LỜI NÓI ĐẦU
Là một giáo viên dạy Ngữ văn chưa lâu, vốn tích luỹ chưa nhiều, song với lòng say
mê giảng dạy, tôi đã có được một số kinh nghiệm nhỏ cho bản thân.
Hôm nay viết thành “Sáng kiến kinh nghiệm” không chỉ để cho riêng mình mà tôi
mong được đóng góp tiếng nói chung với đồng nghiệp, cùng được bàn luận với các bạn
đồng nghiệp về một vấn đề , một đề tài nhỏ trong chương trình Ngữ văn lớp 7. Đó là vận
dụng phương pháp mới vào dạy Ngữ văn như thế nào ở bài luyện nói .
Đây không phải là lần đầu tiên tôi bắt tay vào viết sáng kiến kinh nghiệm, song là
một giáo viên trẻ , tuổi đời, tuổi nghề chưa nhiều, kinh nghiệm tích luỹ còn hạn chế, “Sáng
kiến kinh nghiệm” của tôi không tránh khỏi những khiếm khuyết, nhược điểm. Tôi rất
mong nhận được sự cổ vũ,động viên,cũng như những góp ý chân thành của các bạn đồng
nghiệp, đặc biệt là các thầy, các cô cùng dạy Ngữ văn, nhất là các thầy giáo, cô giáo thuộc
lớp đàn anh, đàn chị đi trước .
Tôi xin chân thành cảm ơn và tiếp thu mọi ý kiến đóng góp cho “Sáng kiến kinh
nghiệm” của mình với mong muốn tìm ra một phương pháp hay nhất , tốt nhất nhằm nâng
cao chất lượng dạy- học làm văn nói riêng, dạy- học Ngữ văn nói chung trong nhà trường
trung học cơ sở hiện nay mà tôi đảm nhiệm
Phần thứ nhất:
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Văn học là một môn khoa học trong nhà trường. Nó bình đẳng với các môn học
khác, song lại có một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành thế giới quan, nhân
sinh quan của học sinh “ Văn học là nhân học”. Thế nhưng một thực tế ở trường phổ
thông hiện nay là học sinh ngại học ngữ văn, lười làm văn. Mà tập làm văn lại là một phân
môn quan trọng trong môn Ngữ văn . Nó có tính chất thực hành tổng hợp của các giờ văn
học, giờ tiếng Việt . Nó được coi là bộ môn thực hành quan trọng nhất vì làm văn có tính
chất tổng hợp và sáng tạo. Ví như một bài làm văn , học sinh không chỉ dụng kiến thức
làm văn , về thể loại, bố cục, mạch lạc, liên kết… mà đồng thời phải phát huy năng lực suy
nghĩ tìm tòi để xắp xếp, chọn lọc, sắp xếp các kiến thức nhằm giải quyết sáng tạo một vấn
đề cụ thể. Không những thế, khi làm văn học sinh phải vận dụng tổng hợp kiến thức về
1
văn học, về tiếng Việt để diễn đạt, trình bày vấn đề được chính xác, lưu loát, hay và hấp
dẫn. (Tính tích hợp thể hiện rõ nhất). Do đó bài làm văn được coi như thước đo kết quả
học tập Ngữ văn của học sinh một cách hiệu quả, chính xác. Làm văn có hai dạng. Đó là
làm văn nói và văn viết. Cả hai dạng văn này đều quan trọng. Nó góp phần phát triển năng
lực làm văn, hành văn nói chung cho học sinh ở nhà trường và ngoài xã hội. Mà trong thực
tế dạy - học Ngữ văn ở trường trung học cơ sở hiện nay số giờ luyện viết văn lại chiếm đa
số, còn giờ thực hành văn nói chiếm thời lương rất ít . Thế nhưng thực tế cuộc sống lại đòi
hỏi con người vừa có khả năng tạo lập văn bản hành văn vừa có khả năng tạo văn bản nói
đẻ đáp ứng yêu cầu, mục đích giao tiếp trong cuộc sống, đặc biệt là giao tiếp của con
người trong thời đại mới . Giờ luyện nói góp phần quan trọn vào quá trình đào tạo học sinh
thành những con người phát triển toàn diện, có khả năng đáp ứng đòi hỏi của xã hội hiện
đại. Đó là con người không chỉ có tri thức mà phải đem tri thức hoà nhập một cách chủ
động, tích cực hơn với môi sống, với xã hội tương lai khi các em ra trường
Vì những lý do trên nghiên cứu phương pháp dạy- học giờ luyện nói, người viết chỉ
nhằm thu hút học sinh thực hiện tốt một khâu luyện tập của giờ làm văn góp phần làm tăng
hiệu quả của việc học làm văn nói riêng cũng như học Ngữ văn nói chung (chứ không có
ýgiành phần nghiên cứu của mình giải quyết các vấn đề về phương pháp dạy- học Ngữ văn
hay làm văn) .
II. MỤC TIÊU CỦA PHƯƠNG PHÁP MỚI :
Như chúng ta đã biết, mỗi tiết học, mỗi phân môn đều có vai trò, vị trí riêng. Phân
môn làm văn không chỉ thực hiện truyển tải nội dung kiến thức của tiết học mà thông qua
giờ làm văn (giáo viên) tiến hành giáo dục toàn diện cho học sinh về tư tưởng tình cảm,
thẩm mỹ thông qua quá trình luyện tập dưới sự hướng dẫn của thầy cô. Bài tập làm văn
phản ánh khá rõ nét nhận thức, tư duy, tình cảm của các em về những vấn đề văn học và
đời sống.Nhận thức đúng hay sai về vấn đề văn học , đời sống có liên quan chặt chẽ đến
lập trường tư tưởng của học sinh.Vì thế quá trình làm văn thể hiện vai trò chủ thể sáng tạo
của học sinh đầy đủ và rõ ràng nhất. Đó là quá trình sáng tạo cái đẹp mà mỗi bài bài của
các em là một tác phẩm nhỏ .
Mặt khác, xét trên lĩnh vực tiếng Việt, quá trình làm văn là quá trình trau dồi ngôn
ngữ, câu, từ, cách diễn đạt…Hay nói cách khác, làm văn còn có vai trò giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt, làm cho vốn tiếng Việt, khả năng sử dụng tiếng Việt của học sinh
được nâng lên. Đó cũng chính là làm tăng khả năng tư duy của học sinh bởi ngôn ngữ là
2
cái vỏ, là biểu hiện của tư duy. Tập làm văn là rèn tư duy tổng- phân-hợp. Mỗi lần làm văn
học sinh phải huy động mọi kiến thức về ngữ văn , kết hợp với óc quan sát ,trí tưởng
tượng phong phú… để làm bài đúng nội dung, đúng mục đích và đạt hiệu quả giao tiếp tốt.
Điều đó có tác dụng lớn, tác dụng trực tiếp trong cuộc sống, trong giao tiếp, sinh hoạt và
trong công tác sau này của mỗi học sinh khi rời ghế nhà trường.
Vì thế giờ luyện nói trong làm văn vừa phải đảm bảo cái chung của giờ làm văn,
vừa đảm bảo cái riêng, cái đặc thù của giờ luyện nói.
Nghiên cứu phương pháp dạy-học giờ luyện nói nhằm bồi dưỡng, khắc sâu tri thức,
rèn luyện kỹ năng làm văn, đồng thời tạo cho học sinh khả năng làm văn nói , kỹ năng
thực hành, trình bày một vấn đề trước tập thể hay rèn tư duy ngôn ngữ, tư thế, tác phong…
tạo sự tự tin, đĩnh đạc khi nói trước tập thể…Bởi trong cuộc sống không phải lúc nào
chúng ta cũng dùng văn bản hành văn để giao tiếp …
Một bài văn nói tốt sẽ đạt hiệu quả giao tiếp tốt. Vậy làm như thế nào để có thể tạo
văn bản nói tốt, trình bày văn bản nói hiệu quả. Điều đó đòi hỏi phải rèn luyện, rèn luyện
thường xuyên, rèn luyện ngay từ bây giờ, rèn luyện ở nhà trường và trong cuộc sống gia
đình, xã hội khi các em đang ở tuổi cắp sách tới trường. Nghiên cứu phương pháp mới,
vận dụng phương pháp mới vào dạy-học Ngữ văn nói chung, dạy học giờ luyện nói nói
riêng nhằm thực hiện tốt những mục tiêu trên.
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC TIỄN:
Trên thực tiễn, xã hội ngày càng phát triển nhanh và mạnh, đòi hỏi con người không
chỉ có hiểu biết, có tri thức mà phải năng động và sáng tạo…Vì vậy, giáo dục cũng cần có
bước phát triển để tạo ra những con người mới đáp ứng được những yêu cầu của thời đại.
Các tri thức và kỹ năng đưa vào chương trình phải phù hợp với sự phát triển hiện nay của
từng ngành khoa học có liên quan và từng bước theo kịp trình độ khoa học chung của thế
giới. Nhận thức rõ điều đó Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chỉ đạo việc nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mà phương pháp giáo dục-đào tạo, chương
trình giáo dục-đào tạo đóng vai trò then chốt.
Chương trình cải cách giáo dục hiện nay không ngoài mục đích đào tạo những con
người có tri thức, tư tưởng,tình cảm, thẩm mỹ đúng đắn mà họ còn là những con người
năng động, hoà nhập xã hội một cách tích cực, chủ động.
Luyện nói là một kiểu bài, kiểu luyện tập trong phân môn làm văn. Giờ luyện nói
trong phân phối chương trình không nhiều, nếu không muốn nói là ít. Trong mỗi kiểu bài
3
chỉ có một giờ luyện nói . Phải thực hiện sao cho giờ thực hành nói có hiệu quả để phát
triển ngôn ngữ, khả năng, kỹ năng trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói một cách trực tiếp
một cách trực tiếp là cần thiết. Phát triển văn nói cho học sinh là góp phần đào tạo học
sinh thành những con người toàn diện; để các em không chỉ là người có tri thức, có năng
lực, có đạo đức, lối sống, lập trường tư tưởng vững vàng mà còn có bản lĩnh, tự tin, mạnh
dạn hoà nhập cuộc sống cộng đồng.
Thực tế trong chương trình chỉnh lý sách giáo khoa năm 1995 phân môn tập làm
văn có giờ luyện nói nhưng sách cải cách Ngữ văn lớp 6 và lớp 7 lần này so với trước có
đổi mới về nội dung, phương pháp dạy-học cũng như đổi mới về mục tiêu, yêu cầu của giờ
dạy-học nhằm đáp ứng đòi hỏi về con người của xã hội. Vì thực tế khả năng làm văn của
học sinh còn chưa được phát huy hết, nếu không nói là hạn chế, nhất là khả năng làm văn
nói, trình bày một vấn đề trước tập thể còn nhiều lúng túng, thiếu tự tin…dẫn đến tình
trạng không tích cực hoà nhập môi trường sống một cách chủ động.
Nghiên cứu, áp dụng phương pháp mới vào dạy-học làm văn nói, thực hành văn nói
đã giúp ích rất nhiều cho thầy và trò trong giờ luyện tập làm văn nói khiến giờ làm văn nói
thu được kết quả khả quan đáng mừng.
Do đó, đổi mới phương pháp dạy- học Ngữ văn nói chung, dạy- học giờ làm văn nói
nói riêng là thiết thực.
IV. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI :
Mục đích của giờ làm văn, tầm quan trọng của giờ luyện nói không ai phủ nhận
nhưng khi dạy- học loại bài này cả thầy và trò không tranh khỏi những lúng túng ban đầu.
Với thời lượng có hạn, học sinh lại đông, kiến thức lại phong phú; các em lại thiếu tự tin,
ngại ngùng, sợ sệt khi học giờ luyện nói, phải làm sao để 45 phút trên lớp hoạt động có
hiệu quả ? Nghiên cứu kỹ, áp dụng thành thục phương pháp mới vào dạy- học Ngữ văn nói
chung, dạy- học giờ làm văn, giờ luyện nói nói riêng không chỉ giúp việc truyền thụ kiến
thức Ngữ văn của thầy, việc lĩnh hội tri thức Ngữ văn của trò được tốt mà còn giúp thầy và
trò khắc phục những lúng túng của loại bài này.
Khắc phục những lúng túng của giờ luyện nói là đã tạo được điều kiện tốt để làm
tăng hiệu quả của giờ luyện nói. Dưới sự hướng dẫn có tính định hướng, dẫn dắt, thầy tạo
điều kiện để trò hoạt động- trò đóng vai trò chủ động của hoạt động nói, và phát huy tính
tích cực hoạt động của trò, thu hút trò tham gia luyện nói một cách thoả mái, tự tin và sôi
nổi. Từ đó hình thành nhu cầu được phát biểu, cần phát biểu của mỗi học sinh…Làm được
4
như vậy là đã tạo được sự tự tin cần thiết cho học sinh tham gia luyện nói. Từ đó phong
cách nói dần hình thành và khẳng định ở các em. Các em đón nhận giờ luyện nói một cách
chủ động, hứng thú. Mục đích và hiệu quả của giờ luyện nói trên lớp từ đó mà đạt được
như mong muốn
V. PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI:
Vì thời gian và khả năng có hạn nên ở đề tài này tôi chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu,
áp dụng phương pháp mới vào dạy- học giờ làm văn nói ở trường trung học cơ sở như thế
nào cho có hiệu quả chứ chưa có điều kiện nghiên cứu các vấn đề khác xung quanh việc
dạy- học Ngữ văn hiện nay. Trong giới hạn cho phép, các vấn đề có liên quan nêu ra chỉ
nhằm làm nổi bật nội dung, mục đích của đề tài này.
Phần thứ hai
NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA BÀI LUYỆN NÓI:
Đây là giờ thực hành thể hiện bằng ngôn ngữ nói trực tiếp trên lớp, học sinh thực
hiện là chính, giáo viên chỉ là người dẫn dắt, định hướng nên qua giờ thực hành này học
sinh bộc lộ tất cả các mặt ưu, khuyết điểm của mình trên nhiều phương diện như ngôn từ,
câu, thái độ, phong cách biểu hiện…Do đó giáo viên phải hướng dẫn sao cho học sinh phát
huy được hết ưu điểm, hạn chế dần khuyết điểm trong thời gian hạn chế là 45 phút với vài
chục em trên lớp. Mà khi tham gia luyện nói các em còn lúng túng chưa, chủ động tham
gia thực hành, mà giờ thực hành đòi hỏi các em phải tích cực chủ động hoạt động cao. Mặt
khác tâm lý ngại phát biểu của học sinh còn thể hiện rõ rệt. Các em ngại vì nhiều lý do
nhưng lý do chủ yếu là sợ sai (về từ ngữ diễn đạt, nội dung nói…) và thiếu tự tin khi nói
( như run, nói nhát gừng, nói lắp, nói ngọng, hoặc tư thế còn cứng nhắc, thiếu tự nhiên
… ).Trước giờ các em vẫn quen làm văn viết và đọc văn bản sẵn có, còn hành văn nói thì
rất hạn chế, thậm chí có em còn sợ làm văn nói … Do đó vai trò chủ đạo, định hướng, dẫn
dắt của thầy đóng vai trò quan trọng. Vai trò đó thể hiện rõ ở sự hướng dẫn chuẩn bị cho
giờ luyện nói trên lớp của học sinh cả về nội dung lẫn tâm lý và phương pháp dạy- học giờ
luyện nói đóng vai trò then chốt cho sự thành bại của giờ thực hành làm văn nói có tính
đặc thù cao .
II. PHƯƠNG PHÁP CHỦ ĐẠO TRONG GIỜ LUYỆN NÓI:
5
Với loại bài có tính đặc thù cao, giờ luyện nói cần sự kết hợp nhiều phương pháp
nhưng chủ yếu là sử dụng phương pháp điều tra phân loại đối tượng, phương pháp giám
sát, phương pháp đàm thoại trực tiếp, phương pháp phát vấn- vấn đáp, phương pháp thảo
luận và phương pháp trắc nghiệm:
1. Phương pháp điều tra phân loại đối tượng:
Trước khi tiến hành dạy- học luyện nói, giáo viên tiến hành điều tra phân loại học
sinh theo từng loại: Giỏi, khá, trung bình và yếu kém. Với mỗi loại đối tượng phân loại
giáo viên có yêu cầu và phương pháp khác nhau khi tiến hành gọi phát biểu hoặc gọi trình
bày vấn đề trước lớp .Ngoài ra giáo viên cần chọn cán sự bộ môn tới từng tổ, nhóm để các
em có thể hoạt động nhóm được tốt. Cán sự môn Ngữ văn của lớp bao quát tình hình
chung các tổ, nhóm thông qua các cán sự của các tổ, nhóm trong lớp. Làm như vậy giờ
luyện nói trên lớp vừa rộng lại vừa sâu. Học sinh có thể phát huy tối đa khảb năng tham
gia phát biểu, luyện nói.
2. Phương pháp giám sát:
Với giờ thực hành làm văn nói, học sinh thực hiện là chính,giáo viên có vai trò định
hướng, hướng dẫn nên 45 phút trên lớp giáo viên phải có khả năng bao quát tốt, thực hiện
giám sát hoạt động của học sinh trong toàn lớp để có biện pháp thích hợp cụ thể với mỗi
tình huống khi cần và có thể hướng đẫn từng nhóm hoạt động ; đồng thời đạt được nội
dung, mục đích của giờ làm văn nói cũng như giáo dục tư tưởng, tình cảm, thẩm mỹ cho
học sinh khi tham gia hoạt động nói.
3. Phương pháp đàm thoại ttrực tiếp
Là giờ làm văn nói, thực hành ngôn ngữ nói, rèn khả năng trình bày vấn đề bằng
văn bản nói nên phương pháp đàm thoại đóng vai trò quan trọng. Không chỉ sử dụng
phương pháp này đối với mối quan hệ thầy- trò mà còn thực hiện khi trò với trò hoạt động.
Sau mỗi văn bản nói học sinh lại có những lời phát biểu, nhận xét, đánh giá hay thảo luận
với nhau về vấn đề vừa trình bày. Giáo viên đóng vai trò định hướng đánh giá trên cơ sở
thực tế. Phương pháp này làm cho giờ dạy- học đúng nội dung, tư tưởngvà hiệu quả.
Tuy nhiên nếu muốn hiệu quả thực sự thì không chỉ sử dụng bất kỳ phương pháp
duy nhất nào mà phải có sự phối kết hợp của nhiều phương pháp một cách nhuần nhuyễn,
thành thục.
4. Phương pháp phát vấn- vấn đáp:
6
Phương pháp này gần với phương pháp đàm thoại, song lại có đặc thù riêng.
Phương pháp này có tính chất trực tiếp đối thoại nhưng là hỏi - đáp. Giáo viên gieo vấn đề,
học sinh suy nghĩ và trả lời bằng văn bản nói. Hoặc khi hoạt động nhóm, cán sự bộ môn
của tổ cũng có thể sử dụng phương pháp này khi điều khiển nhóm hoạt động. Có như vậy
giờ day- học luyện nói mới có tính định hướng rõ ràng, đúng đắn về nội dung, mục đích và
tư tưởng , tình cảm, thẩm mỹ…cho học sinh.Với phương pháp này giáo viên chủ đạo, học
sinh chủ động hoạt động. Đây cũng là phương pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả giờ
dạy- học luyện làm văn bản nói.
5. Phương pháp thảo luận:
Đây là phương pháp mà khi giáo viêngieo vần để học sinh tiến hành trao đổi, thảo
luận- bàn bạc để tìm ra đáp án chung nhất, đúng nhất. Hay khi hoạt động tổ, nhóm, học
sinh cũng tiến hành thảo luận theo tổ, nhóm để đi đến thống nhất ý kiến chung, cử đại diện
cho tổ phát biểu, thực hiện bằng văn bản nói trước tập thể lớp . Phương pháp này làm tăng
tiến độ, hiệu quả của giờ luyện nói trên lớp.
6. Phương pháp thuyết trình
Khi thực hành văn bản nói (trong đó có phát biểu ý kiến tranh luận của mình) là học
sinh đã áp dụng phương pháp thuyết trình. Trình bày vấn đề sao cho rõ ràng, mạch lạc,
liên kết và làm thế nào để thuyết phục được người nghe không thể không vận dụng
phương pháp thuyết trình. Đây là một trong những phương pháp cần có để thực hiện có
hiệu quả giờ làm văn nói.
Một giờ làm văn nói không thể thiếu phương pháp thuyết trình. Phương pháp thuyết
trình cùng với phương pháp khác làm nên thành công của giờ dạy- học luyện nói. Các
phương pháp nêu trên cần được vận dụng một cách linh hoạt, chủ động và nhịp nhàng…
Cùng với các kỹ năng, kỹ sảo cần thiết của giờ thực hành dạy- học luyện nói. Có như vậy
giờ luyện nói mới có kết quả tối ưu như mong đợi .
Nhưng muốn thực hiện tốt các phương pháp trên cần có sự chuẩn bị chu đáo của
thầy và trò, đặc biệt là của trò trước giờ thực hành luyện nói trên lớp.
III. CHUẨN BỊ CHO GIỜ LUYỆN NÓI:
1. Chuẩn bị cho thầy
Muốn đạt kết quả dạy- học tốt giờ luyện nói trên lớp, trước tiên giáo viên cần có sự
đầu tư thoả đáng, chuẩn bị chu đáo và kỹ càng trước giờ lên lớp. Cụ thể giáo viên cần
7
soạn giáo án chi tiết, đưa ra nhiều tình huống có thể xảy ra trong giờ luyện nói để có
những phương án sử lý tốt, tránh sa vào bị động.
Mặt khác, giáo viên cần giao đề cụ thể và hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh chuẩn bị ở
nhà theo yêu cầu của giờ luyện nói trên lớp. Có như vậy học sinh mới có thể chủ động
tham gia hoạt động nói trên lớp, trước tập thể. Và như vậy là học sinh đã phát huy được
tích cực, chủ động, sáng tạo cũng như các em có thể làm chủ hoạt động học trên lớp của
mình.
Song song với việc soạn giáo án chi tiết, giao đề và hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh
chuẩn bị, một công việc không thể thiếu trước giờ thực hành làm văn nói là phân loại đối
tượng học sinh theo từng loại : Giỏi, kém, trung bình và yếu kém để giao nhiệm vụ,yêu
cầu chuẩn bị cụ thể, rõ ràng, phù hợp với đối tượng, tạo điều kiện cho giờ dạy- học đạt
hiệu quả; Đồng thời giáo viên phân cán sự bộ môn tới từng tổ, nhóm để các em có thể làm
việc đạt hiệu quả tthông qua việc kiểm tra đôn đốc cũng như chỉ bảo, hướng dẫnnhau cùng
học.
2. Chuẩn bị của trò:
Một giờ luyện nói đạt kết quả tốt không chỉ cần sự chuẩn bị chu đáo của thầy mà
còn có sự chuẩn bị tích cực của trò theo sự hướng dẫn của thầy. Trên thực tế, em nào
chuẩn bị tốt (cả về nội dung và tâm lí) em đó sẽ chủ động trong hoạt động học, hoạt động
nói trước lớp. Ngược lại, em nào không chuẩn bị hoặc chuẩn bị qua loa, đối phó sẽ rơi vào
bị động, lúng túng, thậm chí không làm được văn nói trên lớp… Chính vì vậy sự chuẩn bị
của học sinh là vô cùng quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định đến việc thành hay bại của
giờ luyện nói trên lớp. Bởi vì, xét cho cùng, hoạt động luyện nói là của trò, giành cho trònhững mầm non đang phát triển !
IV. CÁCH TIẾN HÀNH BÀI LUYỆN NÓI
Trên thực tế, chuẩn bị của thầy và trò tốt sẽ tạo điều kiện cần cho sự thành công của
giờ dạy- học luyện nói. Vậy còn điều kiện đủ cho sự thành công này là gì ? Đó chính là
cách tiến hành giờ luyện nói, phương pháp thực hiện của giờ làm văn nói của thầy. Đây là
phương diện thể hiện vai trò chủ đạo, vai trò định hướng, dẫn dắt của thầy. Một giờ
làmvăn nói thành công là một giờ có phương pháp tốt, cách thực hiện tối ưu.
Cụ thể, tôi xin nêu một bài văn nói trong chương trình ngữ văn 7, tập II làm ví dụ.
Đó là bài :
8
LUYỆN NÓI GIẢI THÍCH MỘT VẤN ĐỀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY
HOẠT ĐỘNG CỦA TRÒ
GHI BẢNG
Hoạt động 1:
* Kiểm tra chuẩn bị của học
sinh:
(kiểm tra cụ thể vài cá nhân)
Hỏi: Các tổ trưởng, lớp - Kiểm tra chéo lẫn nhau
trưởng trình phần chuẩn bị - Cán sự bộ môn tổ báo cáo tình hình
của mình cho cô giáo và các chuẩn bị của các thành viên trong tổ
bạn kiểm tra ? Các em kiểm
tra chéo lẫn nhau ?
Hỏi: Mục đích của giờ luyện HS được nói - cần phải nói, người nói và
nói là gì ?
người nghe cần tự giác, mạnh dạn … Rèn
kỹ năng nói, kỹ năng trình bày vấn đề
trước tập thể
Hỏi: Khi nói cần đạt được - Âm thanh: Đủ nghe, không quá to,
yêu cầu gì (giáo viên có thể không quá nhỏ, không nhát gừng.
gọi cán sự bộ môn Ngữ văn - Về chính tả: Không nói lặp, không lắp,
của lớp nhắc lại hoặc nói không ngọng.
nhanh)
- Về giọng điệu: Truyền cảm, thuyết phục
người nghe.
- Tư thế: Thoải mái, tự nhiên, không quá
cứng nhắc.
- Về nội dung nói: Đúng, đủ ý.
- Hình thức: Người nói biết mở đầu và kết
thúc bài nói của mình.
- Bài nói có bố cục rõ ràng, có mạch lạc,
có liên kết của văn bản
9
Diễn giảng: Để rèn luyện,
củng cố kỹ năng làm văn
nói, khả năng trình bày bài
nói trước tập thể, hôm nay cô
sẽ hướng dẫn các em thực
hiện bài luyện nói giải thích
một vấn đề.
Hỏi: Em hãy đọc đề - theo trí Lập dàn bài cho đề:
I. Tìm hiểu đề
nhớ mà em được giao chuẩn HS đọc đề 1
bị ?
HS đọc đề 2
Hỏi: Em hãy chép lại đề bài 2 HS lên bảng chép đề 1 và đề 2.
- Đề 1: Trường
đó theo trí nhớ lên bảng
em tổ chức 1
cuộc thi giải
thích tục ngữ.
Để
tham
dự
cuộc thi đó em
hãy tìm và giải
thích một câu
tục ngữ mà em
tâm đắc nhất.
- Đề 2: Vì sao
những tấn trò
mà Va-ren bày
ra với Phan Bội
Châu lại được
Nguyễn
Quốc
ái
gọi
là
những trò lố ?
Hỏi: Đề 1 yêu cầu giải thích Đề 1 yêu cầu giải thích câu tục ngữ em
vấn đề gì ?
tâm đắc nhất
Hỏi: Em hiểu “tâm đắc” Tâm đắc là hiểu được sâu sắc, nên đã thu
nghĩa là như thế nào ?
nhận được.
Hỏi: Em hãy đọc câu tục ngữ HS nêu câu tục ngữ của mình. Ví dụ: Ăn
mà em tâm đắc nhất ?
quả nhớ kẻ trồng cây.
10
Hỏi: Vì sao em lại tâm đắc Vì câu tục ngữ đã thể hiện đạo lý, truyền
câu tục ngữ này nhất ?
thống “Uống nước nhớ nguồn” tốt đẹp
của cha ông ta, dân tộc ta. Đó là lòng biết
ơn, sự kính trọng những người đã tạo ra
thành quả tốt đẹp …
Hỏi: Với câu tục ngữ trên, - “ăn quả” là như thế nào ?
khi giải thích, em cần đảm - Người “trồng cây” là ai, là người như
bảo được những nội dung cơ thế nào ?
bản nào ?
- Nghệ thuật ẩn dụ trong câu tục ngữ có
tác dụng gì ?
- Tại sao ăn quả phải nhớ kẻ trồng cây ?
- Đạo lý “ăn quả nhớ kẻ trồng cây” cần
thể hiện như thế nào ? Em có suy nghĩ gì
xung quanh câu tục ngữ đó ?
Hỏi: Đề 2 yêu cầu giải thích Đề 2 yêu cầu giải thích vì sao tên những
vấn đề gì ?
trò của Va-ren lại là những trò lố.
Hỏi: Em hiểu “trò lố” là trò Có nghĩa là những trò hề nhảm nhí, tồi tệ,
như thế nào ?
kệnh cỡm mà người làm trò càng diễn
càng bộc lộ sự vô duyên, lố bịch, tức cười
?
Hỏi: Va-ren đã giở những trò - Trò 1: Hứa nửa chính thức sẽ chăm sóc
nào?
cụ Phan Bội Châu …
- Trò 2: Cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa Va-ren và
cụ Phan Bội Châu trong nhà tù hoả lò Hà
Nội.
Diễn giảng: Trò thứ 2 của
Va-ren mà các em vừa nêu là
trò lố nhất. Ngoài 2 trò các
em đã nghiên cứu kỹ ở giờ
giảng văn trên lớp Va-ren
còn có những trò khác thể
hiện ở trên đường tuần du
thành phố Sài Gòn và ở kinh
đô Huế…
11
Hỏi: Tại sao các trò trên của HS nhớ lại nêu nhanh theo kiến thức đã
Va-ren lại là những trò lố
Chia lớp thành 2 tổ, 4 nhóm:
học ở bài giảng văn …
* Hoạt động 2:
Tổ trưởng điều khiển, tổ phó làm thư ký II. Luyện nói:
Tổ 1: nhóm 1 + 2
ghi chép các ý kiến nhận xét. Các học 1. Hoạt động
Tổ 2: nhóm 3 + 4
sinh trong nhóm lần lượt nói từng đoạn, nhóm
Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng luận điểm cho đến hết bài.
từng tổ, nhóm.
GV giám sát và hướng dẫn
HS thảo luận cử đại diện chuẩn bị nói
trước lớp.
Hỏi: Mỗi tổ cử đại diện trình - Tổ 1 trình bày bài văn nói theo đề 1.
2. Luyện nói
bày bài nói trước lớp ?
trước lớp.
- Tổ 2 trình bày bài văn nói theo đề 2
- Đề 1. - Đề 2.
Hỏi: Nhận xét bài nói của Phát biểu:
- Nội dung: …
từng bạn vừa trình bày ?
- Giọng nói: …
- Tư thế: …
- v.v….
Hỏi: Cán sự văn của lớp
trình bày bài nói của mình.
Hỏi: Hãy nhận xét bài nói HS nhận và điền phiếu trắc nghiệm.
trên qua phiếu trắc nghiệm
sau (GV phát và thu phiếu
trắc nghiệm) ?
PHIẾU TRẮC NGHIỆM
Đã biết mở đầu và kết thúc bài văn nói
Đúng
Sai
Quá to
Giọng nói
C
K
Đủ ý cơ
Bài nói
bản
C
K
Tư thế tự nhiên, thoải mái, không cứng nhắc
Đúng
Sai
Quá
Nhát
nhỏ
C K
gừng
C K
Không
trùng
lặp
C
Nói lắp
C
K
Nói
Truyền
ngọng
C K
cảm
C K
Thuyết phục
C
K
Khai thác
Bố cục
tốt yếu tố
Mạch
Liên
rõ ràng
nghệ
lạc
kết tốt
Đúng kiểu bài
thuật
K
C
K
C
K
C
K
C
K
C
K
Xếp loại
12
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Ghi chú: C: có; K: không
* Hoạt động 3:
Hướng dẫn luyện tập ở nhà:
- Từng học sinh nói lại toàn
bài 1 lần.
- Chuẩn bị tìm hiểu đề, lập
dàn ý và nói tiếp đề thứ 2.
- Chọn 1 trong 2 đề viết
thành bài văn hoàn chỉnh.
- Chuẩn bị bài mới …
V. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM:
Qua quá trình dạy Ngữ văn lớp 6, 7, đặc biệt là qua hệ thống các giờ luyện nói ở hai
năm đầu thay sách, tôi nhận thấy áp dụng phương pháp mới, trên cơ sở kế thừa phương
pháp truyền thống vào dạy - học giờ luyện nói bước đầu đã thu được một số kết quả đáng
kể:
1. Qua giờ luyện nói học sinh nắm vững kiến thức cơ bản của tiết học: Nội dung đề
tài, thể loại của văn bản v.v…
2. Học sinh nắm vững và thực hành ngày càng tốt hơn các bước của bài văn nói.
Các em không chỉ thực hiện một bài nói có bố cục, có liên kết, mạch lạc mà còn biết bắt
đầu và kết thúc bài nói một cách chủ động, nhịp nhàng và uyển chuyển.
3. Kỹ năng, tư thế nói của học sinh ngày càng nâng lên. Bước qua sự tự ti, nhút
nhát, các em đã dần hình thành và khẳng định phong cách nói của mình.
4. Giọng điệu, cách thu hút người nghe, thuyết phục người nghe khi nói của các em
thể hiện ngày càng tiến bộ. Các em không những lôi cuốn người nghe bằng nội dung, ngôn
ngữ mà còn bằng cả ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ khi làm văn nói … Tất cả góp phần làm tăng
hiệu quả bài nói của các em.
5. Qua bài văn nói, tính tích hợp (ngang, dọc) thể hiện đầy đủ, rõ ràng và ngày càng
nhịp nhàng hơn.
6. Lỗi về phát âm - qua các giờ luyện nói ngày một hạn chế. Đặc biệt giờ luyện nói
đã hạn chế dần hiện tượng ngọng khi phát âm âm n - l, r - gi - d, ch - tr …
13
Thông qua hệ thống các giờ luyện nói, các bài nói học sinh ngày càng mạnh dạn, tự
tin và sôi nổi tham gia vào hoạt động luyện nói trên lớp.
Do thực hiện tốt đổi mới phương pháp mà hiệu quả giờ dạy - học Ngữ văn nói
chung, giờ dạy - học luyện nói nói riêng ngày một nâng cao. Kết quả đó phần nào thể hiện
đầy đủ, rõ ràng và cụ thể qua bảng thống kê kết quả kiểm tra một bài luyện nói giải thích
một vấn đề:
Bảng thống kê kết quả kiểm tra ở bài luyện nói giải thích một vấn đề:
Lớp
Sĩ số
7A
7B
47
39
Kiến thức
Kỹ năng,
cơ bản
85,1%
92,3%
kỹ xảo
95,7%
97,5%
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
25,5%
25,7%
46,8%
41,1%
21,3%
25,6%
6,4%
7,6%
Phần thứ ba:
KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA:
Qua quá trình giảng dạy Ngữ văn lớp 6, 7, tôi nhận thấy nghiên cứu, áp dụng
phương pháp mới vào dạy - học Ngữ văn nói chung, dạy - học giờ luyện nói nói riêng đã
thu được kết quả đáng khích lệ. Có nghĩa là phương pháp mới đã được chấp nhận, khẳng
định và tìm được chỗ đứng của mình. Nói như vậy không có nghĩa là phủ định phương
pháp truyền thống mà đổi mới trên nguyên tắc kế thừa. Phương pháp truyền thống làm cơ
sở, làm nền tảng để triển khai điểm mới, tạo phương pháp mới cho dạy - học hiện nay.
Áp dụng phương pháp mới vào dạy - học Ngữ văn nói chung, dạy - học làm văn nói
riêng đã thu hút học sinh tham gia một cách hăng hái, sôi nổi, hạn chế tâm lý e ngại vốn có
trong mỗi học sinh. Phương pháp mới đã tạo được sự hứng thú cho học sinh khi tham gia
luyện nói. Các em đã chủ động, tích cực hơn trong giờ luyện làm văn nói. Từ đó kết quả
giờ dạy - học được nâng lên, đạt hiệu quả mong đợi.
Mặc khác một giờ dạy - học thu được kết quả tốt không thể thiếu vai trò chủ đạo
dẫn dắt của người thầy. Người thầy phải có định hướng đúng đắn cho học sinh, hướng học
sinh của mình chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động. Người thầy phải là người có
phương pháp dạy tốt, tạo được không khí thoải mái, hăng hái cho học sinh tham gia giờ
luyện nói. Đặc biệt đối với giờ làm văn nói, học sinh hoạt động là chủ yếu, người thầy
14
phải có sự hướng dẫn tỉ mỉ, chi tiết, nêu yêu cầu cụ thể cho học sinh chuẩn bị trước giờ
thực hành nói trên lớp … Có như vậy giờ dạy - học mới có thể thành công.
Hơn thế, với giờ luyện nói giáo viên đồng thời sử dụng nhiều phương pháp, trong
đó có phương pháp trắc nghiệm và sử dụng các thiết bị đồ dùng bổ trợ cho giảng dạy của
thầy như máy chiếu, băng hình … Áp dụng phương pháp mới trong giờ dạy - học để học
sinh vừa tiếp thu bài được nhanh, có hiệu quả lại đánh giá sát nhận thức tư duy, ý thức
tham gia, kiến thức lĩnh hội … của học sinh trên bề rộng (toàn lớp) và theo chiều sâu (chất
lượng). Từ đó có nội dung, phương pháp phù hợp hơn với đối tượng học sinh cụ thể lớp
mình phụ trách.
Nói tóm lại, nghiên cứu, áp dụng phương pháp mới vào dạy - học Ngữ văn nói
chung, dạy - học làm văn nói nói riêng và cần thiết và bước đầu thu được kết quả khả quan
đáng mừng.
II. NHỮNG KIẾN NGHỊ:
Qua quá trình dạy - học của mình ở trường THCS, đặc biệt là qua hai năm nghiên
cứu, vận dụng phương pháp mới vào dạy - học Ngữ văn ở trường phổ thông nơi tôi công
tác, tôi xin đề xuất một số ý kiến, kiến nghị như sau:
1. Hàng năm cần trang bị tài liệu cho giáo viên cập nhật với tình hình phát triển của
khoa học, của xã hội để bổ sung kiến thức thiết yếu của thời đại.
2. Các cấp, các ngành cần quan tâm để tiếp tục hoàn thiện và nâng cao cơ sở hạ tầng
của trường học hơn nữa như phòng học, phòng chức năng, trang thiết bị dạy học …
3. Cần tạo điều kiện để giáo viên có thể học tập tốt, tự học tập thường xuyên nhằm
nâng cao trình độ, cập nhật với tình hình phát triển chung của xã hội.
4. Tạo điều kiện để giáo viên có được những thiết bị dạy học cần thiết, đặc biệt là
thiết bị dạy - học chương trình cải cách như máy chiếu, băng hình, phiếu học tập … cần
thiết cho từng tiết dạy - học cụ thể.
Những kiến nghị trên của tôi chỉ xin là một kênh thông tin để các bạn đồng nghiệp
và các ngành hữu quan tham khảo. Biết đâu nó chẳng giúp ích ít nhiều cho mỗi chúng ta.
PHỤ LỤC
15
LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục tiêu của đổi mới phương pháp
III. Cơ sở lý luận, thực tiễn
IV. Mục đích của đề tài
V. Phạm vi giới hạn của đề tài
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. Đặc điểm của bài luyện nói
II. Phương pháp chủ đạo trong giờ luyện nói
III. Chuẩn bị cho giờ luyện nói
IV. Cách tiến hành giờ luyện nói
V. Kết quả thực nghiệm
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN
I. Nh÷ng bµi häc rót ra
II. Nh÷ng kiÕn nghÞ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên Ngữ văn 7 - Tập 2 NXB Giáo Dục
2. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 7 - Tập 2 NXB Hà Nội
3. Tạp chí Thế giới trong ta.
16
- Xem thêm -