PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KIM ĐỘNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỨC HỢP
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC
Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích Loan
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: trường tiểu học Đức Hợp-Kim Động – Hưng Yên
NĂM HỌC: 2012 - 2013
0
*******@*******
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I
TRANG
2
.
L
y
d
o
c
h
ọ
n
s
á
n
g
k
i
ê
n
1
.
L
ý
1
d
o
k
h
á
c
h
q
u
a
n
2. Lý do chủ quan
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở ly luận
1. Cơ sở pháp lí
2. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
1.Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy và học
III. Một số biện pháp ứng dụng CNTT trong dạy học
1. Biện pháp 1
2. Biện pháp 2
3. Biện pháp 3
19
4
.
B
i
ệ
n
p
h
2
4
6
6
6
6
7
7
8
9
11
11
14
17
á
p
4
5. Biện pháp 5
6. Biện pháp 6
21
24
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm
2. Điều kiện áp dụng
3. Hướng tiếp tục nghiên cứu
4. Đề xuất kiến nghị
26
26
26
17
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Ly do chọn sáng kiến
1. Ly do khách quan
1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những
thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội nhập với thế
giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách
học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Với xu thế thay đổi mô
hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường học phải thay đổi môi trường giáo dục.
Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung vào việc tạp lập một
môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại
sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi
giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông
tin chính là cốt lõi của phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt
lõi trên, công nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu.
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
3
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ thông tin
&Truyền thông (ICT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email
mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),
…
Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
tập và thi cử.
Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến
công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa
và tầm quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những
yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh
tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
4
vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không
nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới
“xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
bất cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng
dạy.
2. Ly do chủ quan
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng
5
hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả
đúng với vai trò của nó.
Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành.
Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn
cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về
phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là
việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên,
còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý
giáo dục tại các trường tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh
dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện pháp Ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học”.
6
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
1. Cơ sở pháp ly
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. Chỉ thị
29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một
bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như
một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất
cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn
mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay
đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông
giai đoạn 2005 - 2010 của ngành.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng CNTT
vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”.
2. Cơ sở ly luận
7
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
nước.
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các
giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát
hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
8
với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
thanh sinh động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
hiện dạy ứng dụng CNTT. Một số tiết dạy có ứng dụng CNTT thì thường trình chiếu
nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt
mỏi, kém tích cực. Còn một số tiết dạy thì nội dung không nhất thiết phải trình chiếu
cũng thể hiện lên, chưa chắt lọc được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để
hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc chưa biết khai
thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat, . . .
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng
máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng
dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
được trang bị một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng trong công tác
lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta
đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn
của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
9
mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như:
Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức v.v...
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử
dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập
huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet,... thường được các giáo viên tham gia rất
đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng
phần mềm. Đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy
bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học,... Trên thị trường có thể dễ
dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất
nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung song sự giao tiếp giữa máy với người
chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò...
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
giáo viên trong việc giảng dạy...
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT
trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
10
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT
vào dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho
giáo viên, lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình l ớp h ọc
cũ. Còn một bên là hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học l àm trung tâm,
trong khi giáo viên chỉ là người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị
nhầm lẫn 2 khái niệm này, trong đó có không ít các chuyên gia giáo d ục, nên
nhiều khi dẫn đến những sai lầm trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi s ẽ
phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và E-learning để có th ể
hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên làm gì trong giai đo ạn hi ện
nay.
CBT
E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
trên những hình thức cơ bản của một hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác
lớp học thông thường
được tối đa sức mạnh của thế giới
Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
thể 1 bài giảng hàng triệu người học),
hay có khả năng cập nhật các thông tin
mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
11
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
học phải là một phòng máy tính nối
mạng Internet, mỗi học sinh và giáo
viên phải có máy tính riêng và những
phần mềm chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp dạy Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
học truyền thống (dựa trên giao tiếp điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
thầy-trò) và khai thác được những ưu trò.
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
là ở giáo dục phổ thông, giáo viên đại học và những người đã đi làm.
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để
làm chủ được quá trình học tập của
mình.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
như dùng Powerpoint, Violet để thiết có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
kế bài giảng và dạy học dùng máy phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần
chiếu. Những kết quả thu được là rất Thơ,...
đáng kể.
III. Một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học
1. Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ
bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường.
Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ
biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học
12
và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy
đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực
sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với
cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
-
Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
-
Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán :
Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, …..)
-
Biết cách truy cập Internet.
-
Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các
ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
-
Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay
không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà
các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được
các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các
bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử
tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ
có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ
có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách
Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi
không dùng nữa?..... Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính
theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình
bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên
màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần
mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003, hiện nay đã có
PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy
tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ), GraphCalc
13
(Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) …..Nếu chỉ
dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định
dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy
nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của
PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc
đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ: với
môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên thuật lại
các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn
các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào…
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho
bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các
hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh, ..) được
thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ
hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng
chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên
(GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay
PowerPoint hay Violet sẽ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên
màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời
tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời
gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho
thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh
họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình
ảnh của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên thế giới,……
Nếu chỉ trình bày xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy giáo án điện tử.
Hiện tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên
tương đối nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đều đã có mạng Internet , tôi
nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm,
14
hình ảnh, đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng
cả. Điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để
lấy thông tin. Tuy nhiên không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà
những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh),
chụp ảnh và chỉnh sửa ảnh …. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu
quả thì mỗi GV cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy
chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ
có một tiết học thoải mái và sôi động.
Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một
không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe
giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
thuật đã được đề cập là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể
thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.
2. Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài
giảng ứng dụng Công nghệ thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt
ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng
thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng dụng
CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường mang một tư
tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày những gì mình
nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế
giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài.
15
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.
Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa
một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học
của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên
nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí
nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu
ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề
mình muồn trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ
giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu
chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem
slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng
vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên. Chúng ta
hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng
là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ
chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần
được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và
giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới ra trường có thể nhớ
hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế
hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên
bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào
cần trình bày sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ
lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay
đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp
đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt
hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy này.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
16
Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT
thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh
trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học
sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn
chiếu. Do đó để học sinh có thể quan sát được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo
viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức
sau:
- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình
diễn.
- Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập
trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng
chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược
lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
- Về Font chữ:
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục
có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn chế
dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
- Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho
nhiều người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.
- Về trình bày nội dung trên nền hình:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái
qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp
(thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu
lên màn. Các dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn
cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh.
17
Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì
cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta
mong muốn.
- Trình chiếu giáo án:
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung
trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân
đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội
dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích
hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ
ghi nhớ hơn.
* Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu,
nội dung, tiến trình bài giảng.
- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính
tích cực của học sinh.
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định,
có tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu
nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
3. Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài
giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin
Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử
dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu
(projector),... Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ
dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền
thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,...) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video...). Hơn
18
nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả
hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể
diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả
được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có
thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa
trên giao tiếp thầy - trò, chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác, vì giáo viên
là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được
những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các
tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp
dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách duy
nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các bài
giảng cho riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành
thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm
các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét...
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng
trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình
ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh
sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên
tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v...
đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả
những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên
nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
19
- Xem thêm -