Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 2 viết đoạn văn mi...

Tài liệu Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 2 viết đoạn văn miêu tả

.PDF
24
1
108

Mô tả:

ỦY BAN NHÂN HUYỆN HẬU LỘC  PHÒNG GIÁO DỤC HẬU LỘC      MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪNHỌC SINH LỚP 2 VIẾT ĐOẠN VĂN MIÊU TẢ Họ và tên:Nguyễn Thị Loan Chức vụ:  Giáo viên Đơn vị : Trường Tiểu học Phú Lộc SKKN thuộc lĩnh vực Tiếng việt   1 NĂM HỌC: 2010 ­ 2011 A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LỜI MỞ ĐẦU: Miêu tả  là thể  loại văn dùng lời nói có hình  ảnh, có cảm xúc làm cho  người nghe, người đọc hình dung được một cách rõ nét vật được tả trong đời  sống hàng ngày. Qua những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn và trí tuệ người   đọc thêm phong phú, giúp cho ta có thể  cảm nhận văn học và đời sống một   cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, trong cuộc sống hàng ngày, muốn  mọi người cùng nhận ra những điều mình thấy, mình đã làm, đã sống thì  chúng ta cần miêu tả. Mỗi bài văn miêu tả là sự kết hợp của những nhận xét  tinh tế, là sản phẩm, là sự đúc kết của việc tiếp thu và vận dụng những kiến   thức đã học.Văn miêu tả  rất phù hợp với đặc điểm tâm lý tuổi thơ  (ưa thích  sự  quan sát, thích nhận xét, sự nhận xét thiên nhiên về cảm tính...); góp phần   nuôi dưỡng mối quan hệ và tạo nên sự quan tâm của các em với thế giới xung  quanh trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên; góp phần giáo dục tình cảm   thẩm mĩ, lòng yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn ngữ   ở  trẻ. Việc dạy ­  học Tập làm văn nhất là văn miêu tả  có vị  trí đặc biệt quan trọng. Nó góp   phần rèn luyện cho học sinh năng lực sử  dụng tiếng mẹ  đẻ, tạo điều kiện   thuận lợi cho các em giao tiếp hàng ngày và học tập tốt các môn học khác.   Chính vì vậy, văn miêu tả được đưa vào nhà trường ngay từ bậc Tiểu học. Từ  lớp 2, tuy chưa có riêng các tiết học cụ  thể thể văn miêu tả  như  các lớp 4, 5  nhưng trong các bài tập của tiết Tập làm văn thì khi dạy dạng bài quan sát  tranh, trả  lời câu hỏi; tả  ngắn về  một số  sự  vật có liên quan đến mỗi chủ  điểm, các em đã bắt đầu làm quen với văn miêu tả. Khi dạy các dạng bài tập  2 này, người giáo viên không thể  xem nhẹ, coi đây giống như  việc giải quyết   các bài tập thông thường mà phải hướng dẫn cho các em theo một quy trình   đầy đủ, đảm bảo, giúp các em có thói quen quan sát, biết rung cảm của mình  vào đối tượng miêu tả, biết sử  dụng những từ  ngữ  có giá trị  biểu cảm, tạo   tiền đề  để  các em học tốt cách làm các bài văn miêu tả   ở  lớp trên. Vì vậy,  hướng học sinh làm tốt dạng bài tập này, đó là vấn đề mà tôi luôn quan tâm và   trăn trở.                           II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:  1. Thực trạng: Qua thực tế  giảng dạy và quá trình dự  giờ  thăm lớp của đồng nghiệp,  tôi thấy trong khi dạy và học các bài Tập làm văn miêu tả, giáo viên và học   sinh còn có những hạn chế sau:  a/ Về phía giáo viên: ­ Chưa chuẩn bị tốt các điều kiện trước khi dạy – học tiết Tập làm văn. ­ Nhiều giáo viên còn dạy theo cách truyền thống, chưa áp dụng các phương   pháp dạy học mới; còn lệ  thuộc quá nhiều vào sách giáo khoa và sách giáo  viên nên rất ít sự sáng tạo, chưa sinh động, hạn chế khả năng tiếp thu và sáng  tạo của học sinh. Cách dạy của nhiều giáo viên còn máy móc, công thức, chú   trọng lí thuyết, coi nhẹ việc luyện kĩ năng, thực hành ít; Không tạo điều kiện  cho học sinh đuợc quan sát thực tế mà chỉ ngồi trong lớp tưởng tượng về đối  tượng quan sát hoặc dựa vào văn mẫu. Vì thế, học sinh viết văn một cách máy  móc, dập khuôn, ý nghèo nàn, lời văn sơ  lược, đơn giản, không có cảm xúc   chân thực. ­ Chưa quan tâm triệt để  đến việc nhận xét, sửa chữa cho học sinh sau khi   chấm bài. 3 ­  Bên cạnh đó, do điều kiện giảng dạy của giáo viên còn nhiều khó khăn, các  tài liệu tham khảo, tranh ảnh, vật thật để học sinh quan sát còn ít.   a/ Về phía học sinh: ­ Các em chưa có sự chuẩn bị trước cho các tiết học Tập làm văn. ­ Chưa biết cách quan sát, sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi làm bài. ­ Chưa biết cách ghi chép, tổng hợp những điều quan sát được chọn lọc ý, sắp   xếp ý để hoàn thiện thành đoạn văn hoàn chỉnh. ­ Vốn từ của các em còn nghèo nàn, viết câu sai ngữ pháp, sử dụng các từ gợi   tả, gợi cảm. ­ Nhiều học sinh còn hay e ngại, chưa mạnh dạn trong khi trả lời câu hỏi của   giáo viên và trao đổi với các bạn trong nhóm.  2. Kết quả, hiệu quả của những thực trạng nêu trên: Từ  thực trạng trên, để  nắm vững được tình hình học tập của học sinh   tôi đã tiến hành thực hiện việc khảo sát chất lượng học sinh lớp 2A, Trường   Tiểu học Phú Lộc do tôi trực tiếp giảng dạy vào đầu năm học 2010 – 2011.   Kết quả thu được như sau: Sĩ  Giỏi số  HS 26 Kết quả đánh giá Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 1 3,8 4 15,4 18 69,2 3 11,5 * Nguyên nhân: ­ Thời gian dành cho một bài văn miêu tả còn ít. ­ Các em chưa nắm vững cách làm các kiểu bài miêu tả, còn xem nhẹ  việc   quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, còn yếu trong kĩ năng xây dựng bố cục,  chọn ý và sắp xếp ý, trong dùng từ, diễn đạt. Bài văn của các em còn mang  4 tính kể lể, khô khan, thiếu hình ảnh cảm xúc. Từ đó, bài làm của học sinh chỉ  đơn thuần như theo kiểu viết đủ  ý, dập khuôn, ý nghèo nàn, lời văn sơ  lược,  không thể  hiện được cảm xúc riêng. Do đó, học sinh cảm thấy ngại khi học   Tập làm văn, nhất là học dạng văn miêu tả dẫn đến chất lượng dạy học văn   miêu tả ở lớp 2 còn chưa cao. Muốn dạy có hiệu quả  các tiết Tập làm văn miêu tả   ở  Tiểu học nói  chung, ở lớp 2 nói riêng; người giáo viên không thể không chú ý đến việc giúp  học sinh phát triển tư  duy và hướng dẫn cho học sinh cách viết văn miêu tả  bằng cách giúp các em biết trả  lời câu hỏi đầy đủ, hợp lí; dùng từ  đặt câu  chuẩn, biết cách liên kết câu, biết thể hiện cảm xúc khi miêu tả. Để giúp học  sinh học tốt hơn các bài Tập làm văn có dạng miêu tả, tôi mạnh dạn đưa ra  “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 2 viết đoạn văn miêu tả” B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. GIẢI PHÁP:  Từ  những thực trạng nêu trên, tôi luôn trăn trở  để  tìm ra các giải pháp  để làm thế nào rèn kĩ năng viết văn miêu tả và nâng cao được chất lượng viết  văn cho học sinh lớp 2. Sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:  1. Giáo viên luôn có ý thức nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.  2. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.  3. Giáo viên và học sinh chuẩn bị tốt các điều kiện trước khi lên lớp dạy và   học giờ Tập làm văn. 4. Dạy đầy đủ, đảm bảo quy trình dạy bài văn miêu tả. II. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:  5 Để những giải pháp nêu trên được giải quyết một cách hiệu quả  nhất,   tôi đã thực hiện các biện pháp như sau:  1. Giáo viên luôn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ: ­ Nghiên cứu nội dung phân môn tập làm văn của khối lớp và của các lớp trên   để xác định đúng vị trí của mỗi bài học. Từ đó để xác định đúng mục tiêu của   bài. ­ Tích lũy kinh nghiệm qua quá trình giảng dạy, dự  giờ  đồng nghiệp để  học  hỏi và rút kinh nghiệm về phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. ­ Học tập qua sự  góp ý của chuyên môn nhà trường, qua các đợt học tập  chuyên đề do tổ chuyên môn, nhà trường và phòng giáo dục tổ chức. ­ Tự tìm tòi, tham khảo các loại tài liệu như sách giáo viên, sách học sinh, các  bài văn hay, tập san….. 2. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học: ­ Thiết kế, hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập bằng nhiều   hình thức đa dạng, phong phú phù hợp với mỗi bài tập, với trình độ  của học   sinh. ­ Tạo điều kiện cho các em tham gia học tập một cách chủ động, sáng tạo. ­ Giáo viên, học sinh chuẩn bị và sử  dụng tốt các đồ  dùng dạy học trong khi   quan sát đối tượng miêu tả  như  tranh  ảnh, vật thật, không gian quan sát, đèn  chiếu 3.  Chuẩn bị  tốt các điều kiện trước khi dạy và học giờ  Tập làm  văn: a/ Đối với giáo viên: Trước khi lên lớp, người giáo viên cần chú ý những điểm sau: 6 ­ Nắm vững mục đích yêu cầu của tiết học, xác định đúng vị  trí của tiết học  trong chương trình Tiểu học và vị trí của nó trong khối lớp đang dạy, xác định   rõ các đối tượng học sinh để  lựa chọn những phương pháp và hình thức tổ  chức dạy học phù hợp với học sinh, đạt hiệu quả cao nhất sau tiết dạy. ­ Nghiên cứu kĩ bài dạy, chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi, các phương án mà học  sinh có thể trả lời để chủ động trong quá trình lên lớp. ­ Chuẩn bị các đồ dùng, sự vật hoặc các địa điểm để quan sát. ­ Dự kiến phân bố thời gian một cách hợp lí cho mỗi hoạt động. a/ Đối với học sinh: ­ Chuẩn bị đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập và các dụng cụ học tập khác. ­ Đọc, tìm hiểu trước nội dung bài sẽ học. ­ Chuẩn bị đối tượng quan sát như tranh ảnh, vật thật mang đến lớp; quan sát  đối tượng trước theo yêu cầu của giáo viên.  4. Dạy đầy đủ, đảm bảo quy trình dạy bài văn miêu tả: 4.1. Hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài và nắm vững yêu cầu của đề bài: Hướng dẫn học sinh làm bất kì bài văn nào thì giáo viên cũng phải   hướng dẫn các em tìm hiểu đề, nắm bắt yêu cầu đề  ra. Đây là khâu đầu tiên   và vô cùng quan trọng, giúp học sinh hiểu yêu cầu của đề bài, nắm được thể  loại văn, xác định đúng đối tượng miêu tả và trọng tâm miêu tả. Từ đó, các em  sẽ  làm bài tốt hơn. Mặt khác, việc làm này còn tạo cho các em có thói quen  làm việc khoa học, có trình tự, tạo tiền đề để học sinh có thể học tốt hơn Tập  làm văn ở các lớp trên. Với mỗi đề  bài tập làm văn đưa ra, thường  ở  lớp 2 chỉ  là một bài tập   của tiết học, tôi thường yêu cầu các em đọc kĩ yêu cầu bài tập, xác định các từ  7 trọng tâm của đề bài, giáo viên gạch chân các từ đó và hướng dẫn học sinh về  thể loại, kiểu bài, nội dung miêu tả, trọng tâm miêu tả. Ví dụ 1:  Tuần 10 – Bài tập 2 (TV2,  tập 1­ trang 85) Viết một đoạn văn ngắn kể về ông, bà hoặc một người thân của em. Với đề  bài trên, giáo viên hướng dẫn các em xác định yêu cầu của đề  bài như sau: + Em hãy đọc kĩ yêu cầu bài tập và cho biết đề  bài yêu cầu gì?   (Viết một   đoạn văn ngắn kể về ông, bà hoặc một người thân của em.) + Người thân trong gia đình em gồm những ai?  (HS nêu) + Em định chọn ai trong những người thân của gia đình em để tả? (HS nêu) + Kể  về  mẹ, vậy em kể  về  những điều gì?   (Kể  đôi nét về  hình dáng, tính   tình, những việc mẹ thường làm…) + Kể hình dáng của mẹ, em kể những gì? (Tuổi, làn da, mái tóc, dáng người…) + Kể những việc làm của mẹ, em định kể những gì? (Việc mẹ thường làm, sự   chăm sóccủa mẹ đối với  em và gia đình…) Từ  những bước gợi mở, hướng dẫn như  trên, giáo viên chỉ  cho học  sinh: Quá trình kể về mẹ như vậy tức là các em đang miêu tả về mẹ. Khi viết   đoạn văn như yêu cầu trên, tức là ta đang tả về mẹ của mình. Giáo viên có thể  nói thêm: Đây chính là thể loại văn miêu tả, đối tượng miêu tả ở đề bài này là  mẹ. Ví dụ 2:    Tuần 16 – Bài tập 2 (SGK tập 1 ­  trang 137.)                   Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết. Với đề bài trên, giáo viên hướng dẫn các em sẽ xác định yêu cầu của đề  bài như sau: ­ 2 HS đọc yêu cầu bài tập, cả lớp đọc thầm theo. 8 ­ GV dùng một số câu hỏi để hướng dẫn học sinh nắm vững đề bài: + Đề bài yêu cầu gì?  (Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết). + Em hãy kể những con vật nuôi trong nhà mà em biết?  (HS kể) + Em sẽ chọn con vật gì để tả? (HS nêu) + Kể về con vật đó, em sẽ kể những đặc điểm gì? (Kể đôi nét về hình dáng;   hoạt động, thói quen của con vật; tình cảm của em dành cho con vật đó…) 4.2. Hướng dẫn học sinh quan sát và ghi lại những nội dung từ đối   tượng cần tả: 4.2.1. Tạo điều kiện cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả: ­ Khi làm bài văn miêu tả thì việc quan sát trực tiếp sự vật rất quan trọng. Khi  hướng dẫn học sinh quan sát, tôi đã hướng cho học sinh quan sát bằng nhiều  giác quan như  thị  giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị  giác và nhìn sự  vật   bằng cách nhìn thẩm mĩ. ­ Điều đặc biệt quan trọng là quan sát phải có sự lựa chọn, không nên thấy cái  gì  là tả cái đó mà phải tìm ra nét đặc biệt, tránh việc liệt kê, kể lể khô khan.  ­ Khi hướng dẫn học sinh quan sát, tôi hướng dẫn các em quan sát kĩ đối  tượng,  hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của nó. Ví dụ 1: “Viết về một loài chim mà em thích ­ Bài tập 3, TV2, tập 2 trang 30”.   ­ Khi hướng dẫn học sinh quan sát một loài chim mà em thích, tôi chuẩn bị sẵn  một số loài chim thật và hệ thống câu hỏi.  TiÕp theo, tôi đưa hệ thống câu hỏi gợi ý để định hướng cho các em quan sát: + Lông chim màu gì? (Lông chim màu nâu/ đen/ xanh trên cổ có pha trắng…) + Dùng tay sờ  vào bộ  lông, em thấy thế  nào?  (Mượt/ êm như  nhung/ rất   thích…) 9 + Mỏ chim như thế nào? Em thấy mỏ chim giống đồ vật gì? (Mỏ nhọn, giống   đầu bút chì/ Mỏ nhỏ xinh xắn, giống hai mảnh vỏ trấu chắp lại…) + Mắt chim như thế nào? (Mắt nhỏ, đen như hai hạt đậu) + Chân chim thế nào? (Đôi chân nhỏ có các ngón chân xòe ra, đầu ngón chân   có móng sắc nhọn/ nhỏ như hai chiếc tăm…) ­ Để  kết quả  quan sát được phong phú hơn, tôi cho các em ra vườn trường.  Tôi đã hướng dẫn các em quan sát bằng một số câu hỏi gợi ý như sau: + Em nghe thấy tiếng chim hót thế nào? (Rất hay/ ríu rít/ vui tai…) + Hoạt động của chim như thế nào? ( Lúc đậu: thu đầu lại như đang ngủ/ đi   lại trên cành lá tìm sâu…; Lúc bay: dang đôi cánh chao liệng/ vui đùa cùng   những chú chim bạn) Sau đó, tôi gợi ý học sinh tả cảnh vật xung quanh bằng một số câu hỏi gợi ý: + Bầu trời như thế nào? (Bầu trời trong xanh/ ông mặt trời tỏa ánh nắng vàng   tươi…) + Cây lá như thế nào? (Cành cây đung đưa theo gió/ đùa vui cùng chim chóc và   mặt trời….) + Em có ngửi thấy mùi thơm của hương hoa đâu đó không? ­ Yếu tố  tưởng tượng trong văn miêu tả  cũng đóng vai trò rất quan trọng   không thể thiếu được. Nhờ có tưởng tượng mà những hình ảnh, màu sắc, âm  thanh đều có thể  hiện lên trước mắt một cách sống động. Tôi đã hướng dẫn   các em quan sát phải gắn liền với so sánh, liên tưởng: Tìm ra những nét đồng  nhất, độc đáo của sự vật gắn liền với tình cảm. Ví dụ 2: “Tả ngắn về biển” (Bài tập 2 trang 76­TV2, tập 2).   Khi hướng dẫn học sinh, ta không thể đem biển về để  các em quan sát   và rất ít em đã được nhìn thấy cảnh biển thât. Bởi vậy, nếu có điều kiện, tôi  10 cho các em quan sát qua trình chiếu cảnh biển bằng đèn chiếu. Nếu không có   điều kiện thì tôi dùng tranh ảnh vẽ cảnh biển. Vậy để tả được biển một cách   sinh động, hấp dẫn thì yếu tố  tưởng tượng là rất quan trọng. Tôi đã hướng  dẫn các em như sau: + Mặt biển như thế nào? (Rất rộng/ rộng mênh mông/ không thấy bờ…) + Nước biển màu gì? (Nước biển trong xanh/ nước biển xanh biếc …) + Trên mặt biển, em thấy những gì? (Sóng biển, có thuyền đánh cá) + Em thấy sóng biển như thế nào? (Sóng biển tung bọt trắng xoá/ Những con   sóng bạc đầu nối đuôi nhau xô vào bãi cát…) + Tiếng sóng vỗ thế nào? (Sóng biển rì rầm như đang kể chuyện cổ tích...) + Những chiếc thuyền trên mặt biển như thế nào? (Những chiếc thuyền đang   căng buồm ra khơi đánh cá/ Những chiếc thuyền như những chú lính) Tả cảnh biển không chỉ tả những gì về biển mà tôi còn hướng dẫn học   sinh tả những sự vật xung quanh như: Bầu trời, ông mặt trời, bãi cát, chim… 4.2.2. Hướng dẫn học sinh ghi chép lại những điều quan sát được: Sau khi giáo viên gợi ý cho học sinh trả lời miệng lần lượt theo câu hỏi  của giáo viên, việc tiếp theo là giáo viên cho học sinh ghi chép lại vào vở nháp  những điều được quan sát theo hệ thống câu hỏi một cách vắn tắt, ghi những  ý quan trọng để phục vụ cho việc viết đoạn văn. Giáo viên cần lưu ý học sinh   ghi theo hệ thống (tránh việc ghi lộn xộn) để  khi các em viết đoạn văn cũng   tránh được việc sắp xếp các ý lộn xộn. ­ Trước hết, giáo viên phải đưa học sinh đến điểm cần quan sát hoặc cho học   sinh quan sát bằng tranh ảnh phóng to. 11 ­ Giáo viên đưa hệ thống câu hỏi gợi ý, hướng dẫn học sinh quan sát bằng các  giác quan, hiểu và phát hiện các chi tiết đặc điểm của đối tượng. ­ Hướng dẫn học sinh quan sát phải có sự  lựa chọn, không nên thấy cái gì là  tả cái đó mà phải tìm ra nét đặc biệt, độc đáo chủ yếu của sự vật, hiện tượng,   tránh liệt kê, kể lể khô khan. ­ Yêu cầu các em ghi chép tóm tắt những điều quan sát được. Ví dụ 1:       Tuần 16 – Bài tập 2 (SGK tập 1 ­ trang 137)                 Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết. Đối với bài này, giáo viên đã yêu cầu học sinh quan sát con vật nuôi  ở  nhà. Bởi vậy, khi quan sát các em nhìn thấy cái gì là ghi cái  ấy. Vì thế, khi  hướng dẫn học sinh ghi chép lại, giáo viên yêu cầu các em ghi chép có hệ  thống như: Đầu tiên giới thiệu con vật nuôi hoạt động, ích lợi của con vật   Tả hình dáng bên ngoài   Tả   Nêu cảm nghĩ của em về con vật. Ví dụ 2:  Tuần 10 – Bài tập 2 (SGK tập 1 ­ trang 85) Viết một đoạn văn ngắn kể về ông, bà hoặc một người thân của em. ­ Trước khi học tiết học này, giáo viên đã giao nhiệm vụ cho các em quan sát  kĩ về hình dáng, tính tình, thói quen của một người thân trong gia đình mình ở  nhà và ghi chép lại điều đã quan sát bằng các câu hỏi gợi ý sau: + Người em định tả là ai? Năm nay, người đó bao nhiêu tuổi? + Hình dáng bên ngoài của người đó như  thế  nào? (Dáng người, khuôn mặt,  mắt, mái tóc, tay chân, ...) + Tính tình của người đó như thế nào?  + Hằng ngày, ngưới đó thường làm những việc gì? + Người đó quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ em ra sao? + Em chăm sóc và có tình cảm như thế nào với người đó? 12 4.3. Hướng dẫn HS mở  rộng vốn từ  và dùng các biện pháp nghệ   thuật: 4.3.1. Hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ: Đối với học sinh Tiểu học nói chung đặc biệt là học sinh lớp 2, vốn  kiến thức về từ để các em viết văn còn quá ít và chưa biết lựa chọn từ ngữ để  miêu tả. Vì thế, việc mở rộng vốn từ cho học sinh là việc làm rất quan trọng,   không thể  thiếu và phải được tiến hành thường xuyên. Việc làm này không  chỉ tiến hành trong giờ  Tập làm văn mà nó được làm thường xuyên trong các   phân môn của môn Tiếng Việt. Sau đây tôi xin đưa ra một vài cách mà tôi vẫn thường làm khi dạy Tập   làm văn mà hiệu quả của việc làm đó tương đối cao.  Ví dụ 1:  Khi tả một em bé trông bụ bẫm, dễ thương, đáng yêu học sinh chưa  biết cách chọn từ. Nhiều em tả: “Em bé của em rất  béo.” hoặc “Da em bé  trắng tinh.” Giáo viên phải biết hướng dẫn học sinh lựa chọn từ ngữ cho phù   hợp mà không làm sai nội dung các em đang muốn tả. Tôi hướng dẫn học  sinh: +   Từ  béo  còn   có   thể   dùng   từ   nào   thay   thế   cho   hay   hơn?   (Bụ   bẫm,   mập   mạp…) + Để  chỉ  màu da của một em bé trắng và đẹp thì ta có dùng từ   trắng tinh  không? + Vậy ta thay từ trắng tinh bằng từ nào? (Trắng mịn/ trắng hồng/ hồng hào…) Hoặc khi học sinh tả  về  quả, nếu các em tả  “Quả  cam vàng hoe.” Thì giáo  viên hướng dẫn học sinh:  + Màu vàng hoe không dùng để  tả  màu sắc của quả  cam. Vậy chúng ta phải   thay từ vàng hoe bằng từ gì? (Vàng tươi/ vàng mọng…) 13 Ví dụ 2:  Khi học các bài tập tả về quả, tôi tổ chức cho các em thi tìm những   từ ngữ tả màu sắc, hình dáng, mùi vị của quả theo các bước sau: ­ Giáo viên treo tranh ảnh hoặc vật thật cho học sinh quan sát, yêu cầu các em   hãy tìm những từ ngữ tả về hình dáng, màu sắc, mùi vị của quả.  ­ Học sinh chơi theo nhóm, đại diện nhóm đưa kết quả lên bảng. ­ Giáo viên và nhóm khác nhận xét, chọn nhóm tìm được nhiều từ đúng và hay   nhất, sau đó cho các em bổ sung các từ khác.  Bằng cách làm trên, học sinh rất thích tham gia, các em học hỏi vốn từ  rất   nhanh. Sau khi chơi xong, các em đã tìm được các từ ngữ, hình ảnh tả về màu  sắc, hình dáng, mùi vị của quả như sau: Hình dáng Màu sắc Mùi vị Tròn   xoe,   nhỏ   xíu,  Tím sẫm, đỏ  chót, vàng  Ngọt   lịm,   thơm   thoang  mũm   mĩm,   như   những  ươm,   xanh   thẫm,   vàng  thoảng, thơm nồng nàn,  chùm   sao   năm   cánh   bị  tươi như ấp ủ thêm màu  chua   chua,   thơm   phảng  rơi xuống cành cây... nắng, nâu già hạn... phất, ... 4.3.2. Hướng dẫn học sinh đưa các biện pháp nghệ  thuật vào việc viết  văn miêu tả: Trong quá trình dạy học, tôi luôn chú ý quan tâm đến tất cả  các đối  tượng học sinh. Muốn cho đoạn văn hay thì không thể  thiếu nghệ  thuật. Vì  thế, trong khi hướng dẫn học sinh, tôi không những yêu cầu các em biết cách  tả, tả được đối tượng mà tôi còn yêu cầu học sinh khá, giỏi biết đưa hình ảnh  so sánh, nhân hoá phù hợp, linh hoạt để cho đoạn văn hay hơn, sinh động hơn,  hấp dẫn người đọc. Tuy nhiên, tôi cũng lưu ý học sinh cần thể hiện các biện   pháp nghệ  thuật đó theo cách nhìn trẻ  thơ  và tránh việc lạm dụng biện pháp   nghệ thuật. 14 * Sử dụng biện pháp so sánh: ­ Khi hướng dẫn các em quan sát, tôi thường dùng câu hỏi gợi ý đơn giản để  các em nói thành câu văn có dùng cách so sánh. Ví dụ :  + Em thấy cây bàng  ở  sân trường giống với  đồ  vật gì? (Cây bàng  ở  sân   trường em như một chiếc ô khổng lồ che mát cho chúng em trong những ngày   nóng nực.) + Em hãy tưởng tượng xem mặt trời mùa hè giống với đồ  vật gì?  (Vào mùa   hè, ông mặt trời như một quả cầu lửa khổng lồ toả hơi nóng xuống mặt mặt   đất.) + Em thấy mặt biển giống với đồ  vật gì?  ( Mặt biển buổi sáng như  tấm   gương khổng lồ, vỡ làm nhiều mảnh, lấp lánh dưới ánh mặt trời.) ­ Tiếp theo, tôi sẽ giới thiệu để các em nắm được tác dụng của việc sử dụng  hình ảnh so sánh, học tập cách so sánh trong bài viết. Ví dụ:  Trong câu: “Cây bàng ở sân trường em như một chiếc ô khổng lồ che   mát cho chúng em trong những ngày nóng nực”.  + Giáo viên giới thiệu cho các em biết đây là một câu có sử dụng biện pháp so   sánh; tác giả đã dùng hình ảnh một chiếc ô khổng lồ để tả cây bàng. + Để giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của hình ảnh so sánh, tôi đã lấy   một câu khác để  tả  cây bàng: “Cây bàng  ở  sân trường em rất cao, có nhiều   cành lá”. Giáo viên dùng một số câu hỏi để cho học sinh nhận xét: + Các em thấy câu văn nào hay hơn?  (Câu văn thứ nhất hay hơn). + Vì sao các em lại thấy câu đó hay hơn?. (Vì câu đó có hình ảnh so sánh.) 15 Từ đó, giáo viên hình thành sự hiểu biết về so sánh cho học sinh: Khi miêu tả,  muốn làm cho sự  vật đẹp hơn thì ta phải so sánh sự  vật đó với một sự  vật   khác với những nét độc đáo, nổi bật hơn. Các em cần luyện tập thường xuyên  vì nếu không luyện tập thì sẽ dễ quên. * Sử dụng biện pháp nhân hoá: Đây là biện pháp nghệ thuật rất quen thuộc đối với các em. Từ lúc đang  nằm trong nôi mẹ, các em đã được nghe những câu hát ru của bà, của mẹ như  cái cò, cái vạc, cái nông, con mèo, con chuột...Các em còn được biết về các sự  vật được nhân hoá qua các câu chuyện cổ  tích, các bài thơ  thiếu nhi rất ngộ  nghĩnh. Vì thế  mà giáo viên không cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới thiệu   qua là các em có thể nhanh chóng nắm được ngay. Để  giúp học sinh nắm được cái ngộ  nghĩnh, đáng yêu của sự  vật khi   được nhân hoá, tôi đã cho học sinh so sánh các cặp câu cùng tả  một sự  vật,   yêu cầu các em lựa chọn và tìm ra câu văn hay như sau: Cách thứ nhất Cách thứ hai Những  con   gà  con   chạy   lung  tung  Những chú gà con đang tung tăng chạy  khắp vườn. Từng con sóng xô vào bờ cát. khắp vườn. Từng   làn   sóng   biển   nhấp   nhô,   tranh  nhau dạt vào bờ cát. Khi các em được hỏi câu văn nào hay hơn, các em đều có chung nhận   xét: Câu văn  ở  cách viết thứ  hai hay hơn. Giáo viên liền giải thích và hướng  dẫn các em: Câu văn thứ hai hay hơn vì nó được sử dụng biện pháp nhân hoá,   tức là sử dụng những từ để gọi, những từ  tả người để gọi, tả các sự vật. Sau khi các em bước đầu đã nắm được cái hay của việc dùng nhân hoá   trong viết văn, tôi giới thiệu cho các em cách nhân hoá các sự vật: 16 * Gọi tên sự vật: Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô gió, bác mặt trời, anh   mèo mướp, chị mái mơ, chú chim sâu, nàng hoa hồng,... * Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật: ­ Cô gió mải chơi. ­ Chị mái mơ hiền lành. ­ Anh gà trống kiêu ngạo nhảy tót lên đống rơm. ­ Ánh nắng nhảy múa trên lá. ­ Những con sóng đang thi chạy mà chẳng bao giờ đuổi kịp nhau. Cùng với việc giới thiệu, tôi thường cho các em đọc thêm các bài thơ,   câu  chuyện  có   dùng  nhiều  biện  pháp  nhân  hoá  như:  Cái  trống  trường  em  (Thanh Hào), Quạt cho bà ngủ (Thạch Quỳ), Đàn gà mới nở (Phạm Hổ), Luỹ  tre (Nguyễn Công Dương), Cây dừa (Trần Đăng Khoa); Dế Mèn phiêu lưu kí,  Võ sĩ Bọ Ngựa (Tô Hoài)... Bên cạnh đó, tôi luôn nhắc học sinh liên tưởng đến những câu chuyện   cổ  tích có con vật đáng yêu, thông minh, tinh nghịch. Đó là những mẫu mực  cho học sinh học tập để nắm được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.  4.4. Hướng dẫn học sinh đọc và học tập cách quan sát, cách sử  dụng các   biện pháp nghệ thuật ở các đoạn văn  hay. Đây là một biện pháp tốt mà giáo viên vẫn thường sử dụng khi dạy bài   văn miêu tả. Việc làm này giúp học sinh học tập những điều hay từ các đoạn  văn đó. Trước khi học sinh làm bài, tôi đã đưa ra một số đoạn văn hay cho các  em đọc, định hướng cho các em tìm hiểu về  cách quan sát, cách sử  dụng các  biện pháp nghệ  thuật, cách dùng từ, đặt câu, cách thể  hiện tình cảm với đối  tượng được miêu tả.  17 ­ Tìm hiểu về bố cục của đoạn: + Đoạn văn có mấy câu? Câu đầu của đoạn văn thường nêu nội dung gì?  + Những câu nào miêu tả nội dung chính? + Câu cuối của đoạn văn thường nêu nội dung gì? ­ Tìm hiểu về cách quan sát: + Tác giả  quan sát đối tượng theo trình tự  nào? (Quan sát theo trình tự  thời  gian, hay không gian; từ  xa đến gần, từ  ngoài vào trong, từ  bao quát đến chi   tiết,...). + Tác giả đã quan sát đối tượng bằng những giác quan nào?  ­ Tìm hiểu về các biện pháp nghệ thuật: + Tìm câu văn em cho là hay nhất?  + Trong câu văn đó, em thấy tác giả  đã so sánh đối tượng với hình  ảnh nào;  hoặc dùng từ ngữ nào vốn chỉ dùng tả người để tả đối tượng đó? + Cách dùng đó có gì hay?  ­ Tìm hiểu về tình cảm của tác giả: + Em thấy tác giả có yêu quí đối tượng đó không?  + Câu văn nào thể hiện tình cảm yêu mến của tác giả với đối tượng miêu tả? ­ Tìm hiểu về cách dùng từ, đặt câu, câu có hình ảnh: + Em hãy đọc các từ gợi tả mà em thích. + Em thích câu nào, hình ảnh nào? Sau khi học sinh được đọc và tìm hiểu về  các đoạn văn hay, các em sẽ  học  tập được cách dùng từ và đặt câu giúp cho việc viết đoạn văn được tốt hơn. 4.5. Giúp học sinh tránh việc viết đoạn văn gần giống nhau: Mặc dù yêu cầu khi viết văn tả với học sinh lớp 2 chỉ là tả sơ lược, nói   về sự  vật đơn giản nhưng các em thiếu quá nhiều kiến thức thực tế để  cảm   18 nhận cái hay và viết được một đoạn văn đúng ngữ  pháp, giàu hình ảnh, chân   thực, sáng tạo. Bên cạnh đó, vì cùng làm bài theo các câu hỏi gợi ý trong 15   phút nên các em viết khá giống nhau. Vậy làm thế nào để học sinh viết được   đoạn văn miêu tả  đúng ngữ  pháp, giàu hình  ảnh, chân thực, sáng tạo mà các  bài làm của học sinh không giống nhau? Sau đây tôi xin đưa ra một số  biện   pháp khắc phục được tình trạng thực tế trên: Ví dụ:  Tuần 19 – Bài tập 2 (TV2,  tập 2 ­ trang 21)                Viết một đoạn văn ngắn nói về mùa hè. Bài tập này gồm các câu hỏi gợi ý như sau: ­ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm? ­ Mặt trời mùa hè như thế nào? ­ Cây trái trong vườn như thế nào? ­ Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè? Với bài tập trên, khi tả  về  màu hè, học sinh thường thiếu cảm xúc từ  thực tế bởi thời điểm phải làm bài văn về  đề  tài này rơi vào tháng một, thật   khó nhớ  lại mùa hè mặt trời, cây cối, tiếng ve kêu như  thế  nào. Các em biết   mùa hè bắt đầu từ  tháng tư  vì các em vừa được học về   Bốn mùa  trong bài  Luyện từ và câu. Với miền Bắc, tháng tư dương lịch chưa có tiếng ve kêu râm  ran, chưa có hoa phượng nở. Các em viết được “Mùa hè cho trái ngọt hoa  thơm” vì các em đọc được từ  bài tập đọc Chuyện bốn mùa. Chính vì vậy, có  nhiều học trò trở  nên ngại viết văn bởi các em luôn cảm thấy mình viết văn  chưa hay. Rất nhiều em học sinh lớp 2 không biết mùa hè bắt đầu từ  tháng  nào. Các em thường tả mùa hè như sau: (1) Mùa hè bắt đầu từ tháng sáu trong năm. Mặt trời mùa hè chói chang. Cây   trái trong vườn tươi tốt. Học sinh thường được nghỉ hè vào dịp hè. 19 (2) Mùa hè bắt đầu từ tháng tư. Mặt trời màu hè rất rực rỡ. Thời tiết mùa hè   rất nóng bức. Cây trong vườn cho quả ngọt hoa thơm. Em được bố mẹ cho về   quê chơi thăm ông bà. Em rất yêu mùa hè. Không  phải   các  em  chép   văn  mẫu  và   các  em  cũng  không  nhìn  nhau  nhưng ta sẽ  thấy học sinh lớp 2 tả mùa hè khá giống nhau. Cùng một gợi ý,  lại chỉ  được viết trong 15 phút tại lớp, hiển nhiên các em sẽ  viết khá giống  nhau. Để giúp học sinh tả ngắn về mùa hè với những cảm xúc chân thực, giáo  viên hướng dẫn các em bằng một số câu hỏi gợi ý thêm: ­ Mùa hè năm trước, em có nghe thấy âm thanh gì ở khắp nơi không? ­ Tiếng ve làm cho mọi người cảm thấy như thế nào? ­ Theo em, vào mùa hè thì loại hoa nào nở nhiều nhất? Màu sắc hoa thế nào? ­ Quả gì em hay được ăn vào màu hè? Màu sắc và vị của nó như thế nào? ­ Mùa hè, em thường làm gì và được đi chơi ở đâu? Giáo viên có thể gợi ý: ­ Ngoài mốc thời gian bắt đầu màu hè là tháng tư, em còn có cách giới thiệu   nào về  màu hè tự  nhiên và thú vị  hơn? (Khi hoa phượng nở  thì mùa hè đến./   Khi tiếng ve kêu râm ran báo hiệu màu hè đến….)  ­ Người ta thường gọi các chú ve là ca sĩ của mùa hè. Nếu giới thiệu mùa hè   gắn với thiếng ve thì ta nên nói như thế nào cho sinh động?  (Những tiếng ve kêu râm ran trong vòm lá như  một dàn hợp xướng báo hiệu   mùa hè đã đến.) Còn khi tả  ông mặt trời, giáo viên giúp học sinh tìm nhiều từ  ngữ  để  diễn đạt như  chói chang, rực rỡ, gay gắt,…  Các em nên quan sát thêm bầu  trời, ánh nắng, không khí, cây cối… để có những bài văn hay. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan