UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
GIÚP HỌC SINH LỚP 7 SƢU TẦM VÀ LƢU GIỮ
CA DAO, TỤC NGỮ LƢU HÀNH Ở ĐỊA PHƢƠNG CỔ LOA
THÔNG QUA CÁC HOẠT ĐỘNG NGOẠI KHOÁ
Giáo viên
: Đỗ
Tổ
: Xã hội
Đơn vị
: Trƣờng THCS Cổ Loa
Thị Kim Hoà
Năm học 2003 - 2004
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
DÀN Ý
A. Đặt vấn đề:
I. Lý do chọn đề tài:
II. Cơ sở thực tiễn và lý luận:
1. Xuất phát từ mục tiêu của tiết học, mục đích của dạng bài "Chƣơng
trình địa phƣơng"
2. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý và hoàn cảnh học trò.
3. Căn cứ vào thực tế giảng dạy của giáo viên.
III. Phạm vi đề tài và đối tƣợng khảo sát:
B. Nội dung chính:
I. Nhận xét sơ bộ về thực trạng soạn bài của học sinh:
II. Những biện pháp cụ thể:
1. Giúp học sinh sƣu tầm ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng Cổ Loa.
a. Xác định nguồn sƣu tầm:
- Sưu tầm từ người lớn tuổi, nghệ nhân, nhà văn, người già cả ...
đang sinh sống ở địa phương
- Sưu tầm từ các tạp chí văn học, sách báo của xã.
- Sưu tầm từ các tác phẩm văn học bị lãng quên.,
b. Giáo viên kiểm tra kết quả sƣu tầm
- Kiểm tra thường xuyên định kỳ.
- Xác minh, kiểm nghiệm tính đúng đắn của nguồn tư liệu.
2. Hƣớng dẫn học sinh lƣu giữ ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng.
a. Chọn lọc, sắp xếp biên tập lại các câu ca dao tục ngữ theo chủ đề và
thứ tự chữ cái ABC.
b. Tìm hiểu ý nghĩa, chọn bình giảng một số câu hay:
c. Ghi chép vào sổ tƣ liệu
d. Bổ sung vào Tập san Văn học của nhà trƣờng.
e. Tổ chức các hoạt động ngoại khoá xoay quanh chủ đề: Sƣu tầm và
lƣu giữ ca dao, tục ngữ ở địa phƣơng.
g. Kết hợp với chính quyền, đoàn thể ở thôn xóm, làng xã cùng giữ gìn,
trân trọng.
III. Kết quả thực hiện
IV. Bài học kinh nghiệm rút ra
C. Lời kết
1
Đỗ Thị Kim Hoà
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 - Tập II
2. Sách giáo viên Ngữ văn 7 - Tập II.
3. Phân tích tác phẩm văn học dân gian - Bộ Giáo dục Đào tạo.
(Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1992 - 1996)
4. Tục ngữ, ca dao Việt Nam.
(Mã Giang Lân - Nhà xuất bản giáo dục 1998)
5. Tục ngữ, ca dao Hà Nội.
6. Bình luận văn chƣơng.
(Hoài Thanh - Nhà xuất bản giáo dục - 1998)
7. Loa thành Thánh tích.
(Chu Trinh - Nhà xuất bản Hà Nội - 1968)
8. Dấu xƣa.
(Hội Nhà văn Cổ Loa - 1968)
9. Lịch sử Việt Nam - Tập I.
2
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Nhà thơ Xuân Diệu nói về ca dao "Trong những câu ca dao tự nghìn đời
tổ tiên để lại ... như có đất có nước, như có cát, có biển, như có mồ hôi
người...". Khi ta sống với cao dào thì một tên đất, tên làng, tên một thổ nghi
(đặc sản), một nét cảnh vật, một thoáng lịch sử, một điệu tâm hồn ngƣời đọc
gợi lên trong đó cũng làm động đến niềm yêu thƣơng gắn bó với quê hƣơng,
xứ sở, đồng bào. Cho nên khi ta sống với ca dao thì điều nó gợi lên trong lòng
ta nhiều khi lại đáng nói hơn bản thân điều nó diễn tả. Bởi vì ca dao, tục ngữ
chính là đời sống tâm tƣ tình cảm của nhân dân lao động các miền, các vùng,
các địa phƣơng đƣợc đúc kết từ nghìn đời nay. Đặc biệt, những địa phƣơng
nhƣ Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) là một mảnh đất ngàn năm văn hiến có bề
dày lịch sử thì ắt hẳn vốn ca dao tục ngữ vô cùng phong phú. Nhiệm vụ của
thế hệ chúng ta, những ngƣời con sinh ra và lớn lên trên đất Loa Thành lịch
sử phải gìn giữ, trân trọng kho tàng văn hoá quý báu ấy. Bổn phận của ngƣời
giáo viên làm thế nào giúp học sinh sống với nó, quý tọng nó, hiểu nó và tìm
cách lƣu giữ nó. Thế nhƣng, đây là một công việc khó khăn, gian nan và lâu
dài. Bởi vì theo lời ông Chu Trinh (Trƣởng Ban văn hoá xã Cổ Loa) thì những
sách báo viết về cao dao tục ngữ ở địa phƣơng không có nhiều. Những câu ca
dao, dân ca, tục ngữ lƣu hành trên địa phƣơng, liên quan (nói về) địa phƣơng
đa số chỉ đƣợc lƣu truyền trong nhân dân bằng lối truyền miệng. Cổ Loa là
mảnh đất Thánh, các tích truyện, các nguồn gốc dấu ấn lịch sử hầu nhƣ mang
đậm sắc thái huyền thoại truyền thuyết, in dấu phong cách dân gian, ngay cả
ca dao tục ngữ cũng vậy, chỉ đơn thuần là truyền miệng. Vậy thì giáo viên và
học sinh cũng nhƣ tất cả mọi ngƣời chúng ta phải gom góp, nhặt nhạnh tích
thành "kho tàng" của địa phƣơng.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN VÀ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ.
1. Xuất phát từ mục tiêu tiết dạy và mục đích của dạng bài "Chƣơng
trình địa phƣơng"
Rất may mắn, theo chƣơng trình đổi mới, SGK lớp 7 đƣợc Bộ giáo dục
sắp xếp một số tiết ngoại khoá "Chƣơng trình địa phƣơng" (Tiết 74, 133,
134)... nhằm cung cấp vốn sống: "Sƣu tầm ca dao tục ngữ lƣu hành ở địa
phƣơng, nhất là những câu đặc sức mang tính địa phƣơng (mang tên địa
3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
phơnƣg, nói về sản vật, di tích, thắng cảnh, danh nhân, sự tích, từ ngữ địa
phƣơng ...)" (SGK Ngữ văn 7 - Tập II).
Mục tiêu của tiết học này "Giúp học sinh sƣu tầm ca dao tục ngữ theo
chủ đề và bƣớc đầu biết chọn lọc, sắp xếp, tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Học
sinh tăng thêm sự hiểu biết và tỉnh cảm gắn bó với địa phƣơng, với quê hƣơng
mình". (SGK Ngữ văn 7 - Tập II).
Một số tiết học "Chƣơng trình địa phƣơng" theo giáo viên nhận xét, đánh
giá là những tiết học hay và bổ ích, có tác dụng giáo dục học sinh vô cùng sâu
sắc: vừa rèn cho học sinh có đức tính kiên trì (học hỏi, ghi chép, thu lƣợm),
vừa rèn ý thức khoa học (lựa chọn, sắp xếp các câu ca dao, tục ngữ theo thứ
tự ABC và tìm cách giải thích nội dung những câu ca dao tục ngữ đã sƣu tầm
đƣợc). Qua bài học này, học sinh lại có thêm những tri thức về địa phƣơng.
2. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh học trò.
Nhƣng làm thế nào để giúp học sinh lớp 7 sƣu tầm và lƣu giữ ca dao tục
ngữ lƣu hành ở địa phƣơng trong khi học sinh lứa tuổi này đa số còn hiếu
động, chƣa chăm, mau nhớ, chóng quên.
Mục tiêu của các tiết Ngoại khoá yêu cầu mỗi học sinh sƣu tầm ít nhất
20 câu ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng. Yêu cầu này đối với học sinh
lớp 7 quả là khó. Vì các em chƣa có vốn sống phong phú, dụng cụ học tập
nghèo nàn, hoàn cảnh gia đình nhiều em còn khó khăn; không có tiền mua
sách báo tham khảo. Dụng cụ học tập của các em chủ yếu là sách giáo khoa.
Một số học sinh có điều kiện tốt lắm cũng chỉ thêm đƣợc vài cuốn sách: Bài tập
trắc nghiệm, Bài tập Ngữ văn, ... đa số học sinh chƣa yêu thích môn văn học.
3. Thực tế giảng dạy của giáo viên (Thuận lợi, khó khăn)
Giáo viên chúng tôi ở vùng ngoại thành cũng gặp rất nhiều thuận lợi
trong công tác giảng dạy nhƣ đƣợc cấp trên đầu tƣ cho nhiều đồ dùng dạy
học, đƣợc giảng dạy tại một địa phƣơng có bề dày về vốn văn học dân gian,
nằm giữa vùng văn hoá dân gian lâu đời. Song chúng tôi còn gặp nhiều khó
khăn về phƣơng tiện dạy học. Trình độ sử dụng còn hạn chế, chất lƣợng băng
hình chƣa tốt (không rõ tiếng, hình ảnh chƣa nét ...) Có những bài chúng tôi
cần băng hình nhƣng đi tìm không có. Ví nhƣ băng hình lễ hội đền Cổ Loa,
Hội Gióng, Hội Chèm... nhƣng không sƣu tầm đƣợc cho nên chúng tôi giải
quyết những khó khăn ấy bằng cách thay thế vào đó là những bức tranh, ảnh,
biểu bảng để dùng trong giờ dạy.
4
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Từ những xuất phát điểm trên, tôi trăn trở và băn khoăn trƣớc một vấn
đề: "Làm thế nào giúp học sinh lớp 7 sƣu tầm và lƣu giữ ca dao tục ngữ
lƣu hành ở địa phƣơng, nói về địa phƣơng xã Cổ Loa" trong khi vốn sống
của các em còn non nớt, nghèo nàn, điều kiện dạy học của giáo viên còn khó
khăn.
Qua một năm thử nghiệm những biện pháp "Giúp học sinh lớp 7 sƣu
tầm và lƣu giữ ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng Cổ Loa" đã có kết
quả, tôi mạo muội để xuất trong đề tài này một vài biện pháp hữu hiệu.
III. PHẠM VI ĐỀ TÀI VÀ ĐỐI TƢỢNG KHẢO SÁT:
Đối tƣợng thử nghiệm của chúng tôi là học sinh lớp 7 vùng ngoại thành
các em đƣợc sinh ra và lớn lên trên đất Loa Thành lịch sử, có truyền thống
văn hoá lâu đời, cái nôi của văn hoá dân gian với những tích truyện hấp dẫn,
với những làn điệu dân ca ngọt ngào. Để đề tài đƣợc sâu sắc, phong phú, tôi
xin dừng ở phạm vi: "Sƣu tầm và lƣu giữ ca dao, tục ngữ lƣu hành ở xã
Cổ Loa". Dựa trên kết quả đạt đƣợc, tôi đã và đang bổ sung hoàn thiện cho
đề tài đƣợc hoàn chỉnh.
5
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
B. NỘI DUNG CHÍNH
I. NHẬN XÉT SƠ BỘ VỀ THỰC TRẠNG SOẠN BÀI CỦA HỌC SINH.
Từ trƣớc đến nay, ngƣời giáo viên muốn giờ dạy đạt kết quả cao thì
không thể bỏ qua khâu "Hƣớng dẫn về nhà". Trong việc hƣớng dẫn về nhà,
chúng tôi yêu cầu học sinh học bài cũ và chuẩn bị bài mới. Nhƣ thƣờng lệ sau
bài "Tục ngữ về thiên nhiên và lao động sản xuất", tôi dành 2 phút hƣớng dẫn
học sinh chuẩn bị cho tiết 74 "Chƣơng trình địa phƣơng": Hãy sƣu tầm ca dao
tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng. Mỗi em tìm ít nhất 20 câu. Tôi còn nhắc sâu:
các em chỉ sƣu tầm những câu ca dao tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng, nói về
địa phƣơng hoặc có liên quan đến địa phƣơng mình.
Đến tiết 74, tôi kiểm tra đồng loạt 38 em thì cả 38 em không tìm nổi 5
câu. Điều đó chứng minh rằng các em chƣa phát huy tính chủ động, chƣa chịu
học hỏi những ngƣời xung quanh. Cho nên để khích lệ học sinh tƣ duy, chủ
động làm việc, tôi đã thiết lập một vài biện pháp hữu hiệu, sát thực, phù hợp
với đối tƣợng.
II. NHỮNG BIỆN PHÁP CỤ THỂ:
Trƣớc thực trạng ấy, chúng tôi băn khoăn tìm hƣớng đi cho giờ dạy
"Chƣơng trình địa phƣơng": Sƣu tầm và lƣu giữ ca dao, tục ngữ lƣu hành ở
địa phƣơng Cổ Loa (Tiết 74, 133, 134). Vậy thì sƣu tầm và lƣu giữ bằng cách
nào?
Tiết 74, chúng tôi hƣớng dẫn học sinh sƣu tầm, mách cho học sinh
nguồn sƣu tầm: Hỏi ngƣời lớn, nghệ nhân, nhà văn, ngƣời già cả ..., tìm trong
các tạp chí văn học, sách báo của xã (Ban văn hoá xã), từ những tác phẩm văn
học viết về địa phƣơng.
1. Hƣớng dẫn học sinh sƣu tầm ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng.
a. Xác định nguồn sưu tầm cho học sinh:
Nhƣ trên tôi đã hƣớng dẫn học sinh tìm nguồn sƣu tầm, những nguồn
sƣu tầm ấy có tác dụng phụ trợ, bổ sung cho nhau thêm hoàn thiện hơn.
* Sưu tầm từ người lớn tuổi, nghệ nhân, nhà văn, người già cả ... đang sinh
sống ở địa phương.
6
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Thế hệ những ngƣời này có sự am hiểu dày dạn về địa phƣơng mình cƣ
trú. Họ hay tham gia các hoạt động cộng đồng, giao lƣu văn hoá, có những
ngƣời đã giữ những chức vụ chủ chốt trong lĩnh vực văn hoá xã (Trƣởng ban
văn hoá xã)... Họ có vốn hiểu biết phong phú về cội nguồn ca dao, tục ngữ.
Tôi đã khuyến khích các em phải biết "tận dụng" trí tuệ của họ: hãy về địa
phƣơng tìm cách hỏi ngƣời lớn trong xã mình và tôi mách cho các em một số
địa chỉ: Ông Chu Trinh (xóm Nhồi), ông Nguyễn Văn Viển (xóm Mít), ông
Lại Duy Lực (xóm Lan Trì), bà Nguyễn Thị Ngâm (xóm Mít)... Đây là những
địa chỉ các em có thể tìm đến để học hỏi.
* Sưu tầm từ các Tạp chí văn học, sách báo của xã:
Xã Cổ Loa là một xã có truyền thống văn hoá, có nhiều di tích lịch sử,
cách mạng, văn hoá đã đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng. Nối nghiệp truyền thống
cha anh, nhân dân Cổ Loa cũng nhƣ các cán bộ xã Cổ Loa thời nay đã và
đang gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp ấy. Đảng uỷ, UBND xã, các
cấp lãnh đạo đã kết hợp với Bƣu điện huyện Đông Anh đặt một trụ sở: Phòng
văn hoá xã chợ Sa - Cổ Loa. Nơi này Đảng uỷ đã lập phòng đọc để nhân dân
đến đây đọc sách báo, Tạp chí. Từ trẻ em đến ngƣời già đều có quyền đến
đây học hỏi, giao lƣu văn hoá và cũng tại nơi đây có rất nhiều tƣ liệu quý giá
mà tôi và các em học sinh đang cần đến. Chỉ có điều từ xƣa đến nay, các em
thích tìm đến đây với mục đích đọc "Đôrêmon", "Bảy viên ngọc rồng" ...
Song giáo viên có biện pháp động viên khích lệ đúng đắn, đƣa ra chỉ tiêu
phấn đấu để các tổ thi đua nhau, thì với lứa tuổi hiếu thắng, học sinh lớp 7 sẽ
đến đây với mục đích lục tìm tƣ liệu để sƣu tầm ca dao, tục ngữ.
* Sưu tầm từ các tác phẩm văn học cổ xưa hầu như ít ai biết đến.
Cổ Loa là mảnh đất địa linh nhân kiệt, Cổ Loa không chỉ đƣợc Nhà nƣớc
xếp hạng di tích lịch sử mà nơi này còn đƣợc mệnh danh là đất thiêng "Đất
thiêng tất xuất ngƣời tài". Cái nôi đào tạo cán bộ cao cấp của Đảng nhƣ ông
Đào Duy Tùng (Uỷ viên Bộ chính trị), Trần Trung (Thứ trƣởng Bộ vật tƣ những năm 80), Ông Nguyễn Quốc Thái (Thứ trƣởng Bộ nông nghiệp những
năm 1980), không những thế Cổ Loa sản sinh ra nhiều ngƣời con ƣu tú là nhà
văn, nhà thơ nhƣ ông Chu Trinh (xóm Nhồi), Trƣơng Quang Hoằng (xóm
Hƣơng) ... Họ có một kho tàng tri thức phong phú về địa phƣơng Cổ Loa với
những tập "Dấu xƣa" (Nhà xuất bản Hội nhà văn); "Cổ Loa thánh tích" (Nhà
xuất bản Hà Nội - 1968). Trong những tác phẩm ấy họ viết về phong tục, tập
quán, truyền thống lịch sử, văn hoá của xã nhà. Họ đã sử dụng một số câu ca
7
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
dao, dân ca, tục ngữ lƣu truyền trong nhân dân. Nhƣng những cuốn sách này
ít ai biết đến. Chỉ khi nào ta để ý đến nó, quý trọng nó thì ta mới biết đến
những con ngƣời này. Tôi biết đƣợc điều này nhân tình cờ vào phòng văn hoá
- xã hội của xã mƣợn sách và lục tìm đƣợc 2 quyển sách cũ kỹ, sờn mép, rách
bìa, mất góc. Tôi mách học sinh đến đó để tìm đọc.
b. Giáo viên kiểm tra kết quả sưu tầm của học sinh.
Tôi nghĩ rằng cung cấp cho học sinh nguồn sƣu tầm giống nhƣ việc tung
cho học sinh cái phao khi tập bơi. Còn học sinh có chịu tập hay không và có
bơi tốt hay không thì ngƣời giáo viên cần phải sát sao đôn đốc, nhắc nhở,
kiểm tra. Việc sƣu tầm ca dao, tục ngữ cũng vậy, nếu giáo viên không có biện
pháp kiểm tra, đôn đốc thƣờng xuyên thì có khác gì đánh trống bỏ dùi.
* Kiểm tra thường xuyên định kỳ.
Công việc sƣu tầm đƣợc thực hiện trong 10 tuần đầu của học kỳ II.
Trong 10 tuần này, tôi yêu cầu học sinh cứ mỗi tuần cô sẽ kiểm tra 1 lần vào
ngày thứ 2 đầu tuần. Tổ nào sƣu tầm chăm chỉ, tích cực hơn, sƣu tầm đƣợc
nhiều hơn, cô sẽ thƣởng. Các em rất hiếu thắng, ai cũng muốn tổ mình hơn
nên các em thi đua nhau rất quyết liệt. Và kết quả không ngờ, chỉ sau 5 tuần
các tổ đã đạt chỉ tiêu tối thiểu: 20 câu, có tổ các em còn sƣu tầm đƣợc trên 20
câu (tổ 3 và 4).
* Xác minh, kiểm nghiệm tính đúng đắn, xác thực của nguồn tư liệu.
Để đảm bảo tính xác thực của những tƣ liệu, tôi tìm đến gặp gỡ và tiếp
cận với các nguồn sƣu tầm. Theo báo cáo của học sinh, tôi tìm đến nhà ông
Chu Trinh, năm nay ông 78 tuổi, địa chỉ: Xóm Nhồi - xã Cổ Loa. Ông là
thƣơng binh 1/4. Ông làm Trƣởng ban văn hoá xã Cổ Loa từ năm 1953, suốt
30 năm giữ chức vụ này ông rất tâm huyết với sự nghiệp văn hoá xã nhà. Tôi
muốn kiểm nghiệm lại nguồn tƣ liệu và thấy rằng học sinh đã thu lƣợm học
hỏi đƣợc rất nhiều nguồn ca dao, tục ngữ quý giá nói về địa phƣơng Cổ Loa
từ ông.
Nhƣ trên đã nói, tôi tìm thấy hai cuốn sách cũ kỹ xuất bản từ những năm
1968 có ghi chép những tƣ liệu rất quý. Trên trang đầu tập sách "Loa Thành
thánh tích" có in câu đối bằng phiên âm chữ Hán, nguyên văn nhƣ sau:
"Lạc quốc thuỷ kinh doanh ngũ thập niên, tiền thần chính tích.
Loa Thành vô kim cổ ức thiên tải hậu thánh phong thanh"
8
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Tôi tìm đến ông Chu Trinh (một trong các tác giả của cuốn sách đó) nhờ
ông giảng nghĩa dùm. Đôi câu đối kia diễn Nôm nhƣ sau:
"Năm mươi năm chiến tích còn đây, khi khởi thuỷ sửa sang nước Lạc.
Ngàn vạn thuở tiếng tăm để lại, khắp xưa nay duy mỗi thành Loa"
Ý nghĩa của hai câu này muốn ca ngợi An Dƣơng Vƣơng và giá trị của
Loa Thành. Kể từ ngày lên ngôi cho đến lúc nƣớc Âu Lạc bị rơi vào tay Triệu
Đà, An Dƣơng Vƣơng toạ ngôi đƣợc 50 năm. Trong 50 năm ấy, đức vua có
công sửa sang xây dựng đất nƣớc Âu Lạc vững mạnh, xây thành đắp luỹ, chế
nỏ thần ... để lại biết bao chiến tích tiếng tăm để lại muôn đời. Tên tuổi An
Dƣơng Vƣơng gắn liền với Loa Thành, một toà thành kiên cố, vĩ đại, cổ xƣa
nhất đất nƣớc.
Đôi câu đối trên mở đầu cho cuốn sách "Loa Thành thánh tích" (Xuất
bản năm 1968). Nội dung cuốn sách: các tác giả viết về quá trình hình thành
và phát triển của nƣớc Âu Lạc cùng phong tục tập quán, vị trí địa lý, lề lối
sinh hoạt của nhân dân Cổ Loa xƣa trong đó có dùng một vài câu ca dao. Đối
chiếu với kết quả học sinh sƣu tầm, tôi thấy học sinh cóp nhặt đƣợc những
câu ca dao có trong tập sách đó.
Nhƣ vậy, bằng một vài biện pháp tôi đã khích lệ, động viên học sinh
hoàn thành văn bản sƣu tầm của mình trong 5 đến 7 tuần sau khi hƣớng dẫn.
Nhƣng để học sinh trân trọng lƣu giữ nó, tôi đã tiến hành một vài biện pháp
hữu hiệu (thực hiện trong tiết 133, 134).
2. Hƣớng dẫn học sinh lƣu giữ ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng.
Trong ca dao, tục ngữ mỗi một tên đất, tên làng, tên một thổ nghi (đặc
sản)... đều gợi lên một dấu ấn nào đó trong đời sống tinh thần, truyền thống
văn hoá, phong tục tập quán ... của nhân dân ta xƣa. Bổn phận của thế hệ
chúng ta phải lƣu giữ nó.
a. Chọn lọc, sắp xếp, biên tập lại các câu ca da, tục ngữ theo chủ đề.
Để giúp học sinh lƣu giữ thuận lợi hơn, tôi cùng các em chọn lọc, sắp
xếp, biên tập lại các câu ca dao, tục ngữ theo những chủ đề nhất định.
Thứ nhất, các tổ báo cáo kết quả, giáo viên là ngƣời tổng hợp loại bỏ
những câu trùng lặp của tổ. Giáo viên nhận xét, đánh giá công việc sƣu tầm,
bình điểm cho các tổ.
9
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Thứ hai, tôi hƣớng dẫn học sinh sắp xếp biên tập lại thứ tự ABC các câu
ca dao, tục ngữ (dựa vào chữ cái đầu câu) theo từng chủ đề. Sau khi sàng lọc,
sắp xếp, các em đƣợc một văn bản sƣu tầm:
VĂN BẢN SƢU TẦM
* Ca dao:
- Chủ đề: Ca dao về tình cảm con ngƣời (tình bạn, tình ngƣời, tình yêu
làng xóm, quê hƣơng).
Câu 1:
Loa Thành khắp mọi miền quê
Một làng trăm họ tụ về sống chung.
Câu 2:
Thuần phong mĩ tục tâm đồng
Xứng danh con Lạc, cháu Hồng Cổ Loa
- Chủ đề 2: Ca dao về vị trí địa lý, thuần phong, mĩ tục, dấu ấn lịch sử,
văn hoá.
Câu 3:
Ai về thăm huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục Vương
Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây
Câu 4:
Ai về thăm huyện Đông Ngàn
Ghé xem thành ốc Rùa Vàng tiên xây
Căm hờn giếng Ngọc tràn đầy
Máu pha thành luỹ ngàn cây bóng tà.
Câu 5:
Chết thì bỏ con bỏ cháu
10
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Sống không bỏ hội mồng sáu tháng giêng.
Câu 6:
Chợ Chờ, chờ đợi người đi
Qua núi Thất Diệu hiểm nguy chết người.
Câu 7:
Cổ Loa bóng cả cây cao
Địa hình nhân kiệt tụ vào thành đô.
Câu 8:
Diệu Sơn qua lại yên bình
Hai nghìn năm lẻ kê tinh hết rồi
Câu 9:
Đống Chuông, Đồng Bãi, Đồng Chầm
Mỗi tên một nghĩa ta cần hiểu sâu
Câu 10:
Loa Thành di chỉ rất giầu
Kho tàng cổ vật nằm sâu địa bàn
Câu 11:
Mồng sáu tháng giêng đăng quang
Thục cháu Hoàng đế ngai vàng tôn vinh
Câu 12:
Mười ba tháng tám thành Loa
Ăn sêu Bà Chúa ấy là Mỵ Châu
Câu 13:
Ngày xưa lễ hội Cổ Loa
Được mùa nghênh rước mười ba ngày liền
Câu 14:
Nỏ thần sức mạnh dân Nam
Chỉ sông sông cạn, núi ngàn giặc tan
Câu 15:
Thánh đế, Thường Đỏ thánh hiền
11
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Đống Giáo, Đống Bắn, Vườn Thuyền, Gồ Vôi
Câu 16:
Thành ốc bao bọc đế đô
Thục Vương dựng nước cơ đồ sáng tươi
Câu 17:
Viên Lôi, Thượng Ngõ, Cự Nê
Ngô Thị, Hậu Miếu, Quan Kê chung làng
Chạ Lan, Dũng Thượng, Đa Bang
Hương giai lập xóm sau làng cổ xưa
Câu 18:
Vườn Thuyền, Ao Mắm cổ xưa
Bán mua tấp nập, lụa tơ tràn đầy.
* Tục ngữ về vị trí địa lý, dấu ấn lịch sử, văn hoá:
Câu 19:
Quậy ủ Chủ tươi, Quậy cười Chủ khóc
Câu 20:
Thứ nhất lễ hội Cổ Loa
Thứ hai hội Gióng
Thứ ba hội Chèm
Vì khuôn khổ bài viết và thời gian có hạn, tôi chỉ xin trích lục 20 câu ca
dao, tục ngữ đang lƣu hành ở địa phƣơng Cổ Loa, một địa danh đã đi vào lịch
sử của nƣớc nhà với nƣớc dấu son chói lọi.
b. Tìm hiểu ý nghĩa, chọn bình giảng một số câu hay:
Ca dao, tục ngữ là kho tàng tri thức vốn sống của nhân dân Cổ Loa từ
xƣa đến nay. Muốn cho học sinh gắn bó, quý trọng và lƣu giữ ca dao, tục ngữ
thì trƣớc hết, các em phải hiểu về nó, sống với nó. Bởi vậy trong tiết 133, tôi
dành 25 phút giúp học sinh sắp xếp các câu ca dao tục ngữ tìm đƣợc thành
một Văn bản sƣu tầm, 20 phút còn lại của tiết 133 tôi dành để hƣớng dẫn
12
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
học sinh tìm hiểu ý nghĩa của các câu ca dao, tục ngữ tìm đƣợc và chọn bình
giảng một số câu hay, có tác dụng giáo dục đạo đức, nhân cách, trách nhiệm
của học sinh, giúp các em thêm yêu quý địa phƣơng mình.
Theo F. Hê-ghen: "Ca dao là một trong những dòng chính của thơ trữ
tình". Chức năng ca dao là diễn tả đời sống tâm hồn của nhân dân ta. Ngƣời
giáo viên làm thế nào để chuyển tải đời sống tâm hồn ấy đến với học sinh. Từ
đó các em tƣ duy nâng lên thành cảm nhận suy nghĩ của mình. Các em sinh
ra và lớn lên ở một địa phƣơng có bề dày lịch sử. Vậy các em hiểu gì về địa
phƣơng mình? Cho nên, tôi chọn giảng, giải thích 2 câu:
Câu 5: (Theo thứ tự Văn bản sƣu tầm)
Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống không bỏ hội mồng sáu tháng giêng
và câu 19: (theo thứ tự Văn bản sƣu tầm)
Quậy ủ Chủ tươi, Quậy cười Chủ khóc
Thông qua câu 5, tôi giúp các em hiểu sâu hơn về sự kiện An Dƣơng
Vƣơng xây dựng kinh đô Âu Lạc. Tƣơng truyền trong dân gian kể rằng: Cuối
đời Hùng Duệ Vƣơng không có con trai, vua Hùng cho kén rể để kế ngai
rồng. Vua tổ chức cuộc thi cả văn và võ. Sơn Thánh (tên gọi Thục Phán - An
Dƣơng Vƣơng) vào ứng thí:
"Võ siêu quần bạt núi lấp sông
Văn nghiên bút cửu long bay lượn"
Tài đức của Sơn Thánh khiến vua Hùng nể phục, quần thần, dân chúng
kính nể. Phò mã Sơn Thánh đƣợc Vua Hùng cho kế nghiệp ngai rồng. Sau khi
vua Hùng mất, Thục Phán lên ngôi (Hôm đó ngày 6 tháng giêng -Lịch sử Việt
Nam - Tập I). Từ đấy, cứ đến ngày 6 tháng giêng, nhân dân Âu Lạc mở hội tế
lễ, tƣởng nhớ đến công đức của An Dƣơng Vƣơng. Chính vì vậy nhân dân có
câu:
Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống không bỏ hội mồng sáu tháng giêng
để nhấn mạnh tầm quan trọng cũng nhƣ lòng biết ơn của nhân dân đối với An
DƣơngVƣơng.
13
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Sự việc An Dƣơng Vƣơng lên ngôi còn liên quan đến ý nghĩa của câu
tục ngũ "Quậy ủ Chủ tƣơi, Quậy cƣời Chủ khóc". An Dƣơng Vƣơng rời đô từ
Bạch Hạc (Phú Thọ) về vùng đất Kẻ Chủ (Cổ Loa- Đông Anh ngày nay) cao
ráo mà bằng phẳng, đất đai màu mỡ. Nhân dân vùng Kẻ Chủ tự nguyện
nhƣờng đất để nhà vua xây thành, dựng kinh đô. Nhân dân rời về vùng Quậy
(thuộc xã Liên Hà - Đông Anh).
Bởi vậy, trong dân gian lƣu truyền câu ca:
"Tổ tiên làng Quậy xưa Cổ Loa
Vua Thục dựng đô hiến quê nhà"
Vùng Quậy là đồng chiêm trũng, hễ mƣa nhiều thì mất mùa, mƣa ít đƣợc
mùa. Ngƣợc lại, Kẻ Chủ là vùng đất cao ráo, hễ mƣa nhiều thì đƣợc mùa, mà
mƣa ít thì mất mùa(câu này nói về vị trí địa lý hai làng Quậy và Chạ Chủ (Kẻ
Chủ)). Nhƣng dù thế nào, hai làng luôn kết tình anh em hoà hảo, no đói có
nhau:
"Mấy nghìn năm nghĩa tình nguyên vẹn
Thủ túc muôn đời Quậy, Cổ Loa"
Mục đích của việc dạy Văn góp phần hình thành nhân cách học sinh.
Nhà phê bình Hoài Thanh có nói: "Văn chương gây cho ta những tình cảm ta
không có, luyện những tình cảm ta sẵn có". Bất cứ dạy một giờ văn nào mục
tiêu của ngƣời giáo viên cũng nhằm giáo dục nhân cách, bồi đắp tƣ tƣởng tình
cảm cho học sinh. Giờ "Chƣơng trình địa phƣơng", tôi càng coi trọng mục
tiêu này. Vì qua những hiểu biết về giá trị tinh thần của nhân dân ta, các em
cần có thái độ trân trọng ca dao, tục ngữ và tìm cách bảo tồn, lƣu giữ nó. Và
các em phải hiểu về nó. Ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng Cổ Loa
thƣờng gắn với một tên đất, tên làng, một dấu ấn cụ thể ... Mỗi một địa danh,
tên tuổi ... mà ca dao, tục ngữ đề cập đến đều có những đặc trƣng tiêu biểu.
Các em cần phải hiểu những tên đất, tên làng cổ xƣa thƣờng dùng, ngày nay ít
ngƣời hiểu. Vậy thì nhiệm vụ của giáo viên là phải giảng giải cho học sinh.
Tôi đơn cử một ví dụ:
Câu 15: (Theo thứ tự Văn bản sƣu tầm)
Thánh đế, Thường Đỏ, thánh hiền
Đống Giáo, Đống Bắn, Vườn Thuyền, Gồ Vôi
Những địa danh trên đây ở đâu, có ý nghĩa gì.
14
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
- Thánh đế: Gò đất nhỏ nằm sau xóm Dõng (Cổ Loa), nơi này nhân dân
trong xóm lập miếu thờ An Dƣơng Vƣơng.
- Cầu Thƣờng Đỏ: Cạnh miếu thờ quan Trấn Võ (đặt trên Thành Trung)
- Đống Giáo, Đống Bắn: Cạnh Đồng Đô (Cổ Loa) cách xƣởng phim
Đông Anh khoảng 2 cây về phía Tây. Đây là nơi tập luyện bắn cung, nỏ (còn
gọi là trƣờng bắn) của quân đội nhà vua.
- Vƣờn Thuyền: Đối diện Trạm xá xã Cổ Loa. Đây từng là nơi buôn bán
sầm uất của kinh đô Âu Lạc.
- Gồ Vôi: Nằm trên vòng thành Trung, giáp địa phận làng Gia Lƣơng
(Việt Hùng).
(Ghi theo lời giải thích của ông Chu Trinh)
Với mục tiêu giúp học sinh hiểu về ca dao, tục ngữ tôi đã tiến hành giải
nghĩa và bình giảng một số câu hay. Đây là những câu ca dao rất gần gũi với
địa phƣơng, nơi các em sinh ra và lớn lên. Vì vậy, tôi thấy học sinh rất chăm
chú và hứng thú lắng nghe.
c. Ghi chép vào sổ tư liệu.
Để cho việc lƣu giữ có hiệu quả hơn, tôi còn yêu cầu học sinh ghi chép
vào sổ tƣ liệu. Đây là cuốn sổ mà chúng tôi yêu cầu học sinh phải chuẩn bị
ngay từ khi các em bƣớc vào cấp II. Chúng tôi thống nhất trong tổ nhóm: phải
yêu cầu học sinh lập sổ tƣ liệu. Cuốn sổ này để ghi chép lời hay, ý đẹp, những
tƣ liệu quý giá. Đối với ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng, tôi cho rằng
đây là những tƣ liệu quan trọng bổ ích, các em cần ghi chép tích luỹ. Từ đó
nâng cao dần cho học sinh khả năng tích luỹ, làm giàu vốn sống, phục vụ cho
việc viết văn.
d. Bổ sung vào Tập san Văn học của nhà trường.
Để nhân rộng đề tài và đề tài có hiệu quả hơn, tôi đã bổ sung tƣ liệu:
Đánh máy những câu ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng đã tìm đƣợc bổ
sung vào Tập san Văn học của nhà trƣờng. Đây là cuốn Tập san quý giá mà
tổ tôi dƣới sự gợi ý của các cấp lãnh đạo đã hình thành đƣợc 3 năm nay.
Trong Tập san này có đăng những bài thơ hay, những câu chuyện hấp dẫn của
thầy trò đoạt giải các cấp huyện, thành phố ... nhƣ cô Bùi Thu Hà với bài
"Thƣơng thời ấu thơ" giải nhất cuộc thi sáng tác thơ lục bát do Công đoàn
huyện Đông Anh tổ chức, cô Ngô Hƣơng Lan (Cháu nội nhà văn Ngô Tất Tố)
15
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
giải nhì (cũng cuộc thi trên)... Những câu ca dao, tục ngữ quý giá này cũng rất
đáng đƣợc nâng niu, gìn giữ. Cho nên tôi cho đánh máy, bổ sung vào cuốn Tập
san cho phong phú hơn. Vào thứ 7 hàng tuần, tôi cho nhóm phát thanh viên phát
trên loa đài của trƣờng dƣới hình thức Chuyên san: Giáo dục truyền thống địa
phƣơng.
e. Tổ chức các hoạt động Ngoại khoá xoay quanh chủ điểm "Sƣu tầm và
lƣu giữ ca dao, tục ngữ lƣu hành ở địa phƣơng"
* Tổ chức các trò chơi phù hợp lứa tuổi.
Hoạt động này trƣớc tiên tôi tiến hành thử nghiệm ở lớp tôi dạy. Vì đối
tƣợng học sinh chỉ trong phạm vi 1 lớp: 38 em mà thời gian 1 tiết học hạn
hẹp. Tôi dành 10 phút đầu của tiết 134 cho công việc ghi vào sổ tƣ liệu còn 35
phút sau, tôi tổ chức cho học sinh các trò chơi để kiểm tra trình độ sƣu tầm và
lƣu giữa trong trí nhớ của trò, đồng thời kiểm tra cả trình độ hiểu biết về thơ
lục bát, vần nhịp ...
Ví dụ: Trò chơi: Điền từ vào chỗ trống:
Câu 4: (Theo thứ tự Văn bản sƣu tầm)
"Ai về thăm huyện .........................
Ghé xem .................... Rùa Vàng tiên xây"
Câu 12: (Theo thứ tự Văn bản sƣu tầm)
..................... Thành Loa
Ăn sêu Bà Chúa ấy là Mị Châu"
Đáp án:
Câu 4: Đông Ngàn (tên gọi cũ của Đông Anh)
Câu 12: Mƣời ba tháng tám (ngày Mị Châu đƣợc Triệu Đà cho ngƣời
sang dạm hỏi về làm con dâu)
+ Trò chơi: Thi tiếp sức.
Tôi chia lớp thành 4 đội. Tôi chuẩn bị 4 bảng phụ, mỗi đội 1 bảng. Trong
vòng 10 phút đội nào ghi ra bảng đƣợc nhiều câu ca dao tục ngữ liên quan đến
địa phƣơng nhất thì đội đó sẽ thắng. Các em có thể thay phiên nhau lên viết
tiếp các câu mà bạn mình chƣa viết. Giờ học sinh đông, vui nhộn và học sinh
vô cùng thích thú.
* Tổ chức: Du lịch Cổ Loa qua ca dao:
16
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Hoạt động này tôi lồng ghép trong chƣơng trình các buổi ngoại khoá của
khối 7. Từ mấy năm trở lại đây, hoạt động ngoại khoá, CLB bộ môn ở trƣờng
tôi phát triển rất mạnh mẽ. Môn Văn - Sử - Công Dân, mỗi tháng 1 kỳ, chúng
tôi tổ chức một buổi Ngoại khoá. Trong mỗi một buổi, chúng tôi có phần
"Dành cho khán giả" dƣới hình thức: Du lịch Cổ Loa qua ca dao. Chúng tôi
chọn 5 em đi du lịch Cổ Loa bằng cách đọc các câu ca dao, tục ngữ nói về địa
danh Cổ Loa. Lần lƣợt từ trái sang phải ai đọc nhiều nhất (ngƣời đó về sau
cùng) sẽ thắng và đƣợc động viên bằng một phần thƣởng của Ban tổ chức.
Bằng một số biện pháp trên, tôi đã giúp học sinh lƣu giữ, trân trọng và
hiểu về ca dao, tục ngữ nói về địa phƣơng Cổ Loa.
g. Kết hợp với chính quyền đoàn thể thôn xóm làng xã cùng giữ gìn, trân trọng.
Kho tàng ca dao, tục ngữ về địa phƣơng Cổ Loa là một vốn văn hoá vô
cùng quý báu của nhân dân ta. Nhƣng hiện nay kho tàng ấy bị thất tán, tản
mạn rất nhiều. Những tƣ liệu mà tôi và học sinh sƣu tầm đƣợc đa số từ ngôn
ngữ truyền miệng của những ngƣời già cả, có tuổi trong xã nhƣ ông Chu
Trinh (78 tuổi), ông Nguyễn Văn Viển (76 tuổi), bà Nguyễn Thị Ngâm (74
tuổi). Chúng tôi tìm đƣợc rất ít trong sách báo của xã những câu mang đậm
tính ca dao, dân ca, tục ngữ. Nếu thế hệ cao tuổi không còn nữa, chúng ta sẽ
mất đi những nguồn văn hoá quý giá. Vậy trách nhiệm của thế hệ chúng ta
phải trân trọng lƣu giữ nó.
Tôi đã tham mƣu với Phòng văn hóa - thông tin xã in ấn đầu sách có tên
"Ca dao, tục ngữ Cổ Loa". Và chúng ta phải nghiêm túc huy động trí tuệ tối
đa của nhân dân để tập hợp tƣ liệu.
Bên cạnh đó, tôi cũng đề nghị đoàn thể trong xã nhƣ Chi đoàn, Hội
ngƣời cao tuổi ... dấy lên những cuộc thi: Sƣu tầm ca dao tục ngữ nói về địa
phƣơng, ngâm vịnh về ca dao tục ngữ ở địa phƣơng.... Từ đó có tác dụng khơi
dậy truyền thống ngàn năm văn hiến của đất đế đô.
III. KẾT QUẢ THỰC HIỆN:
Qua gần một năm thực hiện những biện pháp trên, tôi có so sánh đối
chiếu hai lớp dạy, tôi thấy kết quả nhƣ sau:
1. Lớp 7C:
Thực hiện tuần tự nhƣ SGK, giáo viên chƣa đầu tƣ thoả đáng về công
đoạn hƣớng dẫn, cách thức tiến hành...
17
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
a. Về số lượng:
- Số học sinh tìm đƣợc 20 câu: 0
- Số học sinh tìm đƣợc 15 câu: 0
- Số học sinh tìm đƣợc 10 câu: 0
- Số học sinh tìm đƣợc 5 câu: 15 em
- Số học sinh tìm đƣợc 3 câu: 13 em.
b. Về chất lượng:
- Tôi thấy học sinh chƣa hứng thú học.
- Học sinh còn hiểu mơ hồ
- Những buổi ngoại khoá ngoài trời ít học sinh đoạt giải.
- Không hiểu những câu các bạn đọc trên loa phát thanh của trƣờng.
2. Lớp 7E:
Áp dụng những biện pháp trên, tôi thấy:
a. Về số lượng:
- Học sinh tìm đƣợc 20 câu: 30 em
- Học sinh tìm đƣợc 15 câu: 8 em
b. Về chất lượng:
- Học sinh thích thú học những tiết Ngoại khoá, đặc biệt là những tiết
học liên quan đến địa phƣơng.
- Học sinh yêu thích ca dao tục ngữ.
- Học sinh đƣợc làm giàu vốn sống: có thêm hiểu biết về gốc gác, lịch sử
địa phƣơng: tên đất, tên làng, tên danh nhân ... ở nơi mình sinh ra và lớn lên.
- Học sinh đƣợc bồi đắp tình yêu làng xóm quê hƣơng, tinh thần tự hào
về địa phƣơng mình.
- Học sinh có thể sẵn sàng trở thành hƣớng dẫn viên du lịch giới thiệu
cho khách thập phƣơng biết đến những sự tích, dấu ấn lịch sử, những truyền
thống lịch sử, văn hoá của xã nhà. Và tất cả chúng ta đều có quyền tự hào về
mảnh đất địa linh nhân kiệt, thế rồng cuộn hổ ngồi:
"Loa thành mảnh đất tam Đế Vương
18
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đỗ Thị Kim Hoà
Thục, Ngô, Phật Tử chống bạo cường"
(Chu Trinh)
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
- Từ kết quả trên và các kết quả của những giờ giảng văn trƣớc đó, tôi
rút ra một số kinh nghiệm: Muốn thành công phải đầu tƣ thời gian cho bài
dạy, thiết lập những cách thức tiến hành cho từng dạng bài. Và đặc biệt chú
trọng sử dụng những phƣơng tiện dạy học: Tƣ liệu gốc, biểu bảng ...
- Đối với những tiết Ngoại khoá, ngƣời giáo viên nên linh hoạt tổ chức
nhiều hình thức phong phú, sinh động hấp dẫn học sinh.
- Giáo viên cần có quá trình tích luỹ thƣờng xuyên. Trƣớc khi dạy bài
này, tôi đã phải trăn trở và băn khoan nhiều: lục tìm tƣ liệu, gặp gỡ nhiều
ngƣời cao tuổi trong xã... để nhặt nhạnh, tích cóp có đƣợc kiến thức tối thiểu
về ca dao, tục ngữ ở địa phƣơng.
- Về phía học sinh, ngƣời giáo viên cần có biện pháp để khích lệ (động
viên khen thƣởng) học sinh chủ động lĩnh hội và giải quyết tình huống có vấn
đề. Giáo viên chỉ là ngƣời kiểm tra, sửa chữa, bổ sung những chỗ thiếu sót ở
học sinh.
- Giáo viên cũng nên hƣớng dẫn học sinh có những cuốn Sổ tƣ liệu để
tích luỹ vốn sống, tự làm giàu trí tuệ của mình. Đối với những học sinh khá
giỏi đây là việc làm thích thú và thiết thực. Còn đối với học sinh trung bình
trở xuống, giáo viên thƣờng xuyên có biện pháp kiểm tra công việc ghi chép,
tích luỹ, hàng tháng có nhận xét, đánh giá, xếp loại Sổ tƣ liệu.
Tôi thiết nghĩ không chỉ môn Văn mà đối với các môn khác học sinh
cũng nên có sự tích luỹ.
19
- Xem thêm -