Nghệ thuật đàm phán - Phân 1
Đ àm phán là một hoạt động gắn với mọi quan hệ giữa người với người mà hàng
ngày chúng ta vẫn tiến hành và nhiều khi tiến hành một cách trực giác không kịp
có thời gian suy nghĩ đến.
Trong lĩnh vục quán lý đàm phán là một bộ phận không thể tách rời m ang lại
thành công hay thất bại cho bạn cũng như doanh nghiệp.
M ỗi người chủng ta có thế dễ dàng nhớ lại vô vàn tình huống trong lĩnh vực nghề
nghiệp hay trong cuộc sống riêng tư. Ai mà chắng đã phải đối đầu với những áp
lực (cuộc chiến cân não), ai mà chăng đã từng là nạn nhân của những thói lừa bịp,
mưu mẹo và các thủ đoạn đe dọa hay giật dây. Bắt buộc phải nhượng bộ trong
những tình huống đó, chúng ta đều giữ lại trong người một nỗi niềm cay đắng và
tự hứa sẽ không bao giờ đê rơi vào tình trạng đó.
N hưng cũng tò đó dần hình thành nên một nhận thức mang tính sung đột với đàm
phán và cuối cùng đưa đến một cách đối sử dựa trên sự thiếu tin cậy giữa các bên.
Quyền lợi ích ký bán thân, thiếu một thái độ thông cảm độ lượng đối với các lợi
ích của các đối tác trong đàm phán và đàm phán gần như thu hẹp vào một sự so
sánh lực lượng giữa các bên. Người ta có thể dễ dàng hình dung những ton hại do
những thái độ tương tự đối với đàm phán có thể gây ra. Vậy có thè tránh không đê
bị lôi cuốn vào những lệch lạc ấy không? Tránh những cạm bẫy của trực giác? Kẻ
yếu, kể mạnh có ngồi vào bàn thương lượng được không? N hũng công trình
nghiên cứu về đàm phán xuất phát từ các trường đại học M ỹ và rồi lan ra toàn thế
giới.
Đối với mỗi người chúng ta, đó là một khả năng đem lại cuộc sống. Dù muốn hay
không, những giờ phút đầu tiên trong đời và suốt một đời người chúng ta thèm
muốn đạt được nguyện vọng và ước m ong bằng cách thích nghi với các điều bó
buộc của hoàn cảnh xã hội và vật chất chung quanh ta. N eu chúng ta không đạt
được điều chúng ta m ong muốn, đó là do trật tự đã sắp đặt và chúng ta phải cái
tiên không ngừng năng lực, sự tinh thông đê đàm phán, thỏa thuận với người khác
làm sao để được hài lòng hơn là không thương lượng.
Thế nào là một đàm phán thành công
- Khi m ột cuộc đàm phán không đi đến kết quả, việc nhận sét kết quả thất bại
thường đi đôi với việc người ta nhận ra đã mất những gì? Và khi sự việc đã qua,
sự tức giận dịu lại người ta bắt đầu suy nghĩ, đi tìm một lối thoát, một sự thòa hiệp
cũng như những biện pháp đê đạt tới. Điều này là m ột phần của quá trình đàm
phán. Thất bại không có nghĩa là tan vỡ, có thê một biện pháp đúng đắn lúc này là
tạm ngừng cuộc đàm phán khi người ta cảm thấy bế tắc, hoặc đang bị lạm dụng.
c ắ t đứt đàm phán là chối bỏ, một việc không dễ chịu chút nào, đê lại những vết
hằn không dễ xóa bỏ.
- Vì người ta trong bất kỳ tình thế như thế nào, chiến tranh hay cạnh tranh. . . cuối
cùng cũng phái ngồi lại với nhau quanh bàn đàm phán. Trong cuộc gặp các nghi
thức được đặt ra, các thủ đoạn, mưu kế có trước và người tham gia có thể học hỏi
lẫn nhau ở những điều không nói rõ ra và quy định các điều kiện tiếp nhận đề nghị
của nhau.
- Thắng, chống lại hay cùng đi tới là câu hởi đặt ra trong cuộc đàm phán. Ai chăng
có cảm giác hài lòng sau khi đã “giành” được một khoản hạ giá đáng kể hay
những sự dề dàng phụ thêm trong cuộc thương lượng mua bán tài sản có giá trị
(nhà, xe. . .) N hưng những cuộc đàm phán ấy không lặp lại, dĩ nhiên chúng ta có
xu hướng ích kỷ, chỉ muốn dành nhiều phần lợi cho mình mà thiệt thêm cho người
khác. Đỏ là một trò chơi mà kết quả bằng không, vì trong đó điều người này thắng
thì người khác thua thiệt và cũng có khi ngược lại: kẻ ngoài cười nụ, người trong
khóc thầm. N hưng chúng ta không nên quan tâm nhiều tới điều đó vì chúng ta
thường không quan tâm đến đối tác sau cuộc đàm phán. N him g nó sẽ hoàn toàn
khác đối với những cuộc đàm phán diễn ra với những người thân thiết như họ
hàng, cha mẹ, hay bè bạn trong cuộc sống riêng tư cũng như các cuộc đàm phán
sảy ra không ngừng trong cuộc sống nghề nghiệp với khách hàng, đói tác, nhà
cung cấp. . . Chúng ta không được phép không biết đến điều gì sảy ra với đối tác
sau khi đàm phán kết thúc. N eu họ không hài lòng, thậm chí hụt hẫng, chắc han họ
sẽ không sẵn sàng đến với chúng ta trong các cuộc đàm phán sau và cách cư sử
của họ sẽ bị ảnh hưởng hoặc họ lân tránh không chịu thương lượng với ta hoặc họ
sẽ tìm cách ăn m iếng trả miếng.
N hững cuộc đàm phán thường xuyên đó sẽ nằm trong mối quan hệ mà chúng ta
muốn thiết lập. M uốn củng cố, muốn làm cho tốt hơn. Trước hết đó là dịp tạo ra
giá trị cung cấp các giái pháp cho các vấn đề khó khăn, cách giải quyết các cuộc
sung đột hoặc tạo ra những cơ hội đê phát triển. Tiêp đó là tìm ra cách hai bên tiêp
nhận được đề cùng nhau chia sẻ giá trị đã được tạo ra một cách không nhất thiết
phải là công bằng và bình đẳng giữa các bên.
Vậy nếu người ta thừa nhận rằng những người đàm phán với chúng ta hôm nay sẽ
cũng là những người đàm phán sau thì đó là một cuộc đàm phán tốt, các bên tham
gia đều tự coi như những người thang cuộc. Cuối cùng thì các bên đàm phán có
thể phát biêu “Tất cả chúng ta cùng tiến” hoặc “Họ đã nghe chúng ta, họ đã thông
cám những yêu cầu của chúng ta”, “Họ là những người cứng rắn nhưng cũng là
những người đúng m ực” , “Không ai mất thể diện”, “Điều đó khuyến khích những
lần đàm phán sau”
Đây là một trong những cách đơn giản dùng đê minh họa các cuộc đàm phán trong
đó tất cả đều hài lòng, tuy rằng hài lòng theo các cách khác nhau. Hài lòng có thể
đánh giá ở mức độ phần lớn các điều mong muốn đều đạt được trong khi bên kia
kém hài lòng hơn nhưng cũng đánh giá kết quả đàm phán đã cải thiện tình cảm của
họ và ấp ủ hy vọng sẽ thu được nhiều lợi hơn trong các cuộc đàm phán sau.
Trên thực tế, cum từ w in-w in (các bên đều thắng) che dấu một tình trạng khó sử
(dilemne) cha tất cả các bên tham gia đàm phán. Chúng ta không chi ích kỷ (muốn
có lợi hơn người khác) tuy biết rằng nếu người khác không được gì thì quá trình
đàm phán chấm dứt, do đó cần có một tấm lòng vị tha để tiếp tục cuộc chơi (sự
trao đôi). Tài khéo léo của người đàm phán một phần ở chỗ biết cách làm chủ
nghịch lý này. N gười ta thấy rõ cái khó là làm sao dẫn dắt quá trình trong khi phải
vượt qua vô số trở ngại, tránh được các cạm bẫy, đề đưa người đối thoại tiếp nhận
những đề nghị của mình đua ra mộl cách không ích kỷ và cũng là đê đáp ứng
những nguyện vọng hoặc lợi ích của chính họ.
Quá trình đàm phán là một nghệ thuật. N gười đàm phán phải làm thay đôi nhận
thức của người đối thoại với các vấn đề mấu chốt trong nội dung đàm phán (các
vấn đề được-thua) và đối với các lợi ích tương ứng bằng cách sử dụng và các
nguồn lực và kỳ thuật giao tiếp cùng với nghệ thuật thuyết phục.
- Khi nào hai bên đều thắng? Những bài học kinh điên chủ yếu nêu ra ba tình
huống.
+ Khi các bên đàm phán cùng đi đến lợi ích chung và cùng nhau chia sẻ thắng lợi
một cách đúng đắn.
+ Khi mỗi bên đàm phán đều đánh giá rằng họ đã hài lòng và đã giành được điều
quan trọng nhất đối với họ.
+ Cuối cùng khi một bên đàm phán đánh giá rằng điều đã giành được bằng thương
lượng, dù không thoa mãn hoàn toàn nguyện vọng của mình, cũng lớn hơn điều đã
có nếu không đàm phán.
Trong m ột cuộc đàm phán khi tạm ngừng hoặc thất bại luôn được nhìn nhận như
một cuộc tạm nghỉ, và việc nối lại là không thề tránh được nếu mối quan hệ giữa
hai bên không bị tan vỡ.
Dưới đây là những kỹ năng chỉ ra giúp bạn có một cuộc đàm phán hiệu quả, đi đến
thắng lợi dành tốt, lâu dài dành cho cả hai bên.
1. Trước khi đàm phán nên suy nghĩ trước đã.
Trước tiên và quan trọng nhất là cần biết được điều mong muốn của mình là gì,
trong cuộc đàm phán cần phải biết điều gì là quan trụng nhất.
Đồng thời cũng phải tìm hiểu rõ đối tượng đàm phán: mình sẽ phải thương lượng
với ai đây, và nếu kết quả đàm phán khônạ hài lòng thì mình sẽ làm gì? N gười ta
cố gắng tìm những cách làm đối tượng đàm phán không thể không hài lòng. Có
những câu hỏi đặt ra cần phải giải đáp trước khi tiến hành đàm phán đê có được
một kết quả thành công, c ầ n đưa ra các yểu tổ năng động của một cơ chế phù hợp
và dễ thuyết phục người đối thoại. Khi người ta lựa chọn một giải pháp là bời vì
giải pháp đó đã chứng tỏ là tốt hơn cả và như vậy người ta sẽ cảm thấy mình thắng
mặc dù giải pháp ấy không thế hoàn toàn thóa mãn được tất cá mọi nguyện vọng.
2. Nhận thức về vấn đề đang cần đàm phán.
Sẽ có một chút giao động khi bắt đầu tranh luận, đến một lúc nào đó người ta tự
hỏi “N gười ta đang nói về vấn đề gì đây, thực sự vấn đề là ở chồ nào? v ấ n đề
đang tranh luận có phải là đề tài đang cần đàm phán không?”\
Và mỗi bên đều có những nhận thức khác nhau về cùng một vấn đề. Và trước hết
phải tìm xem phía đối tác trong đàm phán xem xét vấn đề như thế nào, họ nhận
thức tình thế ra sao và đâu là nhũng khả năng đưa đến kết quả của đàm phán. Và
đối tác cũng không do dự gì để trình bày quan điêm cúa họ, cách nhìn nhận sự việc
của họ và cách làm của họ như thế nào để thúc đầy cuộc thảo luận tiến tới. V à như
vậy họ mở cửa đê ta có thê nhìn nhận lại sự việc và cung cấp những yếu tố hữu ích
cho bạn khi muốn thay đôi cách nhìn nhận của họ. Họ sẽ tập trung lý lẽ vào vấn đề
cốt tử ấy để dành bằng được thắng lợi về phía họ. Bản thân chúng ta cũng nhìn
nhận về vấn đề mấu chốt đó như thế nào và sẽ quyết định lập trường đàm phán của
chúng ta. Đ iêm mây chôt được xem như điêm ăn - thua trong thương lượng nên sẽ
có thái độ mềm dẻo đê không tốn hại đến vấn đề chính.
Lập trường đàm phán. Đ ưa ra một lập trường đàm phán có thể là một chiến thuật
m uốn uy hiếp đối phương chứng tỏ sức mạnh và quyết tâm hoặc đưa ra những yêu
sách rồi sau đó hạ dần trong thưong lượng thì vừa. Và như vậy thường càng làm
cho tĩnh huống sấu hơn. V ậy phâi đổi sử ra sao khi gặp phải những đổi tượng “lên
gân” khăng khăng bám giữ lập trường lên gân của mình? Trước hết không nên
đem lập trường của ta ra đối chọi nếu người ta muốn tránh một cuộc “chiến tranh
lập trường”
Cạm bẫy của các cuộc đàm phán giả tạo. Cái này diễn ra rất nhiều ở các đàm phán
trong quản lý, giữa giới chù và công nhân. Và đè tránh hiện tượng này ta nên đưa
ra quan điêm then chốt đồng thời tìm hiểu lập trường đàm phán từ phía bên kia
thông qua các “sm all talk” (những cuộc nói chuyện nhó) hoặc những cuộc họp thu
hẹp.
Và ai cũng biết rằng đã bước vào đàm phán hay bất cứ cuộc thương lượng nào
cũng phải có nhân nhượng, chiếu cố lẫn nhau. Đây là những yếu tố sẽ góp phần
lớn việc thiết lập quan hệ giữa các bên khi bước vào đàm phán.
3. Đối tượng đàm phán với bạn.
Biết rõ người sẽ đàm phán với mình là việc làm đầu tiên trước khi bắt đầu công
việc. N gay cả đối với những người đã thân thiết từ trước hay đã gặp nhiều lần. Lao
vào đàm phán mà biết rất ít về những người sắp đàm phán với mình có thể gây nên
thất vọng, đặc biệt là những đối tượng có nên văn hóa khác nhau.
Bản sắc nghề nghiệp. Anh ta đại diện cho ai, quyền uy như thế nào? c ấ p bậc, có
dù thẩm quyền dể thương lượng với ta không? V à một diều cũng không kém phần
quan trọng đó là người ta sẽ cố tìm hiểu thể thức điều hành cuộc đàm phán của
người đối thoại. V à quá trình đi đến quyết định đổi với anh ta là như thế nào?
N hững cấm kỵ và những nghi thức phải tuân thủ trong văn hóa của người đối
thoại?
Chắc chắn không dễ gì một lúc mà biết được mọi thứ trên nhưng ta tự nhủ điều đó
dần dần sẽ phải được tìm hiếu thêm trong quá trình đàm phán. V à cái khó là nếu
không biết các cơ chế này thì chúng ta rất dễ đi đến sử sự vụng về. Và hậu quá
đàm phán co lại và đi đến bế tắc. Và như vậy người ta không tìm thấy cái đang
tìm.
Người đàm phán phải làm chủ được cảm súc của mình và của người đối thoại với
mình. Mục tiêu đầu tiên là xác lập nền tảng quan hệ nhiều mặt, đóng trước những
biếu hiện dè dặt, lấp lửng cùa người đối thoại, vô hiệu hóa thái đội nghịch thường
che giấu kỳ. Biết lắng nghe và độ lượng mới giúp bạn có được điều này.
4. Đ iều bạn thực sự mong m uốn và điều gì là quan trọng với người khác?
Có nhiều trường hợp người ta đi vào đàm phán thường che giấu những mong
muốn và nhu cầu thực một cách vô tình hay hữu ý. Thậm chí các bên đề ra rất cao
và kiên quyết đê dương cao thanh chắn và tạo nên mối tương quan lực lượng trong
đàm phán tùy thuộc vào lời lẽ cay độc và năng lực hăm dọa của người đối thoại.
Bậc thang lợi ích. Bao giờ cũng có bảng phân chia lợi ích từng vấn đề theo thứ bậc
trên dưới tùy theo mức độ quan trọng mà m ỗi bên đòi thỏa mãn. Và rất may các
bảng này ở mỗi bên lại khác nhau. Và điều quan trọng là người ta có thể phải bộc
lộ mục tiêu ưu tiên của mình hay che giấu nó đến phút cuối m à chúng ta khó biết
được, ơ đây mỗi bên đều đặt ra cho mình ngưỡng tới hạn của một vấn đề hay
vùng thỏa thuận chấp nhận được. Mà phía bên kia đáp ứng được là có thể chấp
nhận được.
5. Bạn sẽ làm gì nếu không đạt được những điều đáng kế đối với bạn?
Chúng la đều đồng ỷ rằng nếu thây trước thất bại, người ta sẽ không mấy khi bỏ
công sức để cố làm một công việc gì đó. Không biết phải làm gì nếu đàm phán
không thành công thì cũng rất nguy hiểm, vì người ta có nguy cơ phải miễn cưỡng
nhận những điều kiện ít thỏa mãn, vì không có sự lựa chọn nào khác hoặc không
dự liệu một giải pháp lùi.
Có lẽ không cần phải đàm phán khi người ta dự cảm thấy đàm phán sẽ đem lại kết
quả không mỹ mãn bắc cách làm khác, không nhất thiết phải đàm phán. Trong
đàm phán nếu thấy trước m ột kết quả là một bước lùi hay tệ hơn là phương án sẽ
đưa ra đê thương lương (gọi là BATNA = best alternative to negotiated agreement
= phương án tối ưu đem ra trao đôi) thì người ta không nên thương lượng làm gì.
Mồi bên đều có một batna riêng và dương cao nó nhằm giảm nhẹ các phương án
lựa chọn của đối phương, mục đích đê dẫn đối phương tiếp thu đề nghị của mình
đưa ra. Và bên nào cũng cổ gắng như vậy. Và tương quan này đặt ra ai sẽ mất
nhiều hơn nếu đàm phán thất bại, tạo ra các tình huống no-deal (cắt cầu) và khi hai
bên căng thăng có khi tới mức đánh bài ngửa thì khi đó có lẽ các phưưng án được
cởi mở hơn, khi đó những nhân nhượng rir hai phía dễ đặt ra hơn. Hai bên cùng
nhau ước lượng xem nếu không đi đến thòa thuận thì mỗi bên sẽ mất gì và có lẽ
đối tác của bạn cũng sẽ đồng ý?
6. Thái độ trong đàm phán.
Trong đàm phán, cách đối sử của mồi chúng ta mỗi người m ột khác, vì chúng tùy
thuộc vào những kiêu sống và tính cách của mỗi người chúng ta. Không ai tránh
được lệch lạc trong lĩnh vực quan hệ giữa cá nhân với nhau, sự đối đầu ngay cả
với người thân thiết hoặc trong gia đình, có thể sảy ra gay gắt, những lý lẽ hợp lý
nhiều lúc bị những cảm súc không họp thời che lấp và tạo nên những tình huống
sung đột. Dần đến những nhận thức sai lầm hay những hành động không kiểm soát
được. Sự lừa bịp trong đàm phán thường sảy ra trong các quan hệ xã hội, và quá
trình đàm phán chứa đựng nhiều cạm bẫy. V à che dấu thủ đoạn của mình là một
bộ phận trong đàm phán. Trong lúc này thái độ điềm tĩnh và làm chủ được mối
quan hệ thiết lập được là điều rất quan trọng đê có được quyết định đúng. Cái này
chi có được thông qua rèn luyện trong đàm phán mà có.
Thái độ ân cần có đi có lại (nhãn nhượng) là điều thiết yếu để đạt được mục đích
chủ yếu trong đàm phán. M ọi cuộc đàm phán đã chứng tỏ rằng cách ứng sử ích kỷ
hay cạnh tranh đều ít đe lại sự thỏa mãn lâu dài cho cả hai phía. Cuộc đàm phán có
đi có lại làm điều kiện cho sự phát triển tốt và tính vững bền của mối quan hệ tin
cậy lẫn nhau. V ào lúc thích hợp người ta có thế không chấp nhận bất kỳ thủ đoạn
nào gây mất ổn định trong đàm phán, và tố cáo ngay khi chúng xuất hiện. M ột thái
độ ân cận phải chăng là phương tiện truyền tải tình cảm tốt nhât?
7. Ket thúc thương lượng.
Sau các quá trình thương thảo và nhân nhượng lẫn nhau. Và có khi trong đàm
phán người ta cố gắng đáp ứng nhu cầu chủ yếu của đối phương bằng cách nào đó
để dành được sự nhân nhượng hay một sự thỏa ước theo yêu cầu chủ yếu của
mình. Và khi đó đàm phán đi đến bước ký kết, cam kết các thỏa thuận đã đạt được.
Trường họp không thỏa thuận được chủ yếu là do m ột trong hai phía không thỏa
mãn được các mục tiêu cúa mình và tin rằng phía đối tác có thế cố gắng hơn nữa.
M em dẻo trong mối quan hệ. Đôi khi Irong đàm phán sự cứng rắn trong lập trường
của phía đối phương gây ra nhiều căng thắng thậm chí bế tắc. Khi đó có thê chúng
ta đưa ra một lời khước từ một cách từ tốn rằng “có lẽ có trục trặc gì đó và tôi sẵn
sàng xem sét lại đầu đuôi sự việc, nhưng tôi không chấp nhận sự đe dọa cũng như
anh khỏi cần khởi kiện” . N hưng sau khi lấy lại bình tĩnh bạn có thể chứng tỏ mình
mềm dẻo bằng những quan hệ khiêm nhường, nhã nhặn, thanh thản và có tình thần
xây dựng.
Vai trò của người đi đàm phán là đạt mục tiêu đề ra. Dù mục tiêu đó có đạt được
m ột phần cũng do người đối thoại với mình, c ầ n kiềm chế tính hung hăng gây gố
của người đối thoại nhằm vào cá nhân bạn. Mà nguyên nhân gây ra tính hung hăng
cũng có thê do chính sự vụng vê từ phía bản thân bạn thê hiện qua câu nói, hay
những nguyên nhân khác mà bạn chưa biết. V à nếu căng thẳng tồn tại và diễn ra
giai dăng thì cách tốt nhất là nên tránh đi chỗ khác, tạm hoãn đến thời điểm dịu
bớt đê tiếp tục.
Điêm cuối cùng cần nhắc lại trong một đàm phán bền vừng và phát triên là một
cuộc đàm phán mà trong đó có sự nhân nhượng giữa các bên, đạt được đa số các
nhu cầu chủ yếu của mỗi bên. Đó mới là một đàm phán thành công.
Nghệ thuật đàm phán - Phân 2
Đàm phán trong quản lý. Trong quán lý luôn sảy ra các cuộc thương lượng cá
trong nội bộ lẫn công tác đối ngoại. N ếu bạn làm chủ được các tình huống trong
cuộc thương lượng lợi thế sẽ thuộc về bạn.
Bài viết mô tả một số tình huống cụ thc hy vọng giúp ích cho các bạn cả khi bạn là
nhân viên cũng như khi bạn là lãnh đạo. N hững ví dụ điền hình về đàm phán trong
quán lý.
- Trong m ột cuộc thương lượng tuyên dụng sảy ra giữa nhà tuyên dụng và ứng
viên, mỗi bên luôn có nhũng mục tiêu khác nhau được xem là những điểm mấu
chốt của mình. M ột bên thỏa mãn nguyện vọng cá nhân và một bên về bản chất là
đám bảo lợi ích cho công ty.
Trường họp của Huy một kỳ sư mới ra trường, đến xin việc làm tại m ột công ty
mà anh la cho là rấl hấp dần đối với anh. Sau nhiều cố gắng kiên nhẫn anh la mới
được nhà tuyển dụng của C ông ty mời đến phỏng vấn. v ấ n đề mấu chốt để thương
lượng đối với anh ta đương nhiên là làm sao được nhận vào làm trong một công ty
nôi tiếng, coi như bước khởi nghiệp quan trọng đê vươn tới tương lai đầy hứa hen.
Còn đối với ông trưởng phòng tuyển dụng thì đây chỉ là cuộc tiếp xúc thông
thường để tìm nhân viên mới, dù bằng tốt nghiệp của Huy được đặc biệt đánh giá
cao. M ấu chốt cùa nhà tuyển dụng là tuyển được một nhân viên có năng lực khá,
tiềm năng dồi dào. Và hai bên đều có những phạm vi sử dụng thời gian khác nhau,
người đến xin việc đã m ất nhiều thời gian để được mời đến thưưng lượng về các
điều kiện nhận vào làm dưới hình thức một cuộc phỏng vấn tuyển dụng, nên
không thê có nhiều thời gian chờ đợi, còn bên kia, người tuyển dụng không vội vã
gì, không bị áp lực về thời gian như người đến xin việc. Và nếu những điểm mấu
chốt quyết định trong cuộc thương lượng này không tương hợp với nhau nghĩa là
không tìm được đicm chung nào, cuộc nói chuyện dưới dạng phong vấn tuyển
dụng sẽ chấm dứt ngay mà không đem lại kết quả nào cho mỗi bên. Trong trường
họp ngược lại cuộc thương lượng có thê khai thông bằng m ột giái pháp có thê
chấp nhận được nếu hai bên bình tĩnh trao đôi với nhau về nhận thức, so sánh các
điểm mấu chốt tương ứng, và nhận ra rằng những điềm ấy không phải là không
tương họp với nhau. M ỗi bên có thể điều chỉnh những đòi hởi của mình, vừa phù
hợp với mục tiêu cùa mình vừa không đi ngược với mục tiêu của bên kia. Nhận
thức tầm quan trọng của các đièm mấu chốt quyết định cách ứng sứ của mỗi bên
trong thương lượng.
Trong trường hợp này điều nổi bật là bên xin việc cần nêu bật được thế mạnh của
mình có phù họp với nhu câu cần tuyển cúa công ty hay không. N cu cuộc nói
chuyện về chuyên môn đi đến các kết quả tốt khi đó bạn mới đưa ra được những
yêu sách cơ bản cho bàn nhân như chế độ đãi ngô, mức lương. . . Còn đối với nhà
tuyển dụng nếu ứng viên đạt được về chuyên môn thì mới đi tiếp tới nhu cầu cùa
ứng viên và cân nhắc các điều kiện của công ty để đưa ra một quyết định phù hợp.
Tuy nhiên chú ý hai bên tuyệt đối đưa ra những cuộc chiến lập trường “nêu ra và
bảo thủ về điểm mấu chốt của m ình” , bên nào cũng đưa ra điều kiện tiên quyết
một cách quyết liệt khiến bên kia phải bỏ dở đàm phán.
- Trong m ột ví dụ khác mô tả về sự đối lập giữa hai bên, giới chủ và công nhân đê
các bạn thấy được và có nên lao vào m ột cuộc chiến “lập trường” hay không.
Trong một xí nghiệp sản xuất công nghiệp làm ăn có lãi, lợi tức tùy thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó có giá nguyên liệu đầu vào. Trong nhiều năm lợi tức lăng
cao, công đoàn và các tổ chức đại diện quyền lợi công nhân đứng lên đòi hỏi phân
phối lại lợi nhuận bằng cách tăng tiền thưởng phụ trợ và đe dọa đình công nếu yêu
sách của họ không được thỏa mãn. Và quan hệ chủ - thợ thay đổi tùy theo hoàn
cảnh có thể trở nên căng thắng và nghi ngờ lẫn nhau mặc dù tình hình tài chính
trong xí nghiệp vần sáng sủa. Nhà máy tiếp tục nồ lực tăng mức sản xuất theo
chương trình định hướng nhiều năm.
Nhân dịp có cuộc họp hàng nă giữa chù và thợ thương lượng về lương và việc làm,
ban lãnh đạo nhà máy có ý định cải tiến hệ thống trả lương, theo đó sẽ áp dụng
một tỉ lệ tăng lương thay đổi gắn với kết quả sản xuất, tuy nhiên giàm mức lương
tối thiểu. C ả hai bên đi vào chuẩn bị đàm phán và cuộc thảo luận sẽ tập trung vào
các tỉ lệ tăng lương.
Phía công đoàn đưa ra lập trường nhir mọi năm: Theo thông lệ đã thành truyên
thống khi bàn về tỳ lệ tăng lương hàng năm, hai bên lấy 5% làm cơ sở thảo luận,
nhưng rồi quá trình tranh cãi khá gay go, hai bên đi đến thỏa thuận ở mức 2% 3%. Hai bên trao đôi quan điềm của nhau và thủ đoạn quen thuộc phía công đoàn
là dọa đình công.
Ban lãnh đạo xí nghiệp không tránh né thào luận, đề xuất một chính sách trả lương
mới, thực hiện trong nhiều năm, là xác định phần thu nhập của tất cả các công
nhân viên chức trong xí nghiệp phù hợp với kết quả sản xuất của xí nghiệp. Vận
dụng nguyên tắc này, ban lãnh đạo xí nghiệp đã đưa các công đoàn đến chồ thảo
luận một thay đổi cơ bản trong cách trá lương ở giai đoạn quá độ, kèm theo một
vài bảo đảm.
Cách thay đổi lập trường đàm phán về tỷ lệ tăng lương hàng năm bằng việc đưa ra
một chính sách trả lương mới do sáng kiến cùa ban lãnh đạo xí nghiệp đã đưa cuộc
thảo luận không chỉ tập trung vào việc thảo luận tỷ lệ tăng lương hàng năm mà bàn
về thê thức áp dụng cách trả lương mới trong giai đoạn quá độ kéo dài trên một số
năm. Việc chuyến hướng nội dung đàm phán đã khiến cho các bẽn đều hài lồng ở
mức độ cao hơn dự kiến ban đầu.
Vậy đê tránh một cuộc chiến lập trường người ta bằng nhiều cách làm soay chuyên
tình thế nhằm tạo điều kiện hợp tác giữa các bên đàm phán.
- Khi nào nên thương lượng? Có lẽ không cần phải đàm phán khi người ta dự cảm
thấy đàm phán sẽ m ang lại kết quả không mỹ mãn bằng làm cách khác. Ví dụ nêu
vê một cuộc tranh châp với nhân viên kiêm soát không lưu Hoa Kỳ mà nó đã kéo
dài 20 năm để minh họa luận điểm trên.
Bước chân vào Nhà Trắng sau một chiến dịch tuyển cử tập trung xung quanh vấn
đề giảm thâm hụt ngân sách và kiềm chế chi tiêu công cộng, tỷ lệ lạm phát lúc này
là 12% - 13%, tổng thống mới đắc cử Ronald Reagan, thấy trên bàn giấy một bán
thinh cầu mở ngay cuộc thương lượng về lương bổng do tổ chức công đoàn của
16.000 kiểm soát viên không lưu ơ Hoa Kỳ. Lập trường của công đoàn đưa ra kèm
theo dọa bãi công. M ức yêu sách là tăng lương 16%. N gười đứng đầu nền hành
pháp của Hoa Kỳ tức Tổng Thống đứng trước một tình thế phải chọn íựa giữa hai
ngả đường. Hoặc là tiếp nhận thương lượng, như vậy phái chuẩn bị nhượng bộ tối
thiêu cũng sẽ gây nguy cơ cho chính sách đã hứa với cử tri là kìm hãm chi tiêu
ngân sách, hoặc là từ chối thưưng lượng và chấp nhận nguy cơ sẽ có bãi công làm
tê liệt thông thương bằng đường hàng không và do đó sẽ gây hậu quả nghiêm
trọng cho nền kinh tế. Xem xét những khả năng phát triển cúa tình thế Tổng
Thống Hoa Kỳ hỏi ỷ kiến các cố vấn của ông và yêu cầu họ đưa ra các phương án
để lựa chọn, tức là những hành động đối phó nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế toàn cầu
Irong trường hợp buộc phải từ chối yêu sách của công đoàn.
Các cố vấn thì chủ trương rằng nếu các kiểm soát viên không lưu bãi công, họ sẽ
điều động sáu nghìn nhân viên quân sự thành thạo đế thay thế, dư sức bảo đảm
thông thương bằng đương không Mỹ trong nhiều tuần.
Tống thống Hoa K ỳ bèn gợi ý cho công đoàn hãy hoãn yêu sách của họ cho đến
khi nào tình hình kinh tế sáng sủa hơn. Công đoàn từ chổi. Tổng thống liền tiết lộ
phương án lựa chọn của ông nhưng đã gây ra sự phản ứng nghi ngờ của công đoàn
“Ngài không đùa đấy chứ? Sáu nghìn quân nhân (1Ù thành thạo cũng không thê
thay thế mười sáu nghìn nhân viên dân sự chúng tôi đâu, điều này nguy hiồm lắm
đấy” Làm như thế công đoàn muốn Tổng Thống giảm lòng tin đối với phương án
của mình. Ông ta đã tin rằng giải pháp đó là hữu hiệu lắm và có tác dụng răn đe.
Trước mắt người ta cố chứng minh cho tống thống rằng phương án ấy chứa đựng
nhiều nguy cơ nếu đem ra thực hiện sẽ làm đảo lộn việc điều hành nền hành chính
quốc gia.
Ở đây nếu Tổng thống có bước nhân nhượng nghĩa là phải tăng lương cho kiêm
soát viên không lưu, như thế chắc chắn nhân viên các cơ quan khác sẽ theo nhau
đòi tăng lương. Trong khi cân phải kiêm soát nghiêm ngặt chi tiêu ngân sách, và
batna cua chính phú là đưa 6000 quân nhân vào thay thế. Tuy nhiên công đoàn
cũng tin tường ở batna của mình, tức là tổ chức bãi công vì tin là chính quyền
không đời nào để sảy ra tê liệt thông thương hàng không. Mồi bên đều tin tướng ở
khả năng răn đe của batna. K et quả là bên nào cũng lên gân không ai chịu nhượng
bộ ai. Cuộc xung đột là điều khó tránh khỏi vì bên nào cũng thực hiện sự đe dọa
của m ình đối với đối phương. Và kết quả là đình công sảy ra và quân đội vào
cuộc. Vài tuần sau đó, không chịu nổi mất việc, đa số kiêm soát viên dân sự phải
trở lại làm việc một cách vô điều kiện. Và phía công đoàn đã thất bại.
Ớ một cách nhìn nhận khác chúng ta cũng thấy nêu mồi bên đều lên gân đến lập
trường riêng của mình thì m ột điều chắc chắn một cuộc chiến tranh lập trường no
ra và đều không có lợi cho cả hai phía. M ột cuộc thương lượng có sự nhân nhượng
sẽ đem đến một kết quà khá hơn. Và cuối cùng khi đàm phán thất bại thì cũng rất
nguy hiêm , người ta có nguy cơ phải miễn cưỡng nhận những điều kiện ít thỏa
mãn vì không có sự lựa chọn nào khác hoặc không dự liệu một giái pháp lùi.
- M ột ví dụ khác nói về ảnh hưởng văn hóa tới đàm phán đặc biệt là đàm phán
ngoại giao giữa các tổ chức. Điều này đặc biệt sẽ được phân tích kỳ đàm phán
trong kinh doanh ờ kỳ 3. Tuy nhiên trong công tác quản lý cũng đặc biệt chú trọng
và đánh giá cao.
N gày 9 tháng 3 năm 1999, M axime Granier, chủ tịch hội đồng quản trị Công ty
vấn quản trị kinh doanh châu Âu SECM A, ông đã gặp m ột bất ngờ dễ chịu khi ông
đã đàm phán 18 tháng với công ty quốc doanh LIA O SU N SO E của Trung Quốc
trong lĩnh vực tuyển dụng, đào tạo cán bộ và tư vấn về quản lý nguồn nhân lực.
G ranier đã thấy trong lĩnh vực này Trung Quốc đã có tiềm năng rất lớn và đã tiếp
xúc với m ột đối tác đê thành lập liên doanh có nhiệm vụ đào tạo cấp tốc kỹ sư, nhà
kinh tế và các loại cán bộ khác nhằm đảm đương các chức năng quản lý trong
hàng trăm công ty liên doanh mới giữa các nhà đầu tư châu Âu và Trung Quốc. Và
trong một năm rưỡi qua quá trình thương lượng thì giống như một điệu nhảy
Tango, một bước tiên, hai bước lùi, khi thì giống như chiếc máy kéo lồng lên bất
ngờ tiến rất nhanh rồi lại đột ngột dừng lại rất lâu. Người ta đàm phán về rất nhiều
mặt về chức danh, về điều kiện liên d a n h .. . các cuộc tranh cãi rất lâu và cuối cùng
được hai bên chấp nhận. Cuộc đàm phán cấp trung ương và thành phố được tiến
hành với phía Trung Ọuốc có vẻ như đã thành công và rất nhiều giấy phép cần
thiết sẽ được trao đến nơi. V ậy mà trong 6 tháng qua, ba lần việc tuyên bố khai
trương liên doanh SECM A - Trung Quốc đã bị phía trung quốc hoãn đi hoãn lại
nhiều lần. V à đã có lúc mọi việc tưởng như gần xong chỉ còn “tuyên bố khai
trương” nhưng trên thực tế đã sắp mất hy vọng và kiên nhẫn. Đột nhiên ngày 9
tháng 3 ông chủ tịch LIA O SU N là Wu Jian X in thông báo ông ta quyết định công
bố khai trương liên doanh.
Quá trình ra quyết định ở Trung Quốc diễn ra rất mù mờ, nhất là khi người Trung
Quốc quan hệ với người nước ngoài chừng nào họ chưa tin vào thiện chí dài hạn
của người nước ngoài, vào tính lâu bền của những cam kết của người nước ngoài
cũng như tính vừng chắc của các mối quan hệ với người nước ngoài. Trong quá
trình đàm phán người Trung Quốc để thời gian dài để xem những thông số căn bản
đó đúng đắn đến đâu trước khi cam kết bất cứ việc gì. Họ có nhận thức sâu sắc
rằng thời gian quỷ báo đối với bạn hơn là đối với chính họ. Họ thường thư thách
lòng kiên nhẫn của bạn song cũng biết dùng lại trước khi đây bạn vào chỗ phải cố
thử lần cối cùng đê tránh nguy cơ đổ vỡ. . .
Sự khác nhau giữa các nên văn hoa đưa ra các phương cách ứng sử khác nhau.
Người Anglo - Saxon thường cho người pháp và La tinh trong buôn bán thường
để cảm xúc xen quá nhiều vào công việc. N hưng cám súc nói liên giọng điệu chủ
yếu của hoạt động con người. V à trong cuộc đàm phán thường thể hiện các nghi
thức văn hóa của mồi bên, nếu bạn là người không hiểu về văn hóa cúa đổi tác thì
đôi thi bạn sẽ nhận được những thất bại ngó' ngấn.
- Trong những cuộc thương lượng nhiều bên thì đàm phán càng khó khăn bởi
những ý muốn khác nhau của mỗi đối tác. N hững cuộc đàm phán nhiều bên trên
nhiều vấn đề cũng là những cuộc thương lượng nhiều giai đoạn, xen kẽ các cuộc
họp toàn thể nhiều bên với các cuộc họp hẹp (small talk) hai, ba bên cho phép sử
dụng m ọi nguồn lực trên nhiều phạm vi quá trình thương lượng, nhất là trong các
cuộc họp riêng giữa hai bên.
Khi m ột trưởng dự án tiến hành hiệp thương về việc lắp đặt thêm một phân xưởng
sán xuất trong địa bàn xí nghiệp, anh ta buộc phải thương lượng với nhiều đổi
tượng khác nhau, có những m ối quan tâm khác nhau, như cơ quan chính quyền các
cấp địa phương, các cơ quan bảo vệ môi trường, các tổ chức công đoàn chuyên
tr á c h .. . Ngoài ra anh ta còn phải thương lượng với các ban, ngành trong nội bộ xí
nghiệp như: tài chính, sản xuất, hậu cần, mỗi ban nghành có nhận thức, cảm nhận,
đòi hỏi khác nhau, xuất phát từ những nguồn gốc văn hóa khác nhau.
N hưng một dự án bao giờ cũng bao gồm nhiều bộ phận hợp thành: công nghiệp,
tài chính, xã hội, mỏi trường. Vậy đó là m ột cuộc thào luận về nhiều đề tài khác
nhau. M ồi bên tham dự có mục tiêu, nghĩa vụ, ưu tiên khác nhau, trình độ hiếu
biết, mức độ liên can khác nhau. N hững người lo bảo vệ môi trường có thê không
quan tâm đến các vấn đề xã hội trong khi với các tổ chức công đoàn và chính
quyên các câp ở địa phương thì vân đê xã hội, như việc làm cho dân địa phương,
vấn đề ăn, ở, đi lại chồ học cho các cháu nhỏ, nơi khám và chừa bệnh v.v. . . lại là
những đề tài chủ yếu. Các liên minh, tự nhiên và tình thế đươc hình thành, củng
cổ, m ớ rộng thành phần rồi giải thể để thành lập liên minh mới tùy tình hình.
M ục tiêu cúa người trưởng dự án tổ chức thương lượng, hiệp thương với nhiều đối
tượng là phải tìm hiểu kỳ từng thành phần tham dự, nham đạt được mục tiêu gì là
chủ yếu, đâu là mối quan tâm chung của toàn thể cuộc họp đê đưa các đề nghị
thích hợp không thê bị bên này hay bên kia bác bỏ. Đê làm được điêu đó, anh ta
tiến hành thăm dò, gợi ỷ với mỗi bên nghiên cứu, chọn lựa, dung hòa các phương
án khác nhau cho toàn bộ vấn đề cũng như cho từng vấn đề, cho từng lĩnh vực
riêng.
Thay vì đặt câu hởi cho các bên tham gia đàm phán: “bạn cho biết yêu cầu của bạn
đê biêt bạn có thê tán đông dự án của chúng tôi không”, người trưởng dự án sẽ tìm
cách xác định đâu là những phương án được nhiều người tán đồng nhất trong một
bảng thống kê các phương án lựa chọn do anh ta lập ra. Và qua đó anh ta cũng biết
phương án nào bị phản đối nhiều nhất và những nguyên nhân cơ bản dẫn đến điều
đó. Q ua những phương án được tán thành người ta biết được nhu cầu chủ yếu của
mỗi bên và đưa ra lựa chọn cuối cùng. Và việc phân công công việc cho từng
nhóm cụ thể cũng giúp cho việc thúc đẩy đàm phán nhanh chóng đi đến thỏa ước,
ký kết.
Và cuối cùng đúng như người ta nói ngay từ lúc khởi đầu đàm phán “Chúng ta
cùng nhau thúc đây quá trình này, không dừng lại ở những điềm khác biệt giữa
chúng ta. Chúng ta sẽ trở nên quen thân hơn, chúng ta là những đối tác của nhau,
đồng thời phát triển mối quan hệ đó” đó chính là quá trình học hỏi lẫn nhau của
đàm phán.
Tham khảo: ( sách N ghệ thuật đàm phán) M aurice A .bercoff
Kỳ sau của chủ đề nghệ thuật đàm phán sẽ phân tích về đàm phán trong kinh
doanh. N hững thiết yếu và là yếu tố quan trọng đem lại lợi ích cho các bên.
- Xem thêm -