MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................... 2
NỘI DUNG......................................................................................... 3
PHẦN I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU......................................................3
I Cơ sở lí luận :.........................................................................................3
II. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................9
PHẦN II. THỰC TRẠNG...............................................................11
I.Khuyết điểm.........................................................................................11
II. Ưu điểm..............................................................................................14
III. Nguyên nhân của những hạn chế......................................................16
PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP..........................................................18
KẾT LUẬN...................................................................................... 20
1
LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới chủ động hội nhập kinh tế
với khu vực và thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ,
trước bối cảnh lịch sử mới chúng ta có những thời cơ mới song cũng phải
đối mặt với những thách thức hết sức to lớn. Và một trong những nhân tố
quan trọng nhất giữ vai trò trung tâm và chi phối sự phát triển của đất nước
ta đó là nhân tố con người .Con người vừa là sản phẩm của quá trình tiến
hoá lâu dài của lịch sử lại vừa là chủ thể sang tạo ra lịch sử .Chính nhân tố
con người chứ không phải bất cứ nhân tố nào khác là động lực thúc đẩy
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang phát triển như vũ bão , tạo ra
những bước ngoặt lớn tạo lên sự tiến bộ vượt bậc cho xã hội ngày nay .Vì
vậy việc nghiên cứu về vấn đề con người trong thời đại ngày nay có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy tối đa nguồn lực con người
cho việc phát triển kinh tế , nâng cao chất lượng cuộc sống .Một trong
những đặc điểm nổi bật của con người đó chính là nhân cách .
Là một sinh viên , em luôn mong muốn học hỏi tự hoàn thiện bản
thân, muốn trở thành một người công dân tốt của xã hội , muốn mình trở
thành một con người có nhân cách tốt .Vậy nên em rất quan tâm đến đề tài :
"Nhân cách sinh viên trong thời kì hội nhập với khu vực và thế giới"
Trong quá trình làm bài không thể tránh khỏi những thiếu xót , vì vậy
rất mong được ý kiến đóng góp từ thầy và các bạn .
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên : Trần Xuân Thắng
2
NỘI DUNG
PHẦN I. CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
I Cơ sở lí luận :
Quan niệm của triết học Mác-Lênin về con người và nhân cách
con người
a. Đặc điểm và vai trò của con người
Con người là thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
Đã có ý kiến cho rằng toàn bộ học thuyết Mác là học thuyết đấu tranh
cho sự giải phóng và phát triển con người. Quả đúng vậy, có thể nói con
người là trung tâm của học thuyết Mác, tất cả những tư tưởng lập luận về
thế giới vật chất hay về xã hội đều với mục đích cao nhất là đặt con người
vào đúng vị trí và vai trò lịch sử của mình. Kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa trong tìm hiểu nghiên cứu về con người của các nền triết học thời kì
trước, cùng với sự tư duy sáng tạo , thiên tài, các nhà kinh điển của triết
học Mác đã khắc phục được những nhược điểm trong các học thuyết nói về
con người trước đây. Đứng trên lập trường duy vật triệt để, cùng với phép
biện chứng kế thừa từ triết học Hêghen, triết học Mác xem con người
không chỉ là một bộ phận của tự nhiên, không chỉ là kết quả của sự tiến hoá
cao nhất của tự nhiên và của sự phát triển xã hội, mà hơn thế nữa con người
chính là chủ thể tích cực của mọi hoạt động , là chủ thể thực sự của các quá
trình xã hội và là chủ thể sáng tạo duy nhất. Ở triết học Mác , con người
hiện lên đầy đủ với cả hai mặt sinh học và mặt xã hội cùng thống nhất và
có sự tác động qua lại , con người trước hết phải là một “ thực thể tự
nhiên”, là con người sinh học với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên,
được sinh ra và là kết quả cao nhất của quá trình tiến hoá tự nhiên , do vậy
nó gắn bó chặt chẽ với tự nhiên và chịu sự quy định của những quy luật của
3
tự nhiên. Nói như Mác “ tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”, quan
điểm đó bác bỏ hoàn toàn luận điểm của chủ nghĩa duy tâm khi thần thánh
hóa nguồn gốc của con người. Coi trọng mặt sinh học của con người, coi
nó như một tính tất yếu trong quá trình phát triển loài người, nhưng Mac
không quá tuyệt đối hoá mặt sinh học như chủ nghĩa duy vật siêu hình. Chủ
nghĩa Mác kịch liệt phê phán tư tưởng cho rằng cái giá trị nhất ở con người
là cái sinh vật , bản chất con người là bản chất sinh vật, còn những thứ như
tư tưởng tình cảm , ước mơ hoài bão …chỉ là thứ trừu tượng, mơ hồ, không
có ý nghĩa hiện sinh, bởi những tư tưởng như vậy sẽ đẩy tới việc giải quyết
vấn đề con người chỉ là sự thoả mãn về nhu cầu vật chất, bản chất của con
người đến gần với bản chất con vật, không thấy được vị trí chủ thể của con
người đối với thế giới. Con người sống, trước hết phải thoả mãn những nhu
cầu về ăn ở, đi lại, các điều kiện sinh hoạt diễn ra hàng ngày và phải đấu
tranh để sinh tồn như mọi động vật khác nhưng đó không phải là tất cả
những điều làm nên bản chất, nhân cách con người.C ái để phân biệt con
người với con vật phải là ý thức, phải là cái xã hội trong mỗi con người .
Trước Mác, các nhà triết học cũng đã phân biệt con người với con vật dưới
nhiều góc độ có sức thuyết phục , Phranhklin cho rằng con người khác con
vật ở chỗ biết sử dụng công cụ lao động , Arixtot đã gọi con người là một
động vật có tính xã hội, Pascal nhấn mạnh đặc điểm và sức mạnh của con
người là con người biết suy nghĩ, các quan niệm trên đều đúng nhưng chưa
đủ vì chỉ nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con
người chỉ đến khi có quan niệm của Mác, bản chất con người mới được
phản ánh đầy đủ và toàn diện, Mác nói “ có thể phân biệt con người với
súc vật bằng ý thức, tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì. Bản thân con
người bắt đầu phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra
những tư liệu sinh hoạt của mình , như thế con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình”. Con người trong quan niệm của chủ
nghĩa Mác được nhấn mạnh đến tính xã hội, đến vai trò lao động sản xuất,
4
cải tạo tự nhiên, “con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì
tái sản xuất ra toàn bộ xã hội”. Có nhiều ý kiến cho rằng xã hội cũng xuất
hiện ở các loài vật bởi chúng cũng có cuộc sống bầy đàn tinh vi phức tạp,
nhưng cần phải hiểu con vật thì chỉ hành động theo bản năng, theo nhu cầu
của riêng chúng, đảm bảo sự sinh tồn cho giống nòi, nó khác xa xã hội con
người bởi xã hội con người không chỉ là môi trường tồn tại của từng thành
viên, mà hơn thế nữa nó còn được liên tục phát triển bởi tác động của từng
cá nhân vào chính nó một cách có ý thức, như Mác nói “ xã hội sản xuất ra
con người với tính cách như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội với tính
cách như thế ấy”. Có thể nói , chỉ khi tồn tại trong xã hội, con người mới
thể hiện bản chất của mình, bởi con người cần đến xã hội ban đầu là do nhu
cầu sản xuất vật chất, nhưng trong quá trình sản xuất ấy con người sáng tạo
ra đời sống tinh thần, ngôn ngữ, tư duy và nhân cách thông qua giao tiếp
với các thành viên khác , nói cách khác con người hình thành bản chất
người trong qúa trình giao tiếp với xã hội , nếu không có quá trình này ,
con người không thể trở thành một con người xã hội. Ngay cả bản chất sinh
học của con người cũng không phải tồn tại bên cạnh bản chất xã hội mà
hoà vào quyện vào và tồn tại bên trong yếu tố xã hội. Việc ăn ngủ, sinh
hoạt hàng ngày của con người không đơn thuần chỉ là những nhu cầu sinh
học không hề bị ảnh hưởng, mà trái lại, nó thường xuyên bị tác động từ yếu
tố xã hội của con người đó như công việc hay các mối quan hệ. Do vậy có
thể nói yếu tố xã hội là thứ chi phối hàng đầu bản chất của một con người.
Trước Mác, triết gia duy vật xuất sắc của nền triết học cổ điển Đức
Phoiơbăc cũng đã đề cập đến bản chất xã hội của con người tuy vậy con
người trong triết học của Phoiơbăc bị tách rời hoàn toàn yếu tố xã hội, là
con người chung chung, phi giai cấp , không chỉ ra được quá trình phát
triển liên tục của xã hội và con người, đánh mất đi vai trò sang tạo to lớn
đối với lịch sử cuả nhân loại. Thấy rõ hạn chế đó, triết học Mác đã đưa con
người vào trong chính hiện thực xã hội, vào trong chính thực tiễn cuộc
5
sống, kinh nghiệm của họ để tìm hiểu bản chất của con người, do đó con
người trong chủ nghĩa Mác là con người của hiện thực , của lịch sử cụ thể,
tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng, lịch sử. Trong bức thư
gửi Ăngghen phê phán quan niệm siêu giai cấp của Phoiơbăc về con người,
Mác đã viết “ Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt . Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hoà các quan hệ xã hội”. Với câu nói bất hủ này, Mác đã đưa bản chất
con người trở lại đúng vị trí lịch sử vốn có của nó, đồng thời khẳng định
bản chất con người không phải là tổng số đơn giản các mối quan hệ, mà là
“tổng hoà” các mối quan hệ xã hội , điều đó có nghĩa bản chất con người
được hình thành từ muôn vàn các mối quan hệ đan xen, phức tạp, do vậy
bản chất con người cũng là một phạm trù thực sự phức tạp.
Vai trò chủ thể của con người đối với lịch sử
Khi khẳng định con người với tư cách là một thực thể tự nhiên đặc
thù, tồn tại trong mối liên hệ và tác động qua lại khăng khít với các vật thể
tự nhiên khác, chủ nghĩa Mác cũng đồng thời khẳng định sức mạnh và khát
vọng chinh phục là đặc trưng tích cực về mặt tự nhiên của con người.
Ăngghen khẳng định nhờ có lao động mà con người từ vượn có thể tiến hoá
được thành người, nhưng có thể chính khát vọng chinh phục thế giới đã
đưa con người trở thành chủ thể sáng tạo không ngừng của thế giới. Con
người vẫn là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài của tự nhiên, lịch sử
song quan trọng hơn tất cả, con người lại luôn luôn là chủ thể của chính
lịch sử - xã hội, Ăngghen nói “Thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần
dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy
không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng ta không thể biết và
không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người ngày càng cách xa
con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự
6
mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”, Lê Nin cũng
khẳng định “Lực lượng sản xuất hàng đầu của thế giới là người công nhân,
người lao động”. Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội có ý thức, con
người lao động tác động vaò thế giới tự nhiên , cải biến thế giới tự nhiên,
điều này khác con vật ở chỗ con vật chỉ dựa vào những điều kiện những
điều kiện có sẵn của tự nhiên, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên để sinh tồn
trong khi con người thông qua hoạt động phong phú của mình làm chuyển
biến thế giới tự nhiên, sinh động thế gới tự nhiên , bắt tự nhiên phục vụ lợi
ích của mình , tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Với
một bộ óc thông minh cùng khát khao chinh phục,con người từng bước làm
chủ tự nhiên , thông qua đó thúc đẩy xã hội của mình phát triển. Mác nói “
Toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con người
kinh qua lao động của con người, sự sinh thành của tự nhiên cho con
người”. Trong khi cải tạo tự nhiên phục vụ lợi ích của mình, con người
cũng đồng thời làm ra lịch sử của chính mình, chúng ta đều biết mỗi cá
nhân đều chịu tác động của xã hội, cuả hoàn cảnh lịch sử, tuy vậy con
người không phải là vật bị động đối với những tác động ấy, trái lại từng cá
nhân cũng tác động trở lại lịch sử xã hội, lịch sử xã hội là lịch sử của chính
bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự
tồn tai con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt
xã hội, thông qua hoạt động vật chất và tinh thần con người thúc đẩy xã hội
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người
đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật
xã hội, và do đó không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài
người.Tất cả những điều trên thể hiện một cách nhìn mới, cách nhìn biện
chứng, khoa học về con người, tạo nên một bước ngoặt mang tính cách
mạng trong lĩnh vực tư tưởng về con người. Quan niệm của chủ nghĩa Mac
đã xoá tan một cách triệt để lớp màn huyền ảo , thần bí bấy lâu bao quanh
con người, vạch ra bản chất đích thực, đầy sức thuyết phục về con người .
7
b. Nhân cách và vai trò của nó trong đời sống con người
Nhân cách là một phần quan trọng trong mỗi cá nhân con người. Nó là
bộ mặt tâm lí , tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng biểu hiện bản sắc và
giá trị xã hội của cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt động, giao tiếp.
Người ta sinh ra là người nhưng nhân cách chỉ hình thành trong hoạt động
giao tiếp, về thực chất, đó là quá trình xã hội hoá cá nhân, tiếp thụ các giá
trị văn hoá của gia đình, cộng đồng, xã hội. Nhân cách có tính chất xã hội ,
đồng thời cũng mang tính cá biệt, với những kinh nghiệm , nếp suy nghĩ
tình cảm, hoài bão, niềm tin, định hướng giá trị, tính cách riêng, tạo ra tính
đa dạng của các cá nhân. Nhân cách biểu hiện cái tôi của mỗi cá nhân. Mỗi
hành vi của cá nhân đều in dấu ấn của nhân cách, bởi suy nghĩ có ảnh
hưởng trực tiếp đến hành động, một nhân cách tốt sẽ có những hành động
phù hợp giữa lợi ích cá nhân và cộng đồng, trái lại một nhân cách xấu sẽ
dẫn đến những hành vi đi ngược lại lợi ích và sự phát triển chung. Với vai
trò quan trọng như vậy, nhân cách đã rất được các triết gia từ cổ chí kim
chú ý. Triết học Mác khẳng định nhân cách không phải do bấm sinh mà có,
nó được hình thành và phát triển dựa vào các yếu tố sinh học, tư chất di
truyền học, sự tác động qua lại biện chứng của gia đình, nhà trường, xã hội
và thế giới quan cá nhân. Nhân cách là thế giới quan bên trong của từng cá
nhân, tuy vậy nó cũng mang tính lịch sử bởi thế giới quan của cá nhân cũng
bị ảnh hưởng của tính chất thời đại như vị trí lợi ích của cá nhân trong xã
hội , khả năng thẩm định đạo đức- nhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá
nhân. Một xã hội tiến bộ chỉ có thể được xây dựng bởi những con người có
nhân cách tích cực và ngược lại, chỉ khi có một xã hội tiến bộ thì những cá
nhân mới có cơ hội bồi dưỡng và phát huy hết nhân cách theo hướng tích
cực, nâng cao vai trò chủ thể sáng tạo đối với tự nhiên và xã hội. Do vậy
trong sự nghiệp phát triển con người không thể xem nhẹ cả việc phát triển
xã hội lẫn giáo dục nhân cách.
8
II. Cơ sở thực tiễn
Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam đối với vấn đề con người
và nhân cách con người
Trong suốt thời kì đổi mới, Đảng ta đã hết sức coi trọng vấn đề con
người và chiến lược con người, đặt con người ở trung tâm của mọi sự phát
triển. Đó là tư tưởng tất cả vì con người, tất cả do con người – tư tưởng
xuyên suốt thời kỳ đổi mới và là một trong những nhân tố quan trọng làm
nên thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới. Không lúc nào quên lời dạy
của chủ tịch Hồ Chí Minh, liên tiếp các kì đại hội từ đại hội VI đến đại hội
X, Đảng liên tục đề ra các chủ trương chính sách lớn cho sự nghiệp phát
triển con người, không những phục vụ đắc lực cho việc phát triển đất nước
mà còn nâng cao tầm vóc của người Việt Nam trong thời đại toàn cầu hiện
nay. Tại đại hội VI, Đảng đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược
kinh tế xã hội , xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Trong văn kiện đại hội lần thứ VII của Đảng có viết: “Đẩy mạnh hơn
nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, coi đó là quốc sách
hàng đầu để phát huy nhân tố con người – động lực trực tiếp của sự phát
triển” . Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khoá VII, Đảng ta nhấn mạnh:
“Con người là vốn quý nhất, chăm lo hạnh phúc cho con người là mục tiêu
phấn đấu cao nhất của chế độ ta”…Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi
mới, tại đại hội VIII, Đảng ta đã đúc kết và khẳng định “ lấy việc phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững”, Khẳng định này được cụ thể hoá thành những quốc sách lớn sao cho
phù hợp với quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Khi công cuộc đổi
mới đang đi vào chiều sâu, phải giải quyết những nhiệm vụ hết sức to lớn
và phức tạp thì Đảng ta chủ trương bằng mọi giá phải “khơi dậy trong nhân
dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam,
quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và
9
công nghệ”. Tiếp tục một cách nhất quán tư tưởng chiến lược con người
của thời kỳ đổi mới, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng
định: xã hội ta là xã hội vì con người và coi con người luôn luôn giữ vị trí
trung tâm của phát triển kinh tế, văn hoá và xã hội. Con người, trước hết là
tiềm năng và sức mạnh trí tuệ, tinh thần đạo đức là nhân tố quyết định và là
vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây dựng CNXH. Chính vì vậy
đại hội IX chủ trương: chiến lược con người phải nằm ở vị trí trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
Các chủ trương của Đảng trong suốt thời kì qua đã được hiện thực hoá
qua các chính sách cụ thể về y tế, văn hoá , giáo dục …Với những nỗ lực
không ngừng, Đảng ta đã tạo ra một bước tiến dài trong quá trình phát triển
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiến bộ, dân chủ , toàn diện.
10
PHẦN II. THỰC TRẠNG
I.Khuyết điểm
Trong quá trình đổi mới , chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng
kể ,tuy vậy khi nhìn thẳng vào thực tế thì vấn đề con người vẫn còn nhiều
điều đáng suy nghĩ .So với trình độ phát triển chung của thế giới ,Việt Nam
vẫn là một nước đi sau , do vậy trình độ trình độ giáo dục y tế tuy có nhiều
tiến bộ song vẫn ở tình trạng lạc hậu .Nền kinh tế thị trường phát triển mới
20 năm nhưng đã chi phối đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp
dân cư và ảnh hưởng không nhỏ đến tầng lớp sinh viên trí thức .Các nền
văn hoá phương Tây du nhập là văn hoá truyền thống bị mời nhạt , các giá
trị đạo đức , truyền thống đấu tranh của dân tộc bị lu mờ trước lối sống gấp
gáp , vô tâm , thờ ơ ham hưởng thụ từ bên ngoài .Thêm vào đó , tư tưởng
đồng tiền đang chi phối cả cuộc sống trong gia đình và ngoài xã hội , vì
đồng tiền mà các quan chức nhà nước sẵn sằng tham nhũng của dân , làm
xói mòn lòng tin của dân vào Đảng , vì đồng tiền mà các quan hệ thân thiết
gần gũi như anh em , vợ chồng, bạn bè…sẵn sàng bị đổ vỡ nhanh chóng.Sự
biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến nhận
thức và hành động của con người Việt Nam , đến lí tưởng và đạo đức của
họ, các chuẩn mực đạo đức dần thay đổi, theo một cuộc điều tra xã hội học,
con người Việt Nam từ chỗ coi trọng các giá trị chính trị -xã hội chung
sang coi trọng các giá trị vật chất , từ chỗ lấy con người xã hội tập thể làm
mẫu mực chuyển sang chỗ quá nặng nề về con người cá nhân, thậm chí cá
nhân chủ nghĩa.Từ chỗ coi đức làm gốc trong quan hệ nhân cách chuyển
sang coi nhẹ đạo đức. Điều khiện khách quan đó đã ảnh hưởng không nhỏ
đến lối sống thiếu tích cực của sinh viên hiện nay . Một trong những thực
tại đáng buồn là phần lớn sinh viên ngày nay không có lí tưởng vững
vàng , cao đẹp như thế hệ cha anh , tinh thần cách mạng dần bị lãng
11
quên .Họ chưa ý thức được trách nhiệm xây dựng đất nước của mình để
xứng đáng với máu xương mà lớp lớp cha anh đã ngã xuống vì tự do cho
dân tộc , tinh thần dân tộc những chỗ cho tư tưởng cá nhân , lí tưởng xã hội
chủ nghĩa mà Đảng ta đang xây đắp gần như bị bỏ ngỏ , kết quả là sự chảy
máu chất xám ra bên ngoài luôn ở tình trạng đáng báo động bởi họ đã chọn
nơi tốt hơn để cống hiến , đất nước mất đi “ tài nguyên “ vô giá .Sinh viên
ngày nay, họ tự tin với thế hệ đi trước rằng mình là những con người của
thời đại mới luôn nhanh nhạy và năng động nhưng khi đứng trước bạn bè
quốc tế, họ lại thể hiện “một sự tự ti vĩ đại” họ thiếu niềm tin vào sự trỗi
dậy của dân tộc, thậm chí còn có một bộ phận thanh niên sa vào các tệ nạn
xã hội , làm thoái hoá nghiêm trọng cả thể chất và tinh thần, trở thành gánh
nặng cho gia đình và xã hội .
Lối sống buông thả , không biết định hướng của sinh viên ngày nay là
một điều đáng buồn cho tương lai của đất nước .Theo số liệu từ một cuộc
điều tra nhỏ ở ba trường đại học ở TP.HCM : ĐH Khoa học tự nhiên ,ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân văn ,ĐH Bách khoa , đã cho thấy có 10% sinh
viên hướng vào vui chơi , hưởng thụ.Số những sinh viên này hướng hoạt
động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ , nhiều khi vô bổ , ít
chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách .” Tớ chỉ thích
điện thoại nào đời mới ..” ,”Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập…” “Hàng
hiệu hợp thời ở chỗ …” Đó là những điều quan tâm thường trực trong đời
sống hàng ngày của nhóm sinh viên này .Họ rất năng động , hứng thú với
những hoạt động vui chơi , giải trí , hưởng thụ những thú vui của tuổi trẻ ,
thể hiện một lối sống tiêu dùng “sành điệu “ .Lắm khi “ăn chơi “ kiểu bạt
mạng đến quên cả lối về .
Bên cạnh lối sống vui chơi hưởng thụ thì có đến 60% sống khép
mình , ít tham gia hoạt động xã hội .Những sinh viên này ít tham gia vào
các hoạt động xã hội , chính trị , sinh hoạt tập thể .Đây là cách sống thiếu
12
năng động , thiếu tích cực , ít hoà nhập với đời sống xã hội .Trước những
sự kiện đang xảy ra xung quanh mình , họ luôn tỏ thái độ bàng quan.
Hai lối sống này cũng là hai lối sống khá phổ biển của sinh viên Việt
Nam nói chung chứ không chỉ riêng của sinh viên TP.HCM .
Nổi trội trong những năm gần đây là lối “sống thử “ .Thực trạng sống
thử được coi là biểu hiện đang lo ngại thứ hai trong đời sống văn hoá của
sinh viên , chỉ xếp sau “ không chịu học hành , xin điểm , quay cóp “ .
Thực tế, hiện nay, SV rất thiếu nơi giao lưu, tâm tình, trong khi lại
đang ở độ tuổi phát triển tâm sinh lý, nhu cầu giao lưu tình cảm lớn.Thế là
các gốc cây, ghế đá, vườn hoa của trường, của ký túc xá được “tận dụng
triệt để” trở thành “Chốn hai người “ rất mất mỹ quan và ảnh hưởng môi
trường sư phạm.
Vụ việc xảy ra bên hồ Thành Công khi Huyền Trang, SV năm thứ
nhất của ĐH Văn hóa Nghệ thuật Quân đội bị đâm chết khi đang ngồi tâm
tình với bạn trai là một dẫn chứng đau lòng về hậu quả của việc thiếu
những địa điểm lành mạnh cho SV giao lưu, tâm tình.
Trong bản kết luận này Nhận thức về tình yêu của SV nói riêng và
thanh niên nói chung cũng đã có những thay đổi theo chiều hướng “tình
yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc.”Theo
một khảo sát của Viện Khoa học xã hội TP.HCM và TW Đoàn TNCS
HCM tại 5 trường ĐH tại TP.HCM và 3 trường ĐH tại Hà Nội, chỉ có
khoảng 28,9% SV kiên quyết phản đối quan hệ tình dục trước hôn nhân. Số
còn lại chấp nhận, coi đó là việc bình thường hoặc đánh giá đó là việc
không tốt nhưng cũng không phản đối.
Một trong các lý do phổ biến được SV đưa ra để giải thích cho việc
“góp gạo thổi cơm chung” là “mỗi người ở một nơi thì tốn kém quá, chi
bằng 2 người chung 1 phòng”. Mức sinh hoạt phí và tiền thuê nhà ở các
13
thành phố lớn tương đối cao như hiện nay khiến không ít cặp SV chọn giải
pháp “tiết kiệm” như vậy.
Trên đây chỉ là một phần trong những khuyết điểm của sinh viên nói
chung.
Đó là một phần biểu hiện tình trạng yếu kém của sinh viên .Những
điều này trở nên đặc biệt nguy hiểm bởi thanh niên , sinh viên chính là
những người chủ tương lai của đất nước , quyết định vận mệnh dân tộc ,
nếu không có một lí tưởng cộng sản vững vàng , một thể chất tinh thần và
trí tuệ khoẻ mạnh thì sự nghiệp phát triển đất nước đi lên con đường xã hội
chủ nghĩa khó thành hiện thực
II. Ưu điểm
Bên cạnh rất nhiều những khuyết điểm của tầng lớp sinh viên , chúng
ta cũng cần phải thấy được những ưu điểm của họ , để họ tiếp tục phát huy
những ưu điểm đó .
So với các dân tộc khác trên thế giới , dân tộc Việt Nam có nhiều điều
kiện địa lí tự nhiên thuận lợi nhưng cũng chịu nhiều đau thương mất mát do
quá trình đấu tranh với thiên tai địch họa .Lịch sử dân tộc Việt Nam là một
chuỗi dài các cuộc kháng chuến giành và giữ độc lập tự do cho dân tộc
.Điều kiện hoàn cảnh như vậy đã tôi luyện cho con người Việt Nam sớm có
tinh thần yêu nước nồng nàn , ý thức đoàn kết dân tộc , bản lĩnh kiên cường
trước mọi khó khăn thử thách ,đức tính cần cù chịu thương chịu khó , sáng
tạo dũng cảm .Tinh thần đó đã ăn sâu vào tiềm thức và trở thành truyền
thống quý báu của con người Việt Nam nói chung cũng như giới sinh viên
nói riêng .Và tinh thần đó được thể hiện khá rõ trong quá trình học tập và
rèn luyện của sinh viên trong khi còn ngồi trong ghế nhà trường .
Đối với sinh viên ,những phong trào thi đua phấn đấu học tập là một
trong những hình thức để rèn luyện bản thân , họ khao khát được cống hiến
14
cho đất nước .Những người sinh viên trẻ tuổi của đất nước luôn nỗ lực hết
bản thân để có thể trau dồi những tri thức của nhân loại để trang bị hành
trang cho mình lập nghiệp mai sau , với hy vọng mang lại sự thịnh vượng
giàu có cho tổ quốc thân yêu.
Trong quá trình rèn luyện trong mái nhà trường , bản lĩnh chính trị của
mỗi sinh viên đều vững vàng hơn . Trong bốn năm vừa qua , hơn 100
trường đại học , cao đẳng đã kết nạp vào Đảng 3.923 trong tổng số 385.851
sinh viên. Điều đó thể hiện được phần nào ý thức rèn luyện phấn đấu của
sinh viên. Đội ngũ đảng viên sinh viên có những điểm mạnh riêng .Họ có
sự hài hoà giữa đức và tài , giữa năng lực học tập và khả năng công tác xã
hội ;tích cực đi đầu trong nhiều phong trào của trường ,Đoàn thanh niên và
Hội sinh viên .Dù đang học tập hay đã ra công tác , đa số đã hoàn thành
nhiệm vụ , phát huy vai trò tiên phong , gương mẫu của người đảng viên
.Nhiều đảng viên sinh viên năng động sáng tạo , dám nghĩ dám làm , dám
chịu trách nhiệm với nhiệm vụ được giao , nói đi đôi với làm , có phong
cách làm việc khoa học theo yêu cầu của công cuộc đổi mới .
Và không chỉ có miệt mài học tập mà sinh viên còn luôn tích cực
tham gia các phong trào xã hội về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc của đất
nước .
Và nồng nàn hơn cả đó là tình cảm giữa con người với con người
.Sinh viên tuy học tập vất vả nhưng đời sống tình cảm của sinh viên vẫn
thật sâu đậm .
Họ sống chân thành và cởi mở với mọi người .Thể hiện được lối sống
lành mạnh , thương người như thể thương thân .Và nổi bật trong giới sinh
viên đó là phong trào tình nguyện ,những màu áo xanh với nhiệt huyết
mãnh liệt của tuổi trẻ , họ tham gia tích cực các phong trào xã hội ,những
phong trào thể hiện tình thương yêu con người , họ thắp lên những ngọn
lửa ấm tình người qua các chiến dịch mùa hè xanh , vận động hiến máu
15
nhân đạo…Theo các kết quả nghiên cứu đã cho thấy chính những tác động
của môi trường sống đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống , nhân cách của
sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên sống cùng với gia đình thể hiện một lối
sống chăm lo bản thân và người thân, nhưng thiếu tích cực hòa nhập vào
đời sống xã hội chung. Trong khi đó, những sinh viên sống xa nhà lại gắn
bó với cuộc sống tập thể và xã hội hơn. Do vậy, lối sống tích cực ở họ cũng
cao hơn hẳn những sinh viên cùng sống với gia đình .
Chính những lối sống đẹp đẽ đó càng làm cho sinh viên có thêm được
tư tưởng đạo đức tốt .Và đó là một trong những nhân tố giúp phát triển toàn
diện cho sinh viên , để sinh viên là một động lực thúc đẩy xã hội phát triển
tiến lên chủ nghĩa xã hội .
III. Nguyên nhân của những hạn chế
Có rất nhiều những nguyên nhân gây nên tình trạng hạn chế trên ,có
thể kể đến các nguyên nhân sau :
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta tuy có những bước phát triển trong vài
năm gần đây nhưng vẫn đang là một trong những nền kinh tế kém phát
triển, đại bộ phận dân cư còn nghèo trong khi nền kinh tế thị trường đòi
hỏi sự cạnh tranh khốc liệt, do đó mối lo kinh tế làm con người bất chấp
thủ đoạn gây ra những tiêu cực trong xã hội và sự đi xuống của nhân cách.
Điều đó ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến sinh viên .
Thứ hai, nền kinh tế thị trường thay thế nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp trước đây đã làm cho nền kinh tế phát triển sôi động, đất nước
mở cửa hội nhập và sự du nhập các nền văn hoá ngoại lai là điều khó tránh
khỏi ,bên cạnh những tích cực,có cả những mặt tiêu cực. Những mặt tiêu
cực ấy bằng hình thức này hay hình thức khác, chúng xâm nhập và tuyên
truyền cho lối sống thực dụng tư sản, chúng trực tiếp gặm nhấm ăn mòn
16
những nguyên tắc đạo đức xã hội chủ nghĩa, giá trị truyền thống của dân
tộc , làm tha hoá con người.
Thứ ba, do công tác tuyên truyền giáo dục của Đảng còn có nhiều hạn
chế, và đi theo lối mòn, thời đại ngày nay khác hẳn so với thời đại kháng
chiến 30 năm trước, do vậy những phương pháp tuyên truyền không còn
phù hợp với giới trẻ giàu sự năng động, luôn khát khao những điều mới lạ.
Đã có những lúc chúng ta quá chú trọng đến vấn đề phát triển kinh tế mà
sao nhãng vấn đề giáo dục tư tưởng đạo đức, lí tưởng cách mạng cho thế hệ
trẻ, hậu quả là thế hệ trẻ ngày nay thiếu hẳn một bầu nhiệt huyết với sự
nghiệp cách mạng của Đảng, với con đường đi lên của dân tộc.
Đó là những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề
nhân cách sinh viên hiện nay.
17
PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP
Đứng trước tình hình đó , chúng ta cần có những giải pháp quyết liệt
và có hiệu quả để giải quyết triệt để vấn đề này .Có thể nêu ra các biện
pháp giải quyết sau :
Thứ nhất, cần đẩy mạnh và đẩy nhanh công cuộc phát triển kinh tế, đi
đôi với thực hiện các công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Phát huy tinh thần dân chủ, sáng kiến của sinh viên, qua đó rèn rũa cho
sinh viên phẩm chất của giai cấp công nhân và của con người Việt Nam
hiện đại, năng động sáng tạo, cần cù thông minh, có tinh thần hợp tác và
chia sẻ .
Thứ hai,cần quán triệt hơn nữa chủ trương của Đảng về con người, tuy
vậy cũng không nên quá xem trọng nhân tố con người mà bỏ qua các nhân
tố khác dẫn đến tình trạng chủ quan duy ý chí như trước đây. Hoàn thiện
các điều kiện cho phát triển nguồn lực con người, từ pháp luật đến các
chính sách xã hội, y tế , giáo dục, văn hoá, tôn giáo, đảm bảo quyền lợi tự
do, công bằng cho mọi công dân. Trong đó giáo dục cần được coi là quốc
sách hàng đầu bởi giáo dục chính là tiền đề trực tiếp để xây dựng con
người Việt Nam với đầy đủ phẩm chất trí tuệ và nhân cách sống, trực tiếp
đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi
mới đất nước, đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà khoa học công nghệ
và con người đang trở thành hai nhân tố quyết định. Giáo dục hiện nay còn
rất nhiều vấn đề cần giải quyết nhưng quan trọng lúc này là cần giáo dục tư
tưởng và đạo đức lối sống cho sinh viên khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Thêm vào đó là đổi mới cách dạy và cách học trong các trường đại học sao
cho phù hợp với sự phát triển chung của thời đại và thế giới, cần có phương
pháp để người học năng động hơn, sáng tạo hơn và kiến thức cũng cần sát
với tình hình thực tại, học phải đi đôi với hành. Có chính sách đào tạo và
18
thu hút nguồn nhân tài, hạt nhân của sự phát triển trong các lĩnh vực hợp lí,
phải coi “nhân tài là nguyên khí của quốc gia”. Cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa gia đình nhà trường và xã hội để hiệu quả giáo dục đạt cao nhất.
Thứ ba, cần khơi dậy trong giới trẻ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân
tộc,tinh thần cách mạng xã hội chủ nghĩa, không những làm cho họ biết tự
hào về truyền thống cha anh mà còn phải biết tự xấu hổ với cha anh, với
bạn bè thế giới và với chính bản thân mình vì tình trạng nghèo nàn, lạc hậu
của đất nước và quyết tâm chấn hưng đất nước.Lịch sử đã có một Nhật Bản
, Trung Quốc nhờ tinh thần dân tộc của mình mà vượt mọi khó khăn vươn
lên trở thành những con rồng châu Á, hay ngay trong chính lịch sử của dân
tộc ta nhờ có tinh thần yêu nước nồng nàn mà chúng ta lập nên bao chiến
công hiển hách, buộc những đế quốc hùng cường phải nể phục, đó là những
lí do khiến chúng ta tin tưởng một khi mỗi con người Việt Nam đều mang
trong mình một tinh thần dân tộc cháy bỏng nồng nàn thì sẽ có sức mạnh,
có quyết tâm hành động vì vinh quang của dân tộc.Chúng ta nên tận dụng
sự xâm nhập của văn hoá phương Tây để tuyên truyền lối sống văn minh
cùng những phẩm chất của họ phù hợp với quá trình hội nhập của dân tộc
ta, làm sao để thế hệ trẻ ngày nay tự tin hội nhập với thế giới nhưng vẫn
không quên mình là ai và mình từ đâu đến .
Những giải pháp trên đây đều là những giải pháp chung,cần phải có
thời gian để từng bước hoàn thiện và tuỳ từng hoàn cảnh mà chúng ta có
những giải pháp cụ thể .Cuối cùng, phát triển nhân cách sinh viên thành
công được như những mục tiêu mà chúng ta đã đề ra đòi hỏi sự nỗ lực
phấn đấu không ngừng
19
KẾT LUẬN
Có thể nói vấn đề “nhân cách sinh viên trong thời kì hội nhập với khu
vực và thế giới ” đã, đang và vẫn sẽ là chủ đề nóng hổi và bức thiết trong
thời kì đổi mới-thời kì hội nhập, thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá của
chúng ta, hơn lúc nào hết chúng ta hiểu rằng chỉ có hiểu đúng đắn bản chất
của con người, qua đó xây dựng cho sinh viên- thế hệ cầm lái tương lai của
dân tộc phát triển toàn diện cả về thể chất, tinh thần, năng lực mới là chìa
khoá của sự phát triển bền vững và đưa sự nghiệp xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và chủ tịch Hộ Chí Minh dày công xây đắp đến bến bờ thành
công.Khi nghiên cứu tìm hiểu vấn đề, bản thân em cảm thấy hiểu sâu sắc
hơn về bản chất và nhân cách sinh viên nói riêng và nhân cách con người
Việt Nam trong thời đại mới nói chung, cũng như quan điểm tư tưởng cùng
những chủ trương, đường lối của Đảng ta về phát triển con người. Không
chủ riêng em mà cả xã hội rất đồng tình và tin tưởng vào con đường phát
triển con người của Đảng, cả xã hội đang dành một sự quan tâm rất lớn đến
vấn đề con người, chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những cuộc tranh luận
trên báo chí hay hội nghị hội thảo ở bất cứ đâu bàn về con đường phát triển
con người Việt Nam. Ý thức được trách nhiệm của một công dân và của
một sinh viên với vấn đề này, em thấy mình cần trau dồi thêm kiến thức,
hoàn thiện hơn nữa phẩm chất và nhân cách của một con người trong thời
đại mới theo những mục tiêu mà Đảng đề ra để sau này có thể phục vụ tốt
nhất công cuộc phát triển chấn hưng đất nước, đưa Việt Nam sánh vai với
các cường quốc năm châu trên thế giới như Bác Hồ kính yêu hằng mong.
20
- Xem thêm -