gì, nói được qui trình viết chữ, sự liên kết phối hợp của các nét ra sao? Điểm đặt bút và điểm dừng bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẻ. Giáo viên phải viết mẫu lên bảng, viết từ từ, chậm rãi, vừa viết vừa giải thích điểm đặt bút, qui trình, độ cao, điểm dừng bút...Khi viết, người hơi đứng nghiêng sang một bên để cho học sinh quan sát thấy được tay giáo viên viết từng nét để các em bắt chước. Sau đó, học sinh luyện viết trên bảng con, giáo viên nhận xét, tìm ra chỗ sai để sữa chữa. Trong khi học sinh dưới lớp viết vào bảng con, giáo viên yêu cầu một em lên viết trên bảng lớp để việc chữa bài hiệu quả hơn. * Ví dụ 1: Dạy bài Ôn chữ hoa G a/ Bước 1: Ôn chữ viết hoa G cỡ vừa: - Giáo viên đưa mẫu chữ viết hoa G cỡ vừa cho học sinh quan sát. G 14 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku GV: Em hãy cho biết chữ G cỡ vừa có độ cao mấy li ? HS: Chữ G cỡ vừa có độ cao 8 li. GV: Chữ G gồm mâý nét? Đó là những nét nào ? Học sinh trả lời, giáo viên củng cố lại: Chữ G gồm hai nét: + Nét 1: là kết hợp của nét cong dưới và cong trái nối liền nhau tạo vòng xoắn to ở đầu chữ. + Nét 2: là nét khuyết ngược. - Giáo viên vừa nói vừa dùng thước chỉ vào các nét đó. GV: Em cho biết nét thứ nhất của chữ G hơi giống chữ nào đã học? HS: Chữ G có nét thứ nhất hơi giống chữ C đã học? GV: Đưa ra mẫu chữ viết hoa C để chứng minh điều trên . C GV: Nét thứ hai của chữ G giống nét nào của chữ gì ta đã học ? HS: Nét thứ hai của chữ G giống nét thứ hai của chữ Y. - GV đưa mẫu chữ viết hoa Y để chứng minh điều trên. Y b/Bước 2: Hướng dẫn cách viết hoa chữ G cỡ nhỏ: Để dễ dàng cho học sinh nhìn nhận về độ cao của chữ G cỡ nhỏ, giáo viên cho học sinh biết: đối với chữ cỡ nhỏ, có độ cao bằng 1/2 độ cao của chữ cỡ vừa . Như vậy học sinh biết được chữ G cỡ nhỏ có độ cao là 4 li. 15 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku Giáo viên tiến hành viết mẫu, vừa viết, vừa nêu quy trình viết: Từ giữa đường kẻ 3 và 4 (tính từ dưới chân chữ lên), đặt bút, viết nét cong dưới nối liền với nét cong trái tạo vòng xoắn to ở phía trên giống như chữ C, chuyển hướng viết nét khuyết ngược, dừng bút tại giữa đường kẻ ngang thứ 1 và thứ 2. G * Ví dụ 2: Dạy bài Ôn chữ hoa K a/Bước 1: Ôn chữ hoa K cỡ vừa: - - Giáo viên đưa mẫu chữ viết hoa K cỡ vừa cho học sinh quan sát. K GV: Em hãy cho biết chữ K gồm mấy nét? HS: Trả lời, giáo viên củng cố: chữ K gồm 3 nét (Giáo viên vừa củng cố vừa dùng thước chỉ vào các nét đó) + Nét 1: kết hợp của 2 nét cơ bản: cong trái và lượn ngang. + Nét 2: nét móc ngược trái, phần cuối lượn vào trong. + Nét thứ ba: là kết hợp của 2 nét cơ bản: móc xuôi phải và móc ngược phải nối liền nhau, tạo thành một vòng xoắn nhỏ giữa thân chữ. GV: Em hãy quan sát chữ K có những nét nào hợp lại với nhau tạo thành chữ hoa đã học? HS: Chữ K có nét thứ nhất nối liền với nét thứ hai tạo thành chữ I đã học. - GV: Đưa ra mẫu chữ hoa I để chứng minh điều trên. 16 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku - Từ đó, giáo viên chỉ cần ôn kĩ cấu tạo cũng như cách viết nét thứ ba. I b/ Bước 2: Hướng dẫn cách viết hoa chữ K cỡ nhỏ: Tương tự như phần b của ví dụ 1, học sinh dễ dàng viết chữ hoa K cỡ nhỏ có độ cao 2,5 li : Từ đường kẻ ngang thứ 3, viết nét móc xuôi phải và móc ngược phải nối liền nhau, tạo thành một vòng xoắn nhỏ giữa thân chữ, dừng bút giữa đường kẻ ngang thứ nhất và thứ hai. K * Với cách dạy trên, tôi nhận thấy học sinh có một cái nhìn khái quát hơn, sẽ dễ dàng hơn trong việc viết đúng. Từ đó, sẽ có cơ hội để các em rèn chữ cũng như giữ gìn vở sạch sẽ. * Bảng tổng hợp các nhóm chữ viết hoa có cấu tạo các nét hoặc một số nét giống nhau: A - Ă - Â ; D - Đ ; E - Ê ; C - G -Y ; O - Ô - Ơ - Q ; U-Ư;P-B-R;I-K * Ví dụ 3: Luyện viết từ ứng dụng Phan Bội Châu - Giáo viên cần có chữ mẫu để học sinh quan sát, hình dung ra cách viết. 17 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku Phan Bội Châu - Trước khi học sinh luyện viết vào bảng con, giáo viên yêu cầu học sinh phải hiểu về từ ứng dụng trên. GV: Phan Bội Châu là người như thế nào? HS trả lời, giáo viên củng cố: Phan Bội Châu sinh năm 1867, mất năm 1940 là một nhà cách mạng vĩ đại đầu thế kỉ XX của Việt Nam. Ngoài hoạt động cách mạng, ông còn viết nhiều tác phẩm văn thơ yêu nước. - Từ việc nhận thức về nội dung, học sinh hiểu được Phan Bội Châu là tên riêng của người nên phải viết hoa các chữ cái đầu mỗi tiếng. - Lưu ý cho học sinh về độ cao các con chữ; việc nối liền nét giữa các chữ cái với nhau cho đến việc đánh dấu thanh, về khoảng cách giữa chữ này với chữ kia bằng một chữ cái “o” thường, không xa quá hoặc gần sát quá. * Chữ “ Phan”: các chữ “ a”, “n” phải viết nối liền nét với nhau. * Chữ “Bội”: chữ “ô” viết nối liền nét với chữ “ i ”. Đánh dấu mũ ngay trên đầu chữ “o”, không quá to hoặc quá nhỏ mà vừa phải, phía dưới đường kẻ ngang thứ 3, thanh nặng phải đánh dưới chữ ô. * Chữ “ Châu”: các chữ “â”, “u” phải viết nối liền nét nhau. Với chữ “â”, dấu ớ đánh trên đầu chữ “a”. 18 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku - Giáo viên cần viết mẫu lên bảng, vừa viết, vừa giải thích cách viết. - Học sinh luyện viết vào bảng con, lớp nhận xét, sửa chữa - Trước khi viết bài vào vở, giáo viên luôn nhắc nhở lại cách để vở, cách cầm bút và tư thế ngồi. Khi các em viết bài, giáo viên dứt khoát không làm việc riêng mà phải theo dõi học sinh viết, quan tâm nhiều đến học sinh hay viết sai, viết xấu, nhắc nhở, uốn nắn, chỉ dẫn thêm. Đồng thời, những học sinh nào chưa thực hiện đúng qui cách để vở, cầm bút, tư thế ngồi thì tôi sửa ngay, nhắc nhở các em lần sau nên cố gắng thực hiện đúng. * Chấm bài: Trong giờ Tập viết, tôi luôn chấm từ 6 - 8 bài, chấm luân phiên, học sinh trung bình, yếu, tôi quan tâm và chấm nhiều lần hơn. Tuyên dương những học sinh viết đúng, viết đẹp, trình bày sạch sẽ, giơ lên hoặc chuyền từng bàn cho học sinh cả lớp quan sát để học tập. Đối với học sinh nào có bài viết bẩn, hay tẩy xoá, trình bày không đẹp, tôi trừ từ 1 - 2 điểm để các em tiến bộ ở lần sau. Sau đó, tôi tiến hành sửa chữa lỗi sai chung để cả lớp rút kinh nghiệm. B. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 1. Kết quả: 19 Nguyễn Thị Kim Tánh – TH Nguyễn Bá Ngọc, Pleiku Qua quá trình thực hiện phối hợp các biện pháp trên, tôi nhận thấy việc giúp học sinh rèn viết chữ đẹp - giữ gìn vở sạch của các em tiến bộ rõ rệt. Cụ thể: việc đánh giá xếp loại A hàng tháng tăng lên, loại C giảm xuống. XẾP LOẠI VỞ SẠCH - CHỮ ĐẸP HÀNG THÁNG CHỮ ĐẸP Lo¹i VỞ SẠCH THÁNG THÁNG THÁNG THÁNG 9 + 10 11 + 12 9 + 10 11 + 12 A 8 12 10 14 B 15 18 15 18 C 12 5 10 3 Trên đây là kết quả mà bản thân tôi đã thu gặt được nhờ đã phối hợp một số biện pháp hữu hiệu. Từ việc rèn cho học sinh giữ gìn vở sạch - viết chữ đẹp, phần nào đã giúp cho các em có thói quen luôn giữ gìn đôi tay luôn sạch sẽ, quần áo, đầu tóc gọn gàng, tạo cho các em có đức tính cẩn thận trong học tập và sinh hoạt. Từ đó, chất lượng học tập của các em cũng ngày càng đi lên. 2. Bài học kinh nghiệm * Có được kết quả trên, dù chưa mĩ mãn, nhưng thực tế tôi cũng rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất