Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Skkn gdcd ; một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua phần “công ...

Tài liệu Skkn gdcd ; một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua phần “công dân với đạo đức” môn giáo dục công dân lớp 10

.DOC
43
118
111

Mô tả:

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, đất nước ta chuyển mình trong công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Với công cuộc đổi mới, chúng ta có nhiều thành tựu to lớn rất đáng tự hào về phát triển kinh tế xã hội, văn hóa - giáo dục. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường cũng ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp giáo dục, trong đó sự suy thoái về đạo đức và những giá trị nhân văn tác động đến một phần lớn thanh niên và học sinh như: có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ, thiếu hoài bão, lập thân, lập nghiệp; những tiêu cực trong thi cử, bằng cấp, chạy theo thành tích. Thêm vào đó, sự du nhập văn hoá phẩm đồi truỵ thông qua các phương tiện như phim ảnh, game, mạng Internet… làm ảnh hưởng đến những quan điểm về tình bạn, tình yêu trong lứa tuổi thanh thiếu niên và học sinh, nhất là các em chưa được trang bị và thiếu kiến thức về vấn đề này. Từ nhiều năm nay, vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường được xem là mục tiêu hàng đầu, vì đây là sự quyết định tương lai của các em sau này, giáo dục đạo đức cho học sinh THPT là giúp các em có nhận thức đúng trong lối sống, tư duy và hành động. Sự hình thành phát triển về nhân cách, mục tiêu của giáo 1 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội dục là nhằm định hướng cho con người thực hiện tốt cả hai mặt “Vừa hồng, vừa chuyên” công tác giáo dục trong nhà trường tiến hành tốt là cơ sở để nâng cao chất lượng, hành vi của con người, cho nên trong công tác giáo dục đạo đức cho học sinh THPT không thể xem nhẹ. Đánh giá thực trạng giáo dục, đào tạo Nghị quyết TW 2 khóa VIII nhấn mạnh: “Đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước. Trong những năm tới cần tăng cường giáo dục tư tưởng đạo đức, ý thức công dân, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh… tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hoá, thể thao phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện”. Thực tế trường THPT Văn Chấn nói chung và Phân hiệu Nghĩa Tâm nói riêng đang rất quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho học sinh, coi đây là vấn đề hàng đầu trong việc hình thành nhân cách con người và chỉ đạo tất cả cán bộ, giáo viên, nhân viên làm tốt công tác này. Mặt khác thầy giáo, cô giáo là những tấm gương sáng cho học sinh noi theo, vì vậy giáo dục đạo đức cho học sinh phải được thực hiện ngay từ khi các em bước vào nhà trường. Vì những lí do đó tôi chọn đề tài “Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10”. 2. Mục đích nghiên cứu - Việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong nhà trường là để hình thành và phát triển về nhân cách có thái độ cư xử lịch sự nhã nhặn đối với người lớn, ông bà, thầy 2 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội cô, bạn bè …Giáo dục các em có định hướng đúng cho cuộc sống sau này, tránh xa lối sống vô đạo đức, suy đồi bản chất con người xã hội chủ nghĩa. Giáo dục đạo đức cho học sinh tức là làm cho các em trở thành người giàu lòng yêu thương con người, phong cách lịch sự, hành vi ứng xử có văn hóa, biết tôn trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. - Hình thành cho các em có lòng trung thực, tự giác trong học tập, ý thức chấp hành kĩ luật, tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, sống hòa thuận với anh chị em, hòa nhã với bạn bè, biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh cộng đồng, bảo vệ tài sản chung. Giáo dục cho các em ý thức tự đánh giá bản thân, dũng cảm sửa chữa sai lầm, có lối sống vì mọi người không tham gia tệ nạn xã hội . 3. Đối tượng nghiên cứu Học sinh lớp 10, Phân hiệu Nghĩa Tâm - Trường THPT Văn Chấn. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu - Đề tài được tiến hành nghiên cứu ở Phân hiêụ Nghĩa Tâm - trường THPT Văn Chấn tỉnh Yên Bái - Nghiên cứu về thực trạng và biện pháp giáo dục đạo đức học sinh của trường THPT nơi tôi công tác trong năm học 2011-2012 và năm học 2012 – 2013. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Đánh giá, phân tích thực trạng việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở Phân hiệu Nghĩa Tâm - trường THPT Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. 3 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội - Đề xuất biện pháp quản lý giáo dục đạo đức học sinh ở Phân hiệu Nghĩa Tâm - trường THPT Văn Chấn, tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu lý luận, xử lý thông tin: Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa các tài liệu, văn bản liên quan đến đề tài. Những kiến thức về tâm lý học lứa tuổi, tâm lý học sư phạm, giáo dục học và những quan điểm đường lối của Đảng, các văn bản của Bộ giáo dục và Đào tạo về đánh giá xếp loại, khen thưởng và kỷ luật học sinh. - Phương pháp theo dõi, quan sát: Đánh giá công tác giáo dục đạo đức học sinh của trường trong các năm học. Đưa ra một số kinh nghiệm biện pháp về việc thực hiện công tác giáo dục đạo đức cho học sinh của trường trong giai đoạn hiện nay. - Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát các hoạt động giáo dục đạo đức của nhà trường; Phương pháp phỏng vấn; Phương pháp thống kê, xử lý số liệu. 7. Thời gian nghiên cứu Thực hiện trong năm học 2011 – 2012 và năm học 2012 – 2013. 8. Cấu trúc đề tài nghiên cứu Phần I: Mở đầu Phần II: Nội dung của đề tài Chương I: Cơ sở lý luận về giáo dục đạo đức học sinh 4 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội Chương II: Thực trạng giáo dục đạo đức học sinh ở Phân hiệu Nghĩa Tâm – trường THPT Văn Chấn Chương III: Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 Phần III: Kết luận và kiến nghị 5 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH 1. Khái niệm về đạo đức Đạo đức là một hệ thống những quy tắc, những chuẩn mực mà qua đó con người tự nhận thức và điều chỉnh hành vi của mình vì hạnh phúc của cá nhân, lợi ích của tập thể và cộng đồng. 2. Mục tiêu giáo dục đạo đức 6 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội Chuyển hóa những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội thành những phẩm chất đạo đức nhân cách cho học sinh, hình thành ở học sinh thái độ đúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã hội, thói quen chấp hành các quy định của pháp luật. 3. Chức năng của đạo đức Là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng của ý thức xã hội, đạo đức một mặt quy định bởi cơ sở hạ tầng, của tồn tại xã hội, mặt khác nó cũng tác động tích cực trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội đó. Vì vậy, đạo đức có chức năng to lớn, tác động theo hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm phát triển xã hội. Đạo đức có những chức năng sau: - Chức năng giáo dục. - Chức năng điều chỉnh hành vi của cá nhân, của cộng đồng và là công cụ tự điều chỉnh mối quan hệ giữa người và người trong xã hội. - Chức năng nhận thức, phản ánh. 4. Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT - Mục đích: Giúp học sinh nhận thức được các chuẩn mực đạo đức của xã hội, rèn luyện kỹ năng, hành vi theo các chuẩn mực đó và hình thành thái độ, ý thức trong học sinh về đạo đức. - Nội dung: Lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu hoà bình, có tinh thần cộng đồng và quốc tế, có tinh thần lao động sáng tạo, có thái độ xây dựng và bảo vệ môi trường... 7 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội - Phương pháp: Phương pháp tác động vào nhận thức tình cảm: đàm thoại, tranh luận, kể chuyện, giảng giải, khuyên răn; phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn: giao việc, rèn luyện, tập thói quen…; phương pháp kích thích tình cảm và hành vi: thi đua, nêu gương, khen thưởng, trách phạt… 5. Vị trí, ý nghĩa và đặc điểm của công tác giáo dục đạo đức cho học sinh 5.1. Vị trí - ý nghĩa Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với xã hội, của cá nhân với lao động, của cá nhân với mọi người xung quanh và của cá nhân với chính mình. Trong tất cả các mặt giáo dục, đạo đức giữ một vị trí hết sức quan trọng. Vì Hồ Chủ Tịch đã nêu: “dạy cũng như học, phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức Cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng, nếu không có đạo đức Cách mạng thì có tài cũng vô dụng” Giáo dục đạo đức còn có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và trong mọi tình huống chứ không phải chỉ được thực hiện khi có tình hình phức tạp hoặc có những đòi hỏi cấp bách. Trong nhà trường THPT, giáo dục đạo đức là mặt giáo dục phải được đặc biệt coi trọng, nếu công tác này được coi trọng thì chất lượng giáo dục toàn diện sẽ được nâng lên vì đạo đức có mối quan hệ mật thiết với các mặt giáo dục khác. 8 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội Để thực hiện những yêu cầu về nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh trong trường THPT thì: - Vai trò của tập thể sư phạm giữ một vị trí quan trọng có tính quyết định, trong đó vai trò của Hiệu trưởng, người quản lý chỉ đạo tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường là quan trọng nhất. - Vai trò của cấu trúc và nội dung chương trình môn Giáo dục công dân cũng góp phần không nhỏ đối với công tác này. 5.2. Đặc điểm Giáo dục đạo đức đòi hỏi không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ khái niệm tri thức đạo đức, mà quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của học sinh. Quá trình dạy học chủ yếu được tiến hành bằng các giờ học trên lớp; còn quá trình giáo dục đạo đức không chỉ bó hẹp trong giờ lên lớp mà nó được thể hiện thông qua tất cả các hoạt động có thể có trong nhà trường . Đối với học sinh THPT, kết quả của công tác giáo dục đạo đức vẫn còn phụ thuộc rất lớn vào nhân cách người thầy, gương đạo đức của người thầy sẽ tác động quan trọng vào việc học tập, rèn luyện của các em. Để giáo dục đạo đức cho học sinh có hiệu quả, yếu tố tập thể giữ vai trò hết sức quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức cho học sinh chỉ đạt kết quả tốt khi nó có sự tác động đồng thời của các lực lượng giáo dục: nhà trường, gia đình và xã hội. 9 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội Việc giáo dục đạo đức cho học sinh đòi hỏi người thầy phải nắm vững các đặc điểm Tâm – Sinh - Lý lứa tuổi của học sinh, nắm vững cá tính, hoàn cảnh sống cụ thể của từng em để định ra sự tác động thích hợp. Giáo dục đạo đức là một quá trình lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải có công phu, kiên trì, liên tục và lặp đi lặp lại nhiều lần. 6. Những tác động tới việc rèn luyện đạo đức của học sinh ở trường THPT 6.1. Về tâm sinh lý học sinh Là giai đoạn các em đang phát triển mạnh về thể chất, tinh thần và tình cảm, dễ bị kích động, lôi kéo... Có nhu cầu giao tiếp rất lớn đặc biệt là sự giao tiếp với bạn bè, từ đó mà hình thành lên các nhóm bạn cùng sở thích. Nếu không được giáo dục dễ bị sai lệch. 6.2. Về phía gia đình Nhiều cha mẹ do nhận thức lệch lạc, không có tri thức về giáo dục con cái; sự quan tâm, nuông chiều thái quá trong việc nuôi dạy; sử dụng quyền uy của cha mẹ một cách cực đoan; tấm gương phản diện của cha mẹ, người thân; có các hoàn cảnh éo le hoặc hay bị sử dụng bằng vũ lực... đã tác động không nhỏ đến sự hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. 6.3. Về phía nhà trường Một số giáo viên thường có những định kiến, thiếu thiện cảm; sử dụng các biện pháp hành chính thái quá; sự lạm dụng quyền lực của các thầy cô giáo; sự thiếu gương mẫu trong mô phạm giáo dục; việc đánh giá kết quả, khen thưởng, kỷ luật 10 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội thiếu khách quan và không công bằng; sự phối hợp không đồng bộ giữa các lực lượng giáo dục... đều có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giáo dục đạo đức cho học sinh. 6.4. Về phía xã hội Tác động của cơ chế thị trường, sự phát triển của khoa học công nghệ, tác động lối sống hám cơ sở vật chất hơn tính nhân văn, xem nhẹ lời khuyên của cha mẹ, thầy cô dẫn đến những biểu hiện lệch lạc về chuẩn mực đạo đức. 11 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC SINH Ở PHÂN HIỆU NGHĨA TÂM - TRƯỜNG THPT VĂN CHẤN 1. Thực trạng của công tác giáo dục đạo đức học sinh ở Phân hiệu Nghĩa Tâm trường THPT Văn Chấn hiện nay 1.1. Thuận lợi - Vấn đề giáo dục đạo đức cho trẻ vị thành niên nói chung, học sinh THPT ở Phân hiệu Nghĩa Tâm – trường THPT Văn Chấn nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương, sự quan tâm theo dõi phối kết hợp của phụ huynh, nhân dân. - Bên cạnh đó đội ngũ nhà giáo có tri thức giàu tâm huyết luôn coi trọng vấn đề giáo duc đạo đức lối sống cho học sinh. - Hơn thế nữa, trong những năm gần đây, vấn đề dạy và học môn Giáo dục công dân đã và đang đổi mới và là một trong những môn có chuyển biến mạnh mẽ về đổi mới phương pháp dạy học, dạy học đạo đức thông qua bộ môn Giáo dục công dân được xác định là một nhiệm vụ quan trọng, là đòi hỏi cấp bách của xã hội đối với việc nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. 12 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội - Chương trình Sách giáo khoa Giáo dục công dân mới có nhiều đổi mới về mục tiêu, cấu trúc, sự đổi mới này rất thích hợp cho giáo viên giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân cho học sinh. Thông qua bài học học sinh có thể tự hoạt động tích cực, chủ động sáng tạo tìm tòi phát hiện và chiếm lĩnh nội dung bài học. - Giáo viên dạy Giáo dục công dân là những người có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, giàu tâm huyết với học sinh, luôn gương mẫu trong tư cách đạo đức lối sống, là tấm gương sáng để học sinh noi theo. - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức lối sống học sinh, coi đó là nền tảng để đạt đến hiệu quả giáo dục toàn diện nên có kế hoạch chỉ đạo thường xuyên có hiệu quả cao. 1.2. Khó khăn Hiện nay tình hình đạo đức của học sinh ở các trường THPT nói chung và Phân hiệu Nghĩa Tâm – trường THPT Văn Chấn nói riêng có những vấn đề vần cần phải quan tâm. - Số học sinh cá biệt, vô lễ với thầy, cô giáo, với cha mẹ có xu hướng ngày càng tăng . - Thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, lười học, lười lao động, hay trốn học để đi chơi. - Ý thức học tập của học sinh còn thấp, nhiều em học sinh đang độ tuổi rong chơi, kết bè phái với những thanh niên bên ngoài tụ tập hút thuốc, uống rượu, đánh bài, đánh nhau và đặc biệt là vấn đề phim ảnh hiện nay …Học sinh chưa có quyết tâm trong vấn đề học tập của mình như bỏ tiết, không làm bài tập, tự ý viết nghỉ học, nghỉ học không phép. - Hay gây gổ, nói tục, cắt, nhuộm tóc, ăn mặc không phù hợp với lứa tuổi học sinh. 13 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội - Mất trật tự ngoài xã hội, la cà ăn uống, tham gia các nhóm đánh nhau, cá biệt còn có học sinh bỏ nhà đi qua đêm, đi theo sự rủ rê của bạn bè cùng lứa tuổi đã bỏ học. - Gian dối, quay cóp, càng lên lớp trên hiện tượng quay cóp càng tăng. - Mơ hồ về truyền thống dân tộc, chưa có lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhìn chung, đạo đức của một bộ phận không ít học sinh đang giảm sút. Tuy theo các kết quả điều tra trên quy mô lớn được đăng tải trên các mạng xã hội, đạo đức vẫn còn ở vị trí cao trong bậc thang giá trị xã hội, nhưng có những biểu hiện đáng lo ngại như ý thức đạo đức đi xuống, có lối sống thực dụng, thiếu ước mơ, thiếu hoài bão, lập thân, lập nghiệp; những tiêu cực trong thi cử, bằng cấp, chạy theo thành tích…đã xâm nhập vào nhà trường. Động cơ học tập vì dân giàu nước mạnh, vì lý tưởng còn mờ nhạt. Song những mặt yếu tố này ít có dịp bộc lộ công khai trong nhà trường, nên những người làm công tác giáo dục dễ bỏ qua. 2. Nguyên nhân làm ảnh hưởng đến đạo đức của học sinh Từ những thực trạng trên ta thấy có nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến đạo đức của học sinh. - Do xúi giục của bạn bè, sự ham mờ hiểu biết, tác động của kinh tế thị trường… - Nhiều phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập và rèn luyện đạo đức của các em. - Việc thông tin giữa gia đình và nhà trường còn ít và chậm. 14 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội - Do không xác định đúng đối tượng kết bạn, hoặc tiếp xúc với những phần tử xấu ở bên ngoài xã hội cho nên các em dễ nảy sinh tiêu cực. - Do trình độ văn hóa và nhận thức của nhiều phụ huynh còn hạn chế . - Mặt trái của cơ chế thị trường ảnh hưởng đến nền văn hóa, lối sống - Đời sống kinh tế gia đình còn khó khăn. - Một vấn đề quan trọng nữa là hội phụ huynh học sinh chưa thường xuyên kết hợp chăm lo giáo dục đạo đức học sinh. - Việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh chưa được tiến hành thường xuyên, đôi lúc còn bị buông lỏng. Nội dung, phương pháp giáo dục còn đơn điệu, còn thiếu những biện pháp cụ thể gợi mở cho học sinh tự kiểm điểm, tự rèn luyện, tự tu dưỡng. - Vai trò nêu gương trong việc rèn luyện đạo đức cách mạng, lối sống giản dị, trong sáng, hết lòng vì học sinh của một vài giáo viên còn mờ nhạt, chưa trở thành tấm gương sáng về đạo đức, lối sống cho học sinh học tập, noi theo. 3. Vai trò và nhiệm vụ của giáo dục đạo đức cho học sinh THPT hiện nay. 3.1. Vai trò Học sinh THPT là lứa tuổi hết sức nhạy cảm trước các biến động của sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt dưới tác động của mặt trái cơ chế thị trường. Ở các em luôn muốn chứng tỏ cái “Tôi” của mình, muốn chứng tỏ mình là người lớn, trong lúc vốn sống, khả năng hiểu biết của các em yếu và thiếu. Bạo lực học đường đang trở thành vấn nạn trong các trường THPT nó diễn ra đối với cả học sinh nữ là nỗi lo cho toàn xã hội. Chính vì vậy giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho các em là việc làm cần thiết. 15 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội Giáo dục đạo đức học sinh giữ vai trò hết sức quan trọng trong các nhà trường THPT hiện nay nhằm hình thành cho các em thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, góp phần hình thành kỹ năng sống, làm việc phù hợp chuẩn mực đạo đức xã hội. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” “Có tài không có đức là người vô dụng, có đức không có tài làm việc gì cũng khó...” Giáo dục đạo đức là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học sinh nhằm giúp cho nhân cách mỗi học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có những hành vi ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ: của cá nhân với người xung quanh, với gia đình, với tập thể, với quê hương đất nước và cộng đồng xã hội. 3.2. Nhiệm vụ của công tác giáo dục đạo đức - Hình thành cho học sinh ý thức các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các chuẩn mực đạo đức của xã hội. - Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các hành vi cá nhân được thực hiện. - Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức. - Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân và duy trì lâu bền thói quen này. - Quan tâm đến giáo dục vốn sống, kỹ năng sống cho học sinh. 16 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội - Giáo dục ý thức chấp hành chủ trương đường lối của Đảng, pháp luật nhà nước, quy định của địa phương, nội quy, quy chế của trường. Giáo dục truyền thống đạo đức văn hoá của dân tộc Việt Nam. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH THÔNG QUA PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 1. Thực trạng của việc giảng dạy chương trình môn Giáo dục công dân Trường đã tổ chức thực hiện giảng dạy môn Giáo dục công dân đầy đủ theo đúng quy định của chương trình, có lồng ghép giáo dục pháp luật và một số nội dung khác 17 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội theo quy định vào bộ môn. Tuy nhiên thực tế việc dạy và học môn Giáo dục công dân ở trường còn nhiều khó khăn, bất cập nên hiệu quả giáo dục đạo đức của môn học còn thấp. Môn giáo dục công dân từ trước đến nay chưa được coi trọng, nhiều giáo viên, học sinh, Cha mẹ học sinh vẫn xem đây là môn học phụ. Nguyên nhân: thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chủ yếu sau: - Giáo viên chưa nhận thức được đầy đủ, vị trí vai trò của môn học, còn xem nhẹ nên chưa chú trọng đầu tư công sức, thời gian để dạy tốt. - Trang thiết bị dạy học, các điều kiện khác phục vụ dạy học còn thiếu thốn, lạc hậu gây khó khăn cho việc đổi mới dạy học. - Tâm lý chung của học sinh và một bộ phận không nhỏ cán bộ giáo viên, trong đó có cha mẹ học sinh cho rằng đây là môn học phụ, kết quả học tập không quan trọng lắm, vì vậy chú ý động viên con em tích cực học tập. - Môn Giáo dục công dân chỉ có 1 tiết/tuần nên giáo viên phải dạy nhiều lớp, do đó có nhiều khó khăn về việc nắm bắt được tình hình cụ thể của học sinh trong lớp. Có ít giáo viên giảng dạy nên lúng túng về phương pháp, về soạn giảng và nghiên cứu, rút kinh nghiệm giờ dạy. 2. Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua phần “Công dân với đạo đức” môn Giáo dục công dân lớp 10 Giáo dục, đào tạo con người phát triển toàn diện: Đức – Trí – Thể - Mĩ đã được đặt ra trong quá khứ, song hiện tại, điều đó lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Văn 18 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: “…coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh, phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại”. Định hưóng của toàn Đảng, toàn dân về giáo dục, đào tạo trong tình hình mới đã cho chúng ta thấy rằng việc giáo dục lẽ sống, lý tưởng sống cho học sinh là một nhiệm vụ trong chiến lược giáo dục. Mỗi môn học, mỗi khoa học đóng góp một phần quan trọng nhất định vào việc đào tạo con người, trong đó, môn Giáo dục công dân nói chung, phần Công dân với đạo đức nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nội dung kiến thức phần Công dân với đạo đức giúp học sinh hiểu được đạo đức là gì, phân biệt được đạo đức với pháp luật để từ đó điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân. Đặc biệt với các phạm trù cơ bản của đạo đức học như: Nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự và hành phúc sẽ giúp cho học sinh hiểu được ý nghĩa đích thực của cuộc sống, hiểu được rằng hạnh phúc chân chính của con người là ở chỗ biết gắn lợi ích của mình với lợi ích giai cấp, của dân tộc, nhân loại và đấu tranh cho sự giải phóng thực sự con người. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ có thể diễn ra dưới nhiều hình thức như giáo dục thông qua lao động sản xuất, qua các hoạt động xã hội, qua các hình tượng văn học, nghệ thuật, qua việc truyền đạt tri thức đạo đức, qua những tấm gương…mỗi hình thức đều có một vị trí nhất định đối với việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ. Sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua phần Công dân với đạo đức. 19 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội 2.1. Sử dụng phương pháp kể chuyện Theo tôi thiết nghĩ, bên cạnh các phương pháp đã và đang thực hiện, khi dạy phần Công dân với đạo đức giáo viên nên sử dụng các câu chuyện có ý nghĩa giáo dục đạo đức, để thông qua đó truyền đạt tri thức cho học sinh. Những câu chuyện, những tấm gương đạo đức sinh động sẽ có sức lôi cuốn thu hút sự chú ý hơn nữa của học sinh đối với bài giảng vì trong giáo dục đạo đức, nêu gương là một hình thức quan trọng. Bác Hồ nói: Một tấm gương sống còn hơn một trăm bài diễn thuyết. Ví dụ khi giảng bài 10: Quan niệm về đạo đức, giáo viên có thể bắt đầu hoặc kết thúc bằng câu chuyện Bác Hồ trong đời thường qua đó rút ra những kết luận về sự giảm dị, thanh đạm của Bác Hồ, nêu cao tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác cho học sinh noi theo. Hoặc khi giảng bài 11: Một số phạm trù cơ bản của đạo đức học ở đơn vị kiến thức 1: Nghĩa vụ, giáo viên có thể sử dụng câu chuyện Lá cờ thêu sáu chữ vàng để minh hoạ cho học sinh thấy được sự dũng cảm hi sinh, quên mình vì việc nghĩa của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Từ đó giúp học sinh ý thức được nghĩa vụ của mình trong học tập cũng như trong cuộc sống. Hay ở đơn vị kiến thức 2: Lương tâm, giáo viên có thể bắt đầu hoặc kết thúc bằng câu chuyện Sự ngộ nghịch đáng ân hận suốt đời (Trích trong Dế mèn phiêu lưu kí của nhà văn Tô Hoài), để giúp học sinh thấy rõ được lương tâm là năng lực tự đánh giá và điều chỉnh hành vi đạo đức của bản thân trong mối quan hệ với người khác và xã hội. Hoặc ở đơn vị kiến thức 3; Nhân phẩm và danh dự, giáo viên có thể sử dụng câu chuyện Không nhận lụa (trích trong Kho tàng giai thoại Việt Nam tập 1 – Nhà xuất bản văn học – 1994) để minh hoạ cho học 20 Giáo viên thực hiện: Nguyễn Đức Hiếu – Tổ Khoa học xã hội
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất