1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong xu thế hòa nhập thế giới đòi hỏi nền giáo dục nước ta phải đào tạo
những con người lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực thích ứng để giải
quyết các vấn đề thực tế trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và hợp tác.
1.2. Ở trường tiểu học, môn Tiếng Việt chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, có
số tiết nhiều nhất trong các môn học. Dạy Tiếng Việt ở tiểu học nhằm mục tiêu “Hình
thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt như nghe, nói, đọc,
viết để học tập và giao tiếp trong môi trường hoạt động lứa tuổi” (Trích tài liệu tập
huấn giáo viên cốt cán các tỉnh phía Bắc - 4/2003). Mục tiêu đó coi trọng tính thực
hành, thực hành các kĩ năng sử dụng tiếng Việt trong hoạt động giao tiếp và học tập.
Đồng thời môn Tiếng Việt còn góp phần bồi dưỡng tình yêu cái đẹp, yêu quê hương
đất nước, hình thành và phát triển nhân cách tốt đẹp của con người trong thế kỉ mới.
Trong môn Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng. Đây là
phân môn rèn cho học sinh các kĩ năng nghe, nói và đọc. Trong đó, nghe và nói là hai
kĩ năng quan trọng giúp HS tạo lập ngôn bản và giúp HS giao tiếp trong suốt cuộc đời
mình. Kĩ năng nói được hình thành trước kĩ năng nghe nhờ giao tiếp tự nhiên, trong
quá trình sản sinh ngôn bản, hoạt động nói được thực hiện nhiều hơn. Chính vì vậy,
chương trình Tiếng Việt mới rất chú trọng rèn kĩ năng nói cho HS. Kĩ năng nói là một
trong những kĩ năng giao tiếp quan trọng của con người. Mỗi phân môn của môn
Tiếng Việt đều rèn cho HS kĩ năng nói, trong đó ở phân môn Kể chuyện, HS được
trực tiếp tham gia vào các hoạt động giao tiếp nhiều hơn.
1.3. Học sinh tiểu học giàu trí tưởng tượng, cảm xúc và sáng tạo. Song phần tư
duy sáng tạo vẫn còn phiến diện, nghiêng về nhận thức cảm tính, tư duy trừu tượng
mới chỉ phát triển ở bước đầu, hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và
dễ thay đổi, hơn nữa vốn từ tiếng Việt còn nhiều hạn chế, các em gặp khó khăn trong
việc lựa chọn từ ngữ diễn đạt thành lời các ý tưởng và suy nghĩ cũng như khi nghe,
đọc hiểu nội dung truyện. Sự thiếu tự tin, thiếu mạnh dạn, tâm lý rụt rè, e ngại trong
giao tiếp cũng là một trở ngại lớn đối với các em trong học tập. Do đó, dạy học như
thế nào để hiệu quả hơn là vấn đề trọng tâm được ngành giáo dục đặc biệt quan tâm.
2
Cho đến nay, việc triển khai chương trình tiếng Việt đã bước sang năm thứ 8
nhưng phần lớn giáo viên vẫn lúng túng, chưa định hình được phương pháp dạy phân
môn Kể chuyện cho phù hợp với mục đích, nội dung bài học đặt ra nên hiệu quả các
giờ học kể chuyện chưa cao. Kể chuyện chưa thực sự tạo được nhu cầu giao tiếp, điều
kiện giao tiếp cần thiết cho HS. Đặc biệt việc tổ chức dạy học nhằm rèn kĩ năng nói
cho HS trong phân môn Kể chuyện nói chung và phân môn Kể chuyện lớp 2, 3 nói
riêng hiệu quả còn thấp. Do đó, GV phải biết lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp
nhằm huy động tối đa thời lượng tiết học tạo điều kiện cho học sinh được rèn kĩ năng
nói. Đây là vấn đề mang tính thời sự, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp và thực
hiện mục tiêu đào tạo con người mới trong xu thế hội nhập toàn cầu.
1.4. Hiện nay có nhiều tài liệu viết về việc dạy Kể chuyện trong trường Tiểu
học như: Cuốn “Phương pháp dạy học tiếng Việt 2” xuất bản năm 1998 do hai tác
giả Lê Phương Nga và Nguyễn Trí viết đã đánh giá cao ý nghĩa, mục đích của kể
chuyện và quan niệm kể chuyện là một kĩ năng, một hoạt động sáng tạo nghệ thuật,
một hoạt động lời nói. Đó là cách nói có nghệ thuật về văn bản mang tính thẩm mĩ.
Cuốn “Dạy kể chuyện ở trường tiểu học” xuất bản năm 2001 của tác giả Chu Huy đã
nêu khái quát về cơ sở lý luận và thực tiễn của phân môn kể chuyện một cách cụ thể,
thiết thực. Cũng trong thời gian này, tác giả Nguyễn Trí viết cuốn “Luyện viết văn kể
chuyện ở tiểu học” Tác giả đưa ra phương pháp chung của từng kiểu bài kể chuyện,
sách còn đưa nhiều hình thức kể chuyện phong phú, đa dạng.
Ngoài ra, còn khá nhiều công trình nghiên cứu khác đề cập một cách trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các vấn đề này ở mức độ nông sâu khác nhau như Tạp chí giáo
dục, Tạp chí Tiểu học,..
Trên đây là những công trình viết về dạy học Tiếng Việt nói chung và dạy học
phân môn Kể chuyện nói riêng ở Tiểu học. Các công trình đó tuy không viết riêng về
vấn đề rèn kĩ năng nói cho HS như đề tài luận văn này quan tâm, nhưng người nghiên
cứu vẫn có thể tiếp thu nhiều điều bổ ích. Bởi vậy, nghiên cứu vấn đề rèn kĩ năng nói
cho học sinh lớp 2, 3 trong phân môn Kể chuyện vẫn là một đề tài mới mẻ, thú vị.
Chúng tôi sẽ tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước để
làm sáng tỏ cho các vấn đề mà đề tài chúng tôi quan tâm.
3
Xuất phát từ lý do trên nên chúng tôi đã chọn đề tài: “Rèn kĩ năng nói cho học
sinh lớp 2, lớp 3 trong phân môn kể chuyện” để một mặt chuẩn bị cơ sở lí luận cho
các biện pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp, mặt khác góp phần hoàn thành mục tiêu
giáo dục tất cả vì sự phát triển toàn diện của trẻ em lứa tuổi tiểu học.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xây dựng những biện pháp rèn kĩ năng nói cho HS để góp
phần nâng cao chất lượng hiệu quả giờ kể chuyện ở lớp 2, 3, trên cơ sở vận dụng lý
thuyết giao tiếp, lý thuyết hội thoại và vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
vào giờ kể chuyện.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc rèn kĩ năng nói
cho HS trong phân môn kể chuyện lớp 2 và lớp 3.
- Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng nói cho HS để giờ dạy học phân môn
Kể chuyện lớp 2,3 đạt hiệu quả cao hơn, từ đó rèn và phát triển khả năng giao tiếp
cho HS.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Nội dung và phương pháp dạy học phân môn Kể chuyện lớp 2,3 theo chương
trình hiện hành.
- Giới hạn nội dung nghiên cứu trên đối tượng HS tiểu học lớp 2,3 ở một số
trường Tiểu học trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
5.2. Phương pháp quan sát
5.3. Phương pháp điều tra khảo sát nghiên cứu thực tiễn
5.4. Phương pháp thống kê
5.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
6. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học do luận văn đề xuất
khi rèn kĩ năng nói trong giờ dạy kể chuyện lớp 2,3 thì sẽ phát huy được tính tích cực,
4
sáng tạo, chủ động của HS nâng cao hiệu quả giờ dạy kể chuyện, tăng cường năng
lực sử ngôn ngữ nói của HS một cách cách rõ rệt.
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở ngôn ngữ
1.1.1. Kĩ năng nói
1.1.1.1. Khái niệm
* Kĩ năng: “Kĩ năng là hệ thống các thao tác, những cách
thức hành động phù hợp để thực hiện có kết quả một hoạt động dựa trên những tri
thức nhất định”
* Kĩ năng nói: Kĩ năng nói là khả năng, trình độ biểu đạt ngôn ngữ, là cách
thức thực hiện hài hòa có kết quả việc sử dụng ngôn ngữ kết hợp với các hành vi cử
chỉ, điệu bộ của chủ thể trong hoạt động giao tiếp với những hoàn cảnh, tình huống
thực tế khác nhau.
1.1.1.2. Con đường hình thành kĩ năng nói
1.1.1.3. Một số kĩ năng cơ bản cần rèn luyện
1.1.2. Lý thuyết giao tiếp và việc vận dụng lý thuyết giao tiếp để rèn kĩ năng nói
cho học sinh lớp 2,3 trong phân môn Kể chuyện
1.1.2.1. Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là quá trình xã hội, trong đó các chủ thể trao đổi thông tin, cảm xúc,
nhân thức, đánh giá và điều chỉnh hành vi lẫn nhau, đồng thời tự điều chỉnh hành vi
của mình. Phương tiện giao tiếp đặc thù là ngôn ngữ.”
1.1.2.2. Các nhân tố trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ: Nhân vật giao tiếp;
mục đích giao tiếp; nội dung giao tiếp; phương tiện và cách thức giao tiếp; sản phẩm
của giao tiếp (Ngôn bản)
1.1.2.3. Dạy học Tiếng Việt hướng vào hoạt động giao tiếp
5
1.1.2.4. Vận dụng lý thuyết giao tiếp để rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2,3 trong
phân môn Kể chuyện
- Vận dụng lý thuyêt giao tiếp để nhận thức văn bản kể chuyện và tổ chức hoạt
động kể chuyện.
- Vận dụng lý thuyết giao tiếp để rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện
1.1.3. Lý thuyết hội thoại và việc vận dụng lí thuyết hội thoại để rèn kĩ năng nói
cho học sinh lớp 2,3 trong phân môn Kể chuyện
1.1.3.1. Khái niệm hội thoại và các kiểu hội thoại
1.1.3.2. Các vận động hội thoại: - Vận động trao lời
- Vận động đáp lời
- Vận động tương tác
1.1.3.3. Các đơn vị hội thoại: Cuộc thoại, đoạn thoại,cặp thoại
1.1.3.4. Các quy tắc hội thoại
- Quy tắc thương lượng.
- Quy tắc luân phiên lượt lời.
- Quy tắc liên kết hội thoại.
- Quy tắc tôn trọng thể diện của nhau.
- Quy tắc cộng tác.
1.1.3.5. Các yếu tố kèm lời và phi lời: cử chỉ, vẻ mặt, ánh mắt, tư thế cơ thể (lắc đầu,
nhún vai…), sự tiếp xúc của cơ thể ( ôm ấp, vỗ vai, bắt tay) hay định hướng của cơ
thể (quay mặt, quay ngoắt bỏ đi,…), các phản ứng như huýt sáo, xô ghế, đạp bàn,...
1.2. Cơ sở tâm lý học
1.2.1. Đặc điển tâm lý của học sinh lớp 2,3
Đây là giai đoạn có nhiều biến đổi về tâm sinh lý và hoạt động của trẻ. Tri giác
đượm màu sắc xúc cảm, số lượng chi tiết chi giác ít, khả năng tổng hợp, quan sát
kém. Trong hoạt động khái quát hóa, các em thường căn cứ vào các dấu hiệu bề ngoài
cụ thể và trực quan chưa chú ý tới những dấu hiệu chung, dấu hiệu bản chất, thường
phán đoán theo một chiều, dựa vào những dấu hiệu duy nhất. HS lớp 2,3 rất có nhu
cầu được giao lưu, trò chuyện, chia sẻ với bạn bè, cha mẹ, thầy cô,... những thu nhận
mới lạ của mình.
6
1.2.2. Đặc điểm ngôn ngữ của học sinh lớp 2,3
Hầu hết HS lớp 2,3 có ngôn ngữ nói thành thạo, vốn từ tiếng Việt được tích lũy
một cách tự phát trong sinh hoạt gia đình, trường Mầm non,...Các em mang vốn ấy để
tiếp tục học Tiếng Việt ở tiểu học là đã mang cả những tri thức sơ giản về tiếng mẹ đẻ
cùng các yếu tố tự nhiên không tích cực do thói quen hoặc tập quán trong phát ngôn.
Dạy tiếng mẹ đẻ cho các em cần tính đến vốn liếng có sẵn, tính đến các ưu điểm, các
nhược điểm của nó. Nhà trường dạy học sinh chuyển từ sử dụng tiếng mẹ đẻ theo
kinh nghiệm tự phát sang sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách khoa học, tự giác.
1.2.3. Đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 2,3
- Nhận thức cảm tính: Tri giác của HS lớp 2,3 mang tính đại thể, ít đi vào chi
tiết và mang tính không ổn định, thường gắn với các hành động trực quan và bắt đầu
mang tính cảm xúc, trẻ thích quan sát các sự vật hiện tượng có màu sắc, tri giác đã
mang tính mục đích, có phương hướng khá rõ ràng - Tri giác có chủ định ( Trẻ biết
lập kế hoạch học tập, biết sắp sếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến
khó,...)
- Nhận thức lý tính: HS lớp 2,3, tư duy còn mang đậm màu sắc cảm xúc và tư
duy trực quan hành động chiếm ưu thế. Các phẩm chất tư duy chuyển từ tính cụ thể
sang tư duy trừu tượng khái quát nhưng hoạt động phân tích tổng hợp kiến thức còn
sơ đẳng ở phần đông học sinh. Tưởng tượng đã phát triển phong phú hơn nhờ bộ não
phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy nhiên, tưởng tượng của các
em còn đơn giản chưa bền vững, dễ thay đổi. Qua đây, GV phải phát triển tư duy và
trí tưởng tượng cho trẻ bằng cách biến các kiến thức “khô khan” thành những hình
ảnh có cảm xúc, đặt ra cho các em những câu hỏi có tính gợi mở, thu hút các em vào
hoạt động học tập để các em có cơ hội phát triển quá trình nhận thức lí tính của mình
một cách toàn diện
1.2.4.Các yếu tố ngoài ngôn ngữ ảnh hưởng đến quá trình phát triển lời nói
của học sinh: Yếu tố tâm sinh lý và yếu tố xã hội
1.3. Cơ sở thực tiễn
1.3.1. Khái quát về nội dung chương trình kể chuyện lớp 2,3
1.3.1.1. Nội dung chương trình kể chuyện lớp 2,3
7
1.3.1.2. Nhận xét chương trình kể chuyện ở lớp 2,3 so với chương trình cũ: Tính hệ
thống; mức độ biểu hiện của kĩ năng nói
1.3.2. Phân loại hệ thống các bài tập KC trong SGK Tiếng Việt lớp 2,3
- Bài tập dựa vào theo tranh kể lại truyện
- Bài tập dựa vào câu hỏi, gợi ý, dàn ý để kể lại câu chuyện
- Bài tập đặt tên cho mỗi tranh hoặc đoạn truyện rồi kể lại
- Bài tập kể chuyện bằng lời của tác giả, bằng lời của mình, bằng lời của một
nhân vật trong câu chuyện
- Kể chuyện phân vai
- Tưởng tượng để phát triển một chi tiết trong câu chuyện
1.3.3. Thực trạng dạy - học phân môn kể chuyện lớp 2,3
1.3.3.1. Đối tượng khảo sát
1.3.3.2. Nội dung khảo sát
1.3.3.3. Phương pháp khảo sát
1.3.3.4. Kết quả khảo sát
- Phân tích thực trạng dạy học KC từ kết quả điều tra GV.
- Phân tích thực trạng dạy học KC từ kết quả điều tra HS.
1.4. Tiểu kết chương
1.4.1. Giao tiếp ngôn ngữ là một hoạt động đặc thù và quan trọng nhất của con người.
Hoạt động này diễn ra với hai quá trình cơ bản là quá trình tạo lập, sản sinh và tiếp
nhận, lĩnh hội văn bản. Trong hai quá trình này, hoạt động GT luôn có sự tham gia và
ảnh hưởng của các nhân tố giao tiếp (gọi chung là ngữ cảnh). Những nhân tố này vừa
góp phần thực hiện hoạt động giao tiếp, vừa ảnh hưởng, chi phối đến hoạt động giao
tiếp và để lại dấu ấn rõ rệt trong các sản phẩm của hoạt động giao tiếp đó là ngôn
bản . Do vậy, để tạo lập hay tiếp nhận một ngôn bản không thể không xem xét đến
các nhân tố giao tiếp như nhân vật giao tiếp, mục đích giao tiếp, nội dung giao tiếp,
hoàn cảnh giao tiếp.
1.4.2. Kể chuyện là phân môn thực hành mang tính tổng hợp cao của
môn tiếng Việt. Khi bàn tới việc dạy kể chuyện, nhiều nhà nghiên
8
cứu đã khẳng định tính chất thực hành, tính chất hoạt động của nội dung dạy học này.
Theo đó, hoạt động kể chuyện của HS chính là một hoạt động giao tiếp - hoạt động
chuyển ý thành lời. Bởi vậy việc dạy kể chuyện cần rèn luyện cho HS thành thạo
từng kĩ năng như kĩ năng đọc, kĩ năng nghe (nghe để xác định nội dung giao tiếp) đến
các kĩ năng lập dàn ý, xây dựng bố cục (kĩ năng diễn đạt).
Dạy kĩ năng nói (phân môn Kể chuyện) ở lớp 2, 3 là một hoạt động giao tiếp
đặc biệt, bao gồm cả giao tiếp sư phạm và giao tiếp đời thường. HS lớp 2, 3 có đầy đủ
các điều kiện về tâm, sinh lí để tham gia vào quá trình giao tiếp và hội thoại nhưng
cũng có những nhân tố ngăn cản quá trình này như nhút nhát, ngại giao tiếp.
Sự thay đổi của chương trình, SGK, các nội dung dạy học, cấu trúc bài học và
phương pháp tổ chức dạy học,… đã tác động và chi phối trực tiếp đến phương pháp
dạy học của cả GV và HS. Qua khảo sát thực tế việc dạy và học kể chuyện của GV và
HS, chúng tôi nhận thấy việc dạy kĩ năng nói (phân môn Kể chuyện) ở trường triểu
học đa cởi mở đa dạng hơn, GT là một nhu cầu thực tế của các em.
1.4.3. Vận dụng quan điểm dạy học tích cực của Giáo dục học, việc dạy học kể
chuyện cần quán triệt nguyên tắc giao tiếp. HS học tiếng không phải chỉ để nắm
những tri thức khoa học mang tính hệ thống về tiếng (ở đây là tiếng Việt), mà điều
quan trọng hơn là trên cơ sở những kiến thức khoa học tiếp thu được, HS phải nắm
được cách sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành thạo, nhằm hình thành các kĩ năng, kĩ
xảo sử dụng ngôn ngữ.
Nguyên tắc giao tiếp sẽ chi phối trực tiếp đến việc lựa chọn và sử dụng các
phương pháp dạy học kể chuyện. Các phương pháp dạy học này cần được vận dụng
một cách linh hoạt và có sự kết hợp với nhau một cách phù hợp nhằm cụ thể hoá các
nhiệm vụ của HS trong từng giờ học kể chuyện. Trên tinh thần ấy ở chương thứ hai
của luận văn, chúng tôi sẽ thiết kế việc vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
vào dạy kể chuyện cho từng bài tập kể chuyện theo đúng những định hướng và yêu
cầu của lí thuyết giao tiếp và hội thoại để rèn kĩ năng nói cho HS.
9
CHƯƠNG II
VẬN DỤNG MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC ĐỂ RÈN KĨ
NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2, 3 TRONG PHÂN MÔN KỂ CHUYỆN
2.1. Vận dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn để rèn kĩ năng
nói cho học sinh lớp 2,3 trong giờ kể chuyện
Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là PPDH trong đó GV
đặt ra những vấn đề của bài học thông qua các tình huống có vấn đề. Từ đó thu hút
được sự quan tâm tìm hiểu của HS, đòi hỏi HS phải tích cực, chủ động suy nghĩ giải
quyết các vấn đề đặt ra để tìm kiếm cho bản thân mình những kiến thức mới và cách
thức học tập mới.
2.1.1. Mục đích của việc vận dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề để
rèn kĩ năng nóicho HS lớp 2,3
- Rèn luyện cho HS biết phát hiện và giải quyết các vấn đề gặp phải trong học
tập và cuộc sống cá nhân, gia đình, cộng đồng
- Hình thành ở HS khả năng tư duy giải quyết vấn đề, khả năng thích ứng, hợp
tác trong đời sống, đặc biệt trong giao tiếp. Phương pháp này đòi hỏi HS tham gia
giải quyết các vấn đề do một hoặc một số tình huống đặt ra. Nhờ đó, HS nắm được tri
thức, phát hiện tư duy sáng tạo và chủ động chiếm lĩnh tri thức mới.
2.1.2. Điều kiện góp phần thành công khi vận dụng PPDH phát hiện và giải quyết
vấn đề để rèn kĩ năng nói cho học sinh
Đối với GV: phải soạn thảo và nêu được tình huống có vấn đề (chính là yêu
cầu của bài tập kể chuyện). Đối với mỗi dạng bài tập, GV cần chuẩn bị những tình
huống khác nhau, HS tự phát hiện và giải quyết vấn đề. Tình huống có vấn đề phải
được xây dựng dựa trên ba yếu tố: nhiệm vụ nhận thức, nhu cầu nhận thức và khả
năng nhận thức và thoả mãn các điều kiện như Tồn tại một vấn đề; gợi nhu cầu nhận
thức,khơi dậy niềm tin ở khả năng của bản thân
- Đối với HS: Phải được đặt vào tình huống có vấn đề và chủ động, tự giác,
tích cực suy nghĩ, sử dụng vốn ngôn ngữ, vốn kiến thức và những hiểu biết, kinh
nghiệm của bản thân mình để giải quyết vấn đề học tập.
10
2.1.3.Những biện pháp dạy học khi vận dụng phương pháp phát hiện và giải quyết
vấn đề để rèn kĩ năng nói cho HS
- Để HS có kĩ năng nói tốt, GV cần hướng dẫn HS lặp đi lặp lại qua nhiều bài
các khâu sau đây: Xác định các tiêu đề (cho mỗi đoạn, mỗi tranh), xác định quan hệ
giao tiếp (GT với nhân vật trong truyện, GT người nghe,..), Xác định nội dung để nói,
trình tự nói, giọng điệu nói., thể hiện của nhân vật, xác định ý nghĩa câu chuyện đã
truyền đạt cho người nghe
2.1.4. Các bước cần thực hiện khi vận dụng PPDH nêu vấn đề
Bước 1. Giáo viên nêu bài tập (tình huống có vấn đề) và giúp HS tiếp cận vấn
đề một cách chính xác (có thể kèm theo sự hướng dẫn, lời giải thích để HS nắm bắt
được vấn đề đó)
Bước 2. Yêu cầu HS nhắc lại vấn đề cần giải quyết.
Bước 3. Hướng dẫn HS tìm giải pháp để kể chuyện và yêu cầu HS trình bày
câu chuyện đó.
Bước 4. Áp dụng giải pháp tìm được để kể lại câu chuyện.
Bước 5. Nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm.
2.2. Vận dụng phương pháp đóng vai để rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2,3
trong giờ kể chuyện
Phương pháp đóng vai (còn gọi là phương pháp sắm vai) là PPDH trong đó GV
tổ chức cho HS giải quyết một tình huống của nội dung học tập gắn liền với cuộc
sống thực tể bằng cách diễn xuất ngẫu hứng không cần luyện tập kịch bản luyện tập
trước.
2.2.1. Mục đích của việc vận dụng phương pháp đóng vai để rèn kĩ năng nói cho
học sinh
Hình thành ở HS khả năng giao tiếp, khả năng thích ứng với các tình huống
giao tiếp đã biết và các tình huống giao tiếp mới, thói quen ứng xử linh hoạt trong đời
sống hàng ngày bằng ngôn ngữ văn hoá, cách ứng xử, cách nói năng trong tình huống
giao tiếp cụ thể, qua đó HS được rèn kĩ năng nói độc thoại và đối thoại.
- 2 mức độ đóng vai:
11
+ Đóng vai một nhân vật (mượn lời nhân vật) kể lại câu chuyện: rèn cho HS kĩ
năng nói sáng tạo lời kể, trình tự kể và giọng kể tự nhiên, tự tin.
+ Đóng vai nhiều nhân vật - phân vai kể lại câu chuyện (như đóng kịch phải có
người dẫn chuyện):
2.2.2. Điều kiện để thành công cho việc rèn kĩ năng nói khi vận dụng phương
pháp đóng vai
2.2.2.1. Công tác chuẩn bị:
GV cần chuẩn bị chu đáo về nội dung các bài tập luyện nói, về các hoạt động
để tổ chức dạy
HS cần biết rõ mình phải làm gì, làm như thế nào cho đúng
2.2.2.2. Tổ chức hoạt động đóng vai: Phải kết hợp các phương pháp một cách
linh hoạt, lên kế hoạch để có nhiều tình huống GT, phù hợp với đối tượng HS
2.2.2.3 Đánh giá hoạt động đóng vai
2.2.3. Những biện pháp dạy học cần thiết khi vận dụng phương pháp đóng vai để
rèn kĩ năng nói cho HS
2.2.3.1. Giới thiệu mục đích của việc đóng vai
2.2.3.2. GV đưa ra tình huống giao tiếp
2.2.3.3. Nêu rõ nhiệm vụ HS cần làm
2.2.3.4. Chọn HS và phân vai và ngôn ngữ khi đóng vai
2.2.3.5. Tổ chức cho HS đóng vai thực hiện tình huống GT
2.2.3.6. Tổ chức cho HS kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
2.2.4. Các bước thực hiện khi vận dụng phương pháp đóng vai để rèn kĩ năng nói
Bước 1: GV giới thiệu tình huống, nêu vấn đề
Bước 2: GV nêu nhiệm cụ thể cho HS
Bước 3: Phân nhóm hoặc chọn HS phân vai nhân vật.
Bước 4: Tổ chức đóng vai.
Bước 5: Kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
2.3. Vận dụng phương pháp thực hành giao tiếp để rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 2,3 trong giờ kể chuyện
12
Phương pháp thực hành giao tiếp là phương pháp dạy học trong đó người
giáo viên đưa ra các bài tập thực hành giao tiếp và hướng dẫn HS tiến hành các hoạt
động giao tiếp (nghe - nói, hỏi - đáp) theo yêu cầu và nội dung của bài tập đó
2.3.1. Mục đích của việc vận dụng phương pháp thực hành GT
- Làm cho HS nhận biết được những quy tắc sử dụng tiếng Việt trong thực tiễn
GT và vận dụng những điều đã học vào thực tế sử dụng ngôn ngữ từ đó các em hứng
thú học tập hiệu quả hơn.
- Rèn cho HS kĩ năng nói ở mức tối đa, kích thích HS tích cực, độc lập tư duy
đồng thời bồi dưỡng năng lực diễn đạt bằng lời, giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong
quá trình giao tiếp.
2.3.2. Điều kiện góp phần thành công khi vận dụng phương pháp thực hành giao
tiếp để rèn kĩ năng nói cho học sinh
- GV phải làm cho HS hiểu rõ các thành tố có trong tình huống giao tiếp: nhân
vật GT, đề tài cuộc GT, hoàn cảnh GT.
- Tổ chức cho HS tham gia luyện tập nhiều lần trong các tình huống GT, các
lần luyện tập phải luôn được bổ sung, hoàn thiện
- Tổ chức cho HS hoạt động (cá nhân, cặp, nhóm, lớp) bằng kiến thức và kinh
nghiệm đã có để hình thành kiến thức mới
2.3.3. Những biện pháp dạy học cần thiết khi vận dụng phương pháp thực hành
giao tiếp
2.3.3.1. Liên hệ với thực tế để biết mục đích của bài học
2.3.3.2. Nêu rõ từng nhiệm vụ HS phải làm
2.3.3.3. Hướng dẫn và tổ chức hoạt động cho HS huy động kiến thức và kinh
nghiệm đã để hình thành kiến thức và kĩ năng mới
2.3.3.4. Tổ chức cho HS hoạt động để hình thành kiến thức kĩ năng mới
2.3.3.5. Tổ chức cho HS đánh giá kết quả và điều chỉnh kết quả theo chuẩn mà
GV đưa ra
2.3.4. Các bước cần thực hiện khi vận dụng phương pháp thực hành giao
tiếp để dạy học kể chuyện
13
Bước 1: Giới thiệu bài tập thực hành giao tiếp, nêu mục đích yêu cầu bài tập
đó.
Bước 2: Hướng dẫn các hoạt động thực hành.
Bước 3: Tổ chức thực hành giao tiếp.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Bước 5: Kết luận chung về bài thực hành giao tiếp.
2.4. Vận dụng phương pháp dạy học thông qua trò chơi để rèn kĩ năng nói cho
học sinh lớp 2, 3 trong giờ kể chuyện
Phương pháp dạy học thông qua các trò chơi học tập là PPDH trong đó giáo
viên truyền đạt tri thức, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết cho HS thông qua các trò chơi học
tập.
2.4.1. Mục đích của việc sử dụng trò chơi học tập để rèn kĩ năng nói
Hình thành ở HS thói quen tự củng cố kiến thức kĩ năng, thói quen học tập,
làm việc theo nhiều quy mô, tinh thần tập thể, tinh thần thi đua, rèn phản ứng nhanh
(nhớ nhanh, suy luận nhanh, chọn lời nhanh,...)
Giúp cho việc hình thành kiến thức và rèn luyện kĩ năng của HS bớt vẻ khô
khan, đồng thời tạo bầu không khí học tập tự nhiên,
thoải mái, giúp HS tự tin, giờ học trở nên thêm sôi nổi, hấp dẫn.
2.4.2. Điều kiện góp phần thành công khi sử dụng PPDH thông qua trò chơi để
rèn kĩ năng nói cho học sinh
2.4.2.1.Nội dung trò chơi học tập: phải gắn với các tri thức, kĩ năng cần củng
cố, rèn luyện để xây dựng thành các trò chơi
2.4.2.2. Luật trò chơi học tập: luật chơi rõ ràng, đơn gản, dễ nhớ, dễ thực hiện,
không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện
2.4.2.3. Thời gian và thời điểm sử dụng trò chơi học tập: tổ chức một cách hợp
lí và phải trở thành một bộ phận của quá trình tổ chức giờ học.
2.4.3. Những biện pháp kĩ thuật khi sử dụngphương pháp trò chơi để rèn kĩ năng
nói cho HS
2.4.3.1. Nêu rõ mục đích của trò chơi
2.4.3.2. Đưa ra hình thức chơi gồm nhiều hoạt động
14
2.4.3.3. Đưa ra cách chơi đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện
2.4.3.4. Đưa ra điều kiện tổ chức chơi đơn giản
2.4.3.5. Chọn quản trò thích hợp.
2.4.4. Các bước cần thực hiện khi vận dụng PPDH thông qua trò chơi để
rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện
Bước 1: GV nêu mục đích, yêu cầu của trò chơi (củng cố trí thức, kĩ năng, kĩ
xảo).
Bước 2: Phổ biến cách chơi, luật chơi và thời gian chơi.
Bước 3: Tổ chức cho học sinh chơi.
Bước 4: Nhận xét, đánh giá, rút kinh nghiệm sau khi chơi.
2.4.5. Giới thiệu một số loại hình trò chơi học tập để rèn kĩ năng nói cho HS
- Lớp 2: Nhìn tranh kể đoan; “Nối dây” kể chuyện; Bắt lỗi kể sai; Thi tài kể
hay; Phân vai dựng truyện; Ai nhanh ai đúng,...
- Lớp 3: Sắp xếp ý đúng theo trình tự câu chuyện; Thi đặt tên cho đoạn; Thi kể
chuyện liên hoàn; kể chuyện theo lời nhân vật,...
2.5. Vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm để rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 2,3 trong giờ kể chuyện
Phương pháp học theo nhóm là một PPDH trong đó GV tạo điều kiện cho HS
học tập theo từng nhóm nhằm luyện tập khả năng giao tiếp bằng cách trao đổi, hợp
tác, tranh luận, bàn bạc với nhau để giải quyết các vấn đề về học tập và tìm ra được
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới cho bản thân.
2.5.1.Mục đích của việc vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm để rèn kĩ năng
nói cho HS lớp 2,3 trong giờ kể chuyện
Hình thành ở HS khả năng giao tiếp miệng, khả năng hợp tác, khả năng thích
ứng và khả năng độc lập suy nghĩ. Khi thảo luận nhóm, HS có cơ hội phát huy vốn từ
vựng đã học và học lẫn nhau, theo đó các lỗi sai được sửa trong bầu không khí thoải
mái.
GV có cơ hội phát triển ý kiến, kinh nghiệm của HS. HS được kể và nghe kể
chuyện nhiều hơn, tự tin hơn khi nêu ý kiến.
15
2.5.2. Điều kiện để góp phần thành công cho việc rèn kĩ năng nói theo phương
pháp dạy học theo nhóm
- Bài tập kể chuyện khi đưa ra thảo luận phải kích thích sự chú ý của HS, các
bài tập khi đưa ra thảo luận thường là những vấn đề vượt khả năng giải quyết của 1
HS nhưng lại không quá khó nếu các em cùng trao đổi để tìm cách giải quyết. Chú ý
đến tính vừa sức đối với HS.
- Khi thảo luận nhóm HS đều được trình bày ý kiến, quan điểm. GV hỗ trợ HS
khi cần thiêt, động viên, khích lệ kịp thời. HS được luân phiên trình bày,nhận xét, bổ
sung cho nhau để HS được rèn kĩ năng đánh giá và tự đánh giá.
2.5.3. Những biện pháp dạy học cần thiết khi vận dụng phương pháp dạy học theo
nhóm để rèn kĩ năng nói cho HS lớp 2,3
2.5.3.1.Tổ chức hoạt động nhóm linh hoạt (có 5 cách chia nhóm như nhóm
ngẫu nhiên; nhóm thân nhau từ trước; nhóm theo lực học
hay kinh nghiêm; nhóm có chủ ý; nhóm các HS ngồi gần nhau)
2.5.3.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi nhiều kiểu khác nhau: yêu cầu nhớ lại, câu
hỏi kích thích tư duy tìm tòi, phát hiện, câu hỏi yêu cầu nhận xét hoặc đánh giá.
2.5.3.3. Tổng hợp kết quả trước lớp
2.5.4. Các bước cần thực hiện khi vận dụng PPDH theo nhóm
Bước 1. Nêu yêu cầu nhiệm vụ mà HS phải làm.
Bước 2. Hướng dẫn chia nhóm dựa theo yêu cầu bài tập (Mỗi nhóm đều phải
có thư kí, nhóm trưởng, người trình bày, mọi thành viên trong nhóm đều tham gia
đóng góp ý kiến).
Bước 3. Giao nhiệm vụ cho từng nhóm và giới hạn thời gian.
Bước 4. Quan sát hoạt động, hướng dẫn gợi ý thảo luận.
Bước 5. Đại diện các nhóm trình bày kết quả.
Bước 6. Tổ chức nhận xét, đánh giá xếp loại, bổ sung những ý kiến cần thiết,
động viên tinh thần làm việc của nhóm.
2.6. Vận dụng phương pháp dạy học trực quan để rèn kĩ năng nói cho học sinh
lớp 2, 3 trong giờ kể chuyện
16
Trực quan có thể được xem xét là một phương pháp dạy học nhằm tổ chức cho
học sinh tận mắt quan sát sự vật, hiện thực,... để tìm hiểu một vấn đề, tìm kiếm một ý
tưởng hay một thái độ thông qua quan sát
2.6.1. Mục đích của việc vận dụng phương pháp dạy học trực quan để rèn kĩ năng
nóicho HS lớp 2,3 trong giờ kể chuyện
- Giúp người kể và người nghe phát triển trí tưởng tượng và để tạo môi trường,
bối cảnh
- Giúp HS: nhớ nội dung câu chuyện, nội dung kể và lời kể, tạo môi trường,
bối cảnh, không khí diễn ra sự việc, tác động đến giọng kể, lời kể, cảm hứng kể.
- Tạo cho người kể và người nghe xích lại gần nhau hơn
2.6.2. Điều kiện góp phần thành công cho việc rèn kĩ năng nói khi sử dụng
phương pháp dạy học trực quan
Lựa chọn các phương tiện trực quan phải phù hợp với mục đích, nhiệm vụ dạy
học của một bài học đề ra, trình bày các phương pháp trực quan theo một trình tự
nhất định
- Phương tiện đồ dùng dạy học phải chính xác, khoa học, phản ánh trung thực
sự vật hiện tượng,. Hình thức bắt mắt. phương pháp trình bày và vận dụng chính xác
- Phương pháp trình bày và vận dụng phải chính xác
- Đảm bảo phát triển óc quan sát, năng lực quan sát nhanh, chính xác, độc lập,
kết hợp lời nói với việc trình bày các phương tiện.
2.6.3. Các bước tiến hành phương pháp dạy học trực quan trong giờ kể chuyệnlớp
2,3
Bước 1. Chuẩn bị các đồ dùng dạy học trực quan
Bước 2. Giới thiệu phương tiện trực quan, hướng dẫn HS cách quan sát để định
hướng nội dung bài học.
Bước 3. Tổ chức cho HS độc lập quan sát, xem xét trực quan
Bước 4. Trình bày kết quả quan sát
Bước 5. Tổ chức nhận xét, đánh giá xếp loại và bổ sung những ý kiến cần thiết,
động viên tinh thần làm việc của học sinh,…
2.6.4. Những ưu điểm và hạn chế khi sử dụng phương pháp dạy học trực quan
17
Ưu điểm: Không khí lớp học sôi nổi, giúp HS phát huy khả năng quan sát và
tưởng tượng. Từ đó, các em phát triển tư duy và trí tuệ. Huy động được sự tham gia
nhiều giác quan. - Tạo ra môi trường, bối cảnh, không khí diễn ra sự việc và giúp
người kể và người nghe xích lại gần nhau hơn.
- Hạn chế: Nếu sử dụng trực quan không đúng mức, đúng lúc, đúng chỗ các
phương tiện trực quan dễ làm cho HS phân tán chú ý, không tập trung vào dấu hiệu
cơ bản của nội dung. Mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị, hạn chế phát triển tư duy
trừu tượng.
1.7. Tiểu kết chương
Chương 2 của luận văn tập trung vào việc hướng dẫn GV vận dụng lí thuyết
GT và HT cùng với những phương pháp dạy học tích cực vào rèn kĩ năng nói cho HS
trong phân môn Kể chuyện. Chúng tôi đã trình bày cách vận dụng một số phương
pháp và biện pháp dạy học cụ thể vào giảng dạy phân môn Kể chuyện lớp 2,3.
Để thực hiện tốt việc rèn kĩ năng nói cho HS khi vận dụng các phương pháp
dạy học này, GV cần tạo cho HS có nhu cầu nói, nhu cầu giao tiếp. Như vậy, các em
sẽ thích thú, giờ học mới thật sự nhẹ nhàng, hấp dẫn. Khi đó các em đều bộc lộ được
vốn sống, vốn từ ngữ của mình, đặc biệt thể hiện được nội dung nói một cách thành
thạo, tự nhiên không gượng gạo, máy móc, khuôn sáo. Khi đánh giá kĩ năng nói của
HS cần có tiêu chí đánh giá dể đảm bảo tính khách quan, công bằng. Sản phẩm ngôn
bản của mỗi HS bao giờ cũng là của riêng mỗi em, thể hiện cá tính riêng tạo nên sự
phong phú muôn màu muôn vẻ. GV không nên xem suy nghĩ của mình làm chuẩn
mực đánh giá mà cần tôn trọng, khuyến khích cái riêng, cái mới, cái độc dáo trong
cánh nghĩ, cách cảm nhận của HS.
Việc định hướng các bài kể chuyện theo hướng vận dụng lí thuyết GT, HT và
vận dụng các phương pháp dạy học tích cực để rèn kĩ năng nói cho HS lớp 2,3 đã góp
phần vào việc đổi mới phương pháp dạy và học kể chuyện hiện nay. Nếu thực hiện
đầy đủ theo định hướng này, chắc chắn sẽ nâng cao được chất lượng nói và nhu cầu
nói cho HS khi học kể chuyện. Từ đó giúp HS có kĩ năng giao tiếp và kĩ năng sống
trong học tập cũng như trong đời sống sinh hoạt, đây là một nhiệm vụ trọng tâm đòi
mà các trường tiểu học hiện nay đang thực hiện.
18
CHƯƠNG III
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích, ý nghĩa của thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm là một khâu rất quan trọng trong việc thực thi toàn bộ ý
tưởng của đề tài, là khâu kiểm nghiệm, đánh giá kết quả của những giả thuyết khoa
học mà đề tài đề xuất.
Với việc vận dụng những phương pháp dạy học tích cực vào phân môn Kể
chuyện theo hướng rèn luyện kĩ năng nói cho HS như đề tài đã đề xuất ở chương II,
chúng tôi tiến hành thực nghiệm bước đầu áp dụng phương án này vào thực tế giảng
dạy một số tiết kể chuyện ở lớp 2,3 tại một số trường tiểu học nhằm mục đích xem
xét kiểm tra tính tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp dạy học này.
3.2. Tổ chức quá trình thực nghiệm
3.2.1. Chuẩn bị thực nghiệm
- Địa điểm thực nghiệm: 3 trường Tiểu học đại diện 3 khu vực khác nhau,
Trường tiểu học Ngọc Thanh B, Ngọc Thanh C, Xuân Hòa thị xã Phúc Yên
- Đối tượng thực nghiệm: Học sinh lớp 2,3
- Thời gian thực nghiệm: Từ ngày 11/3 ngày 25/ 4/2011
- Nội dung thực nghiệm: Tiến hành khảo nghiệm việc vận dụng 6 phương
pháp dạy học tích cực nêu ra ở trên
- Giáo án dạy thực nghiệm: thiết kế 2 giáo án theo hướng rèn kĩ năng nói cho
HS lớp 2,3
3.2.2. Mô tả các bước thực nghiệm
3.2.2.1. Quy trình thực nghiệm
3.2.2.2. Các bước tiến hành thực nghiệm
Bước 1. Trình bày các PPDH cơ bản sẽ sử dụng để dạy học kể chuyện theo
hướng rèn kĩ năng nói cho HS để GV nắm được nội dung, PPDH và ý đồ thực
nghiệm. Phát giáo án đã soạn cho GV thực nghiệm nghiên cứu và tiện theo dõi giờ
dạy
Bước 2. Kiểm tra đầu vào
Bước 3. Tiến hành dạy thực nghiệm và dạy đối chứng.
19
Bước 4. Kiểm tra đầu ra
3.3. Kết luận và phân tích kết quả thực nghiệm
3.3.1. Các bình diện được đánh giá
3.3.2. Kết quả và phân tích kết quả thực nghiệm
Biểu đồ 3.3.Tổng hợp chung về kĩ năng nói của HS lớp 2,3
Biểu đồ 3.4. Nhu cầu hứng thú học kể chuyện của HS lớp 2,3
20
3.4. Tiểu kết chương
Từ những đề xuất của chương hai, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trên
những địa bàn, vùng miền khác nhau để kiểm chứng tính khả thi của đề xuất trên với
các đối tượng nhận thức khác nhau. Kết quả thực nghiệm cho chúng tôi những nhận
định tổng quát
- Việc vận dụng một số PPDH rèn kĩ năng nói mà luận văn đề xuất đã góp
phần giúp HS nắm vững kiến thức, kĩ năng của bài học. Qua đó, giúp GV rèn luyện
kĩ năng nói cho HS một cách hiệu quả, tạo môi trường học tập và giao tiếp cho HS
đồng thời tạo thuận lợi để phát triển kĩ năng sử dụng tiếng Việt, năng lực giao tiếp.
- Một số PPDH vận dụng dạy học trong quá trình rèn kĩ năng nói trong nhóm
thực nghiệm mang tính khả thi, được GV tiểu học ủng hộ, bước đầu có giá trị sử dụng
cao. Ngoài ra, những PPDH này cũng tạo được hứng thú học tập cho HS, tạo tâm lý
tự tin trong môi trường học tập, giao tiếp và họat động của lứa tuổi đầu cấp tiểu học.
- Xem thêm -