Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 đến 6 tu...

Tài liệu Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 đến 6 tuổi ở trường mầm non hùng vương

.DOCX
39
8790
154

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. “Chăm sóc sức khỏe ban đầu là chìa khóa để toàn thể các dân tộc trên thế giới vào năm 2010 đạt được một trình độ cho phép họ sống một cuộc sống phong phú về mặt xã hội và kinh tế”. (Tuyên ngôn Alma - Ata 1978)[1] Trẻ em là nguồn hạnh phúc to lớn của gia đình, là tương lai của mỗi quốc gia dân tộc. Vì vậy, việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em đã trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm của toàn xã hội, là mối quan tâm hàng đầu, là trung tâm chú ý của nhiều ngành khoa học, của các nhà nghiên cứu trẻ em trên nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay ở Việt Nam, việc quan tâm, chăm sóc đến trẻ em đã được đề cập trong điều 21,22 Luật giáo dục (2005) đã xác định nhiệm vụ và mục tiêu của giáo dục mầm non “Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi” , “ Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một”.[9] Có thể cho rằng, giáo dục mầm non sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển nhân cách con người. Vì vậy, vấn đề đặt ra trong lứa tuổi này là phải quan tâm đầy đủ đến giáo dục thể chất trí tuệ và tinh thần cho trẻ như C.Mác đã từng khẳng định: “Việc kết hợp giáo dục, trí tuệ và thể chất không chỉ là một phương tiện tăng thêm sản xuất xã hội mà con là phương tiện duy nhất để phát triển con người toàn diện”.[2] Cơ thể trẻ đang trên đường hoàn thiện và phát triển, vì thế sức đề kháng, sự dẻo dai của cơ thể còn yếu. Trong các mặt giáo dục trẻ thì việc giáo dục thể chất phải là nhiệm vụ cơ bản, trọng yếu, phải được tiến hành thường xuyên, mạnh mẽ, toàn diện dưới sự quan tâm, là tránh nhiệm của toàn xã hội. 1 Ở lứa tuổi này cần hình thành kỹ xảo và thói quen vệ sinh, tổ chức chế độ ăn uống hợp lý, đảm bảo ngủ ngon, phát triển các kỹ năng vận động,…[8]. Như vậy, một trong những biện pháp nâng cao thể lực cho trẻ là đảm bảo giấc ngủ cho trẻ. Giấc ngủ là một hiện tượng sinh lý, là một nhu cầu hết sức tự nhiên và chính đáng của con người. Giấc ngủ là một hiện tượng ức chế mang tính chất phòng chống hay bảo vệ tế bào thần kinh trên vỏ não. Một giấc ngủ sâu, đủ độ dài là phương tiện cơ bản ngăn ngừa tình trạng quá mệt mỏi của hệ thần kinh và của cơ thể. Những đứa trẻ ngủ theo qui luật bình thường, ngủ đủ thời gian, ngủ ngon giấc thì tinh thần luôn sảng khoái, phát triển tốt. Còn những trẻ ngủ bất thường, ngủ ít thì sự mệt mỏi thái quá càng dồn lại và sự hưng phấn xúc cảm tiêu cực càng dễ phát sinh, điều đó thường thể hiện ở sự trái tính trái nết của đứa trẻ. Giấc ngủ tốt vừa là một trong những điều kiện căn bản, vừa là một trong những dấu hiệu của sức khỏe trẻ em. Ở trẻ 5-6 tuổi, nhu cầu ngủ còn lớn hơn (12giờ/ngày), và giấc ngủ thường diễn ra vào 2 thời điểm: ngày và đêm. Vai trò của hai giấc ngủ này rất quan trọng. Thời gian dành cho giấc ngủ trưa tuy chỉ chiếm một lượng nhỏ, bằng 1/5 thời gian giấc ngủ đêm, song nó lại mang một ý nghĩa đặc biệt đối với cơ thể. Giấc ngủ trưa có tác dụng làm giảm bớt sự mệt mỏi do hoạt động khôi phục lại tinh thần sức lực sau 1/2 ngày làm việc . Nhờ ngủ trưa như một bước đệm, một quá trình chuyển tiếp mà các cơ quan nội tạng của trẻ được nghỉ ngơi một cách đầy đủ, tạo điều kiện tốt cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cơ thể, giúp trẻ thực hiện tốt các hoạt động trong chế độ sinh hoạt tiếp theo của một ngày. Vì vậy, việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ ở trường mầm non là đáp ứng một nhu cầu hết sức tự nhiên và chính đáng của trẻ. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng của cô giáo mầm non góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. 2 Nhưng trên thực tế trong các trường mầm non, việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ còn gặp nhiều khó khăn: khó khăn về cơ sở vật chất, khó khăn về số lượng trẻ, cá nhân trẻ hiếu động, khó ngủ, giáo viên quá bận rộn…nên giấc ngủ trưa của trẻ chưa đạt hiệu quả cao. Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương thị xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích nghiên cứu: Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu. 3.1. Đối tượng nghiên cứu Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. 3.2. Khách thể nghiên cứu. Giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 4.1. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài. 4.2. Tìm hiểu thực trạng ngủ trưa của trẻ và phát hiện một số nguyên nhân làm ảnh hưởng đến giấc ngủ trưa của trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non. 4.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức góp phần nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non. 5. Giả thuyết khoa học. Hiệu quả giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non có thể được nâng cao nếu trong quá trình tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ, các cô giáo mẫu giáo tiến hành đồng bộ một số biện pháp sau: cho trẻ tích cực tham gia vào 3 các hoạt động trong chế độ sinh hoạt từ lúc đón trẻ đến giờ ngủ trưa; chuẩn bị giấc ngủ cho trẻ để loại trừ các tác nhân kích thích có ảnh hưởng đến giấc ngủ trưa của trẻ; hàng ngày cho trẻ ngủ đúng giờ. 6. Phạm vi nghiên cứu. Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài, tôi xin chỉ đề cập đến một số biện pháp tổ chức nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Hùng Vương thị xã Phúc Yên - tỉnh Vĩnh Phúc. 7. Phương pháp nghiên cứu. 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận. Đọc, phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài để làm cơ sở lý luận của đề tài như: đặc điểm của hệ thần kinh trẻ, các qui luật của quá trình thần kinh, khái niệm giấc ngủ, các thuyết về giấc ngủ, những điều kiện làm xuất hiện và khuyếch tán ức chế ngủ, các giai đoạn chuyển từ thức sang ngủ, những đặc điểm đặc trưng của giấc ngủ, nhu cầu về thời gian ngủ của trẻ, ý nghĩa của giấc ngủ đối với sự phát triển thể lực của trẻ. 7.2. Phương pháp quan sát. Quan sát giấc ngủ trưa của trẻ và cách tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ của giáo viên. 7.3. Phương pháp điều tra. Sử dụng phiếu thăm dò đối với giáo viên về vấn đề liên quan đến giấc ngủ cho trẻ. 7.4. Phương pháp thực nghiệm. Áp dụng một số biện pháp tổ chức nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. 7.5. Phương pháp thống kê toán học. Thu thập, xử lý và phân tích số liệu nghiên cứu. 4 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1. Lược sử nghiên cứu vấn đề. 1.1. Những nghiên cứu trên thế giới. Việc nghiên cứu một cách khoa học về giấc ngủ đã được bắt đầu từ giữ thế kỷ XIX với những nghiên cứu về lý thuyết của giấc ngủ. Trong đó có lý thuyết vỏ não của I.P.Paplôp mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Theo kết quả của một nghiên cứu của Viện sức khỏe quốc gia Mỹ (NIH) thì những đứa trẻ ngủ đủ thời gian mỗi ngày sẽ ít bị béo phì, ít bị tai nạn bất thường, có tâm trạng vui vẻ thoải mái và kết quả học tập tốt hơn. Những đứa trẻ ngủ ít thuờng bị hiếu động thái quá, thiếu tập trung tư tưởng trong học tập, hay cáu kỉnh vô cớ và đôi khi có biểu hiện rối loạn hành vi. Ông Carl Hunt - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu về rối loạn giấc ngủ thuộc NIH còn khẳng định: “Bất kể làm việc gì trẻ em cũng sẽ làm tốt hơn nếu chúng có một giấc ngủ tổt”. NIH khuyên nên cho trẻ ngủ nhiều hơn, đồng thời cung cấp nhiều thông tin để trẻ ngủ ngon hơn như: không nuôi động vật trong phòng ngủ, trước lúc đi ngủ không nên xem ti vi, không nên ăn hoặc uống nước có ga trước khi đi ngủ….[10] Theo báo cáo của bác sĩ Brett R.Kuln, trường đại học Nebraska tại hội nghị thường niên của Hiệp hội nghiên cứu giấc ngủ: khuyến khích trẻ ngủ nhiều có thể trừ ác mộng và mộng du. Mặc dù người ta cho rằng tình trạng này có liên quan đến một số yếu tố di truyền, nhưng tác giả cho rằng nhũng trẻ bị rối loạn này có thể bị giảm các biểu hiện bệnh lý nếu tăng tổng số thời gian ngủ. Tác giả khuyên các bậc cha mẹ, các cô giáo nên cho trẻ ngủ trưa, cần cho trẻ ngủ nhiều hơn bằng cách không để ti vi và trò chơi điện tử trong phòng ngủ của trẻ. Tăng tổng số thời gian ngủ làm giảm rõ rệt tần xuất các cơn ác mộng.[10] Trong thời gian gần đây, bác sỹ Mare Weissbluth - chuyên gia hàng 5 đầu về giấc ngủ của Mỹ đã đưa ra những tư liệu nghiên cứu về giấc ngủ của trẻ từ sơ sinh đến tuổi vị thành niên. Trong nghiên cứu của mình ông đã đề cập đến những vấn đề: “Để trẻ có giấc ngủ ngon”với phương pháp tìm ra nguyên nhân và giả thuyết những rối loạn giấc ngủ ở trẻ.[11] Với những nghiên cứu trên ta thấy: vấn đề giấc ngủ và chất lượng giấc ngủ được các tác giả quan tâm từ rất sớm, song đối tượng chính của họ thường là những trẻ em có vấn đề về giấc ngủ với hoàn cảnh kinh tế xã hội khác nhau. Chính xuất phát từ đối tượng trên mà một số biện pháp đảm bảo giấc ngủ ngon cho trẻ còn chưa mang tính toàn thể và khả thi đối tượng nghiên cứu của đề tài này. 1.2. Những nghiên cứu trong nước. Về giấc ngủ của trẻ đã có những công trình nghiên cứu như sau: -“Báo cáo kết quả điều tra tình hình giấc ngủ của trẻ ở một số nhà trẻ ở Hà Nội” - Vũ Thị Chín, Nguyễn Thị Thanh Vân, Nguyễn Văn Lai, Nguyễn Sinh Thảo - Kỷ yếu NCKH về NDT lần thứ III - 1986. - “Tổ chức ăn, ngủ trưa ở trường mẫu giáo” - Đỗ Xuân Hòa -Khoa giáo dục mẫu giáo - 1982. - “Sự cần thiết đảm bảo giấc ngủ cho trẻ” - Lê Thị Ngọc Ái - Tập san GDMN 4/1990. - “Báo cáo tổng kết phần: vệ sinh chăm sóc và vệ sinh phòng bệnh” Lê Thị Ngọc Ái. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề này không nhiều và chủ yếu là tổng kết, đánh giá tình hình giấc ngủ trưa của trẻ ở trường mầm non, chưa quan tâm, đi sâu vào cách thức tổ chức giấc ngủ trưa như thế nào để đạt hiệu quả cao. Hơn thế nữa, đó là nghiên cứu được thực hiện từ những năm 1975 - 1991, cho nên giá trị thực tiễn cũng giảm dần. Do tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu và những nảy sinh trên thực 6 tiễn, tôi thấy việc nghiên cứu “ Một số biện pháp tổ chức nhằm nâng cao hiệu quả giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non” là cấp thiết. 2. Đặc điểm của hoạt động thần kinh cấp cao ở trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở sự phát triển của hệ thần kinh mà hoạt động thần kinh cấp cao của trẻ em được phát triển theo lứa tuổi. Sự phát triển của hệ thần kinh có liên hệ chặt chẽ với sự phát triển thể chất, phụ thuộc vào ảnh hưởng của ngoại cảnh, của giáo dục và đặc điểm cá thể trẻ. Hệ thần kinh có vai trò vô cùng quan trọng trong cơ thể. Nó là trung tâm điều khiển hoạt động của các cơ quan và hệ cơ quan trong cơ thể, giúp chúng hoạt động thống nhất, nhịp nhàng. Giấc ngủ trẻ em hình thành và ổn định dần dần theo sự phát triển hệ thần kinh của trẻ. Với trẻ nhỏ, hệ thần kinh chưa hoàn thiện. Đến cuối tuổi mẫu giáo, hệ thần kinh mới hoàn thiện về cấu tạo cơ bản, chưa hoàn thiện về chức năng: quá trình hưng phấn lớn hơn quá trình ức chế, quá trình phân tán lớn hơn quá trình tập trung cho nên trẻ dễ mệt dưới ảnh hưởng của những tác động mạnh, không liên tục và trẻ dễ bị ảnh hưởng của môi trường bên ngoài. Trẻ càng nhỏ thì hệ thần kinh càng non nớt và nhanh chóng bị mệt mỏi. Trong các công trình nghiên cứu về hoạt động thần kinh, PapLôp đã nhấn mạnh đến một điều là các trung khu thần kinh đặc biệt chóng mệt. Nếu không kịp thời cho các trung khu đó nghỉ thì sẽ gây ra những rối loạn nghiêm trọng của hệ thần kinh. PapLôp cũng đã chứng minh là trong trường hợp này sẽ diễn ra quá trình bảo vệ thần kinh, đó là quá trình ức chế; sự ức chế đó còn gọi là ức chế bảo vệ. Hiện tượng ngủ là một thí dụ về ức chế bảo vệ. Những công trình nghiên cứu của các nhà sinh lí học khác cũng chứng minh là hệ thần kinh trung ương phải được nghỉ ngơi trước tiên, sự nghỉ ngơi theo chu kỳ đối với hệ thần kinh có một ý nghĩa rất lớn để bảo vệ các tế bào thần kinh khỏi bị suy nhược. Do vậy cần tổ chức cho trẻ giấc ngủ ngon. 7 Như vậy ở lứa tuổi này, hệ thần kinh là một cơ quan chưa hoàn thiện phải điều khiển các cơ quan khác chưa hoàn thiện, trong khi đó vẫn liên tục chịu những tác động mới từ môi trường là vô cùng bất lợi. Vấn đề vệ sinh hệ thần kinh - giữ cho hệ thần kinh luôn ở trạng thái hưng phấn thích hợp thông qua tổ chức chế độ sinh hoạt hợp lý (trong đó có tổ chức giấc ngủ) cho trẻ là vô cùng quan trọng. 3. Các qui luật của hoạt động thần kinh cấp cao. Toàn bộ hoạt động thần kinh cấp cao được xây dựng trên cơ sở sự hoạt động của hai quá trình thần kinh cơ bản là hưng phấn và ức chế. Sau đây là một số quy luật cơ bản: 3.1. Quy luật chuyển từ hưng phấn sang ức chế. Theo PapLôp, bất cứ một kích thích nào khi đã chạm đến một điểm nhất định của bán cầu đại não, dù ý nghĩa của nó lớn hay nhỏ đối với đời sống, nhưng nếu kích thích ấy không đi đôi với kích thích đồng thời những điểm khác thì nhất định sớm hay muộn nó sẽ dẫn đến tình trạng thái buồn ngủ và dẫn đến giấc ngủ. Trong cuộc sống hàng ngày, qui luật này được thể hiện rất rõ ràng: tiếng ru nhè nhẹ, kéo dài của người mẹ làm đứa trẻ ngủ dần. Quá trình chuyển từ hưng phấn sang ức chế có thể diễn có thể diễn ra nhanh chóng, đột ngột, hoặc xảy ra dần dần qua một giai đoạn quá độ. Quy luật này có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ các tổ chức thần kinh ở vỏ não và toàn bộ cơ thể.[7, trang 60, 61] 3.2. Quy luật tương quan giữa cường độ kích thích và cường độ phản xạ. Trong một phản xạ có điều kiện, kích thích có cường độ càng mạnh thì cường độ của phản xạ càng lớn. Nhưng khác với quy luật chuyển từ hưng phấn sang ức chế, quy luật này chỉ có tính chất tương đối, nghĩa là không đúng trong mọi trường hợp. Nếu kích thích quá yếu (dưới ngưỡng), hoặc quá 8 mạnh (trên ngưỡng) thì kích thích càng tăng, phản xạ càng giảm (do xuất hiện lực ức chế vượt hạn).[7, trang 61]. 3.3. Quy luật lan tỏa và tập trung. Khi nghiên cứu quy luật hình thành quá trình hưng phấn và ức chế trên vỏ não, PapLôp đã thấy rằng những quá trình đó không dừng lại ở tại điểm mà tại đó chúng sinh ra, mà chúng lan rộng ra mọi hướng trên vỏ não (khuyếch tán hay lan tỏa). Mức độ lan rộng phụ thuộc vào hưng tính của các tiêu điểm trên vỏ não và vào cường độ kích thích tác động. Sau khi đã lan rộng ra xunh quanh chúng ta lại thu hẹp dần phạm vi hoạt động, cuối cùng rút về vị trí xuất phát, đó là hiện tượng tập trung. Sự lan tỏa tập trung của hưng phấn và ức chế trên vỏ não là hiện tượng mang tính chất quy luật - qui luật lan tỏa và tập trung.[7, trang 61]. 3.4. Quy luật cảm ửng qua lại. Cảm ứng là khả năng gây ra quá trình đối lập ở xung quanh (không gian) hoặc tiếp sau (thời gian) của các quá tình thần kinh cơ bản (hưng phấn và ức chế). Theo PapLôp, trên vỏ não có hai loại cảm ứng: - Cảm ứng dương tính: xảy ra khi sự phát sinh ức chế gây nên hưng phấn. - Cảm ứng âm tính: xảy ra khi sự phát sinh hưng phấn gây nên ức chế. Như vậy, một quá trình thần kinh (hưng phấn hoặc ức chế) có thể vận động theo qui luật lan tỏa và tập trung, hoặc theo qui luật cảm ứng qua lại, điều đó tùy thuộc và nhiều yếu tố, nhưng trước hết nó phụ thuộc vào trạng thái hoạt động của trung tâm bị kích thích. Nếu trạng thái hoạt động của trung tâm đó yếu, thì kích thích vào trung tâm ấy sẽ gây ra hiện tượng lan tỏa. Nếu trạng thái hoạt động của trung tâm ấy mạnh hơn, tập trung hơn thì khi kích thích sẽ gây hiện tượng cảm ứng. Nếu hoạt động của trung tâm ấy mạnh quá 9 mức bình thường thì lại gây ra lan tỏa.[7, trang 62, 63] 3.5 .Quy luật hoạt động của hệ thống vỏ não. Trong đời sống, các kích thích không tồn tại một cách riêng lẻ, thường chúng tạo thành một tổ hợp kích thước đồng thời hoặc nối tiếp. Mỗi sự vật là một tổ hợp đồng thời của nhiều kích thích: thị giác, xúc giác, khứu giác, thính giác … Để thích ứng với môi trường não bộ cần phải hình thành khả năng phản ứng lại toàn bộ những hệ thống kích thích. Phản ứng của cơ thể cũng không diễn ra một cách riêng lẻ, mà bất kỳ một hoạt động nào đều là những tổ hợp hay hệ thống hoạt động của nhiều hệ thống. Vậy: hoạt động tổng hợp của vỏ não cho phép hợp nhất những kích thích riêng lẻ, những phản ứng riêng lẻ thành một tổ hợp hoàn chỉnh hay thành những hệ thống, gọi là hệ thống trong hoạt động của vỏ não. Một trong những biểu hiện quan nhất của tính hệ thống trong hoạt động của vỏ não là hình thành “định hình động lực”. Định hình động lực là một hệ thống phản xạ có điều kiện được lặp lại theo một trình tự nhất định và theo một khoảng thời gian nhất định trong một thời gian dài. Sau đó, chỉ cần một phản xạ đầu xảy ra là toàn bộ những phản xạ tiếp theo sẽ xảy ra theo lối “dây chuyền”, nghĩa là một kích thích có thể đại diện cho toàn bộ các kích thích khác để gây phản xạ. Định hình động lực (động hình) là cơ sở của những hành động tự động hóa. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong công tác giáo dục, chăm sóc trẻ.[7, trang 63, 64]. 4. Giấc ngủ và ý nghĩa của giấc ngủ. 4.1. Khái niệm và bản chất sinh lý của giấc ngủ. 4.1.1. Khái niệm về giấc ngủ. Ngủ là một trạng thái nghỉ ngơi của cơ thể, khi đó các quá trình sinh lý đều giảm mức độ. Giấc ngủ đảm bảo khôi phục khả năng phân tích và tổng 10 hợp của vỏ não, khả năng làm việc của tế bào não nói riêng và cơ thể nói chung. Chính vì vậy, giấc ngủ là nhu cầu sinh lý của con người.[7, trang 72]. Một giấc ngủ ngon phải đảm bảo các yếu tố: - Ngủ nhanh. - Ngủ say (ngủ sâu). - Ngủ đủ thời gian cần thiết. 4.1.2. Bản chất sinh lý của giấc ngủ. Ngủ là một nhu cầu sinh lý bình thường của cơ thế, có tác dụng bảo vệ hệ thần kinh. Theo PapLôp, tế bào thần kinh làm việc kéo dài và căng thẳng sẽ mệt mỏi, suy nhược. Nếu làm việc thái quá thì các tế bào sẽ bị tổn thương và hoạt động của chúng sẽ bị rối loạn trầm trọng. Lúc này vỏ não sẽ có một phản ứng tự vệ chống lại sự mệt mỏi và suy nhược của tế bào thần kinh: Trong vỏ não phát sinh một quá trình ức chế, ức chế này lan rộng dần khắp vỏ não và lan xuống cả phần dưới vỏ, làm xuất hiện giấc ngủ Như vậy cơ sở sinh lí của giấc ngủ là hiện tượng khuyếch tán của một quá trình ức chế lan truyền trong toàn bộ vỏ não và các phần dưới não. 4.2. Ý nghĩa của giấc ngủ. Trước kia, người ta chỉ chú ý đến sự thức mà ít nói đến sự ngủ. Mãi vài chục năm gần đây, khi điện não ra đời,sự ngủ mới được nghiên cứu tương đối đầy đủ. Thực ra ông cha ta nói đã từ lâu: “Ăn được, ngủ được là tiên. Không ăn, không ngủ mất tiền thêm lo”. Thức và ngủ là hai trạng thái có liên quan mật thiết với nhau.Sự luân phiên đều đặn giữa ngủ và thức là điều kiện cần thiết của hoạt động sống bình thường của cơ thể con người. Thức tích cực sẽ đảm bảo cho giấc ngủ say, ngược lại giấc ngủ say và đủ độ dài lại đảm bảo trạng thái tích cực khi cơ thể chuyển sang trạng thái thức. Vì trong giấc ngủ, quá trình đồng hóa, thu nạp 11 các chất vào cơ thể chiếm ưu thế, phục hồi sức làm việc của cơ thể, đặc biệt là vỏ não. Giấc ngủ trưa cũng như giấc ngủ đêm là một loại nghỉ ngơi cơ bản và không có gì thay thế được.Thiếu ngủ còn có hại cho cơ thể hơn thiếu ăn. Người ta chỉ có thể không ngủ tối đa 4-5 ngày, sau đó có muốn hay không cũng ngủ thiếp đi. Trẻ mẫu giáo, thời gian thức được kéo dài hơn so với các lứa tuổi trước. Trong thời gian thức này của trẻ dần xuất hiện ngày càng nhiều các hoạt động ăn - chơi - học tập… Điều đó đồng nghĩa với mật độ vận động, sự phát huy năng lượng - năng lực cá nhân ngày càng lớn. Song nếu không tổ chức các hoạt động trên một cách hợp lý, khoa học thì sẽ mâu thuẫn với khả năng về sức lực của trẻ còn nhiều hạn chế. Trẻ chưa thể tham gia liên tục vào các hoạt động một cách tích cực, có hiệu quả mà không cần có những phút nghỉ ngơi với đúng nghĩa của nó. Ngay cả đối với bản thân của chúng ta những người trưởng thành và đang ở trong sung mãn nhất về thể lực cũng cần những giờ phút nghỉ ngơi đó biết bao. Trong cuốn sách bất hủ “Nghiên cứu di truyền các thiên tài” của mình tiến sĩ Liwis M.Terman đã trình bày một phương pháp thử trí thông minh do chính ông tìm ra vào năm 1925. Khi so sánh 600 trẻ có chỉ số IQ >140 và 2700 trẻ khác với IQ < 140, ông nhận thấy trẻ thiên tài có giấc ngủ dài hơn. Một khảo sát khác của ông tiến hành trên 5500 trẻ em Nhật vào hai năm sau cũng có kết quả tương tự. Sau này, những nghiên cứu riêng biệt về giấc ngủ của Terman cũng cho thấy thông minh đi đôi với giấc ngủ. Năm 1983, phòng thí nghiệm giấc ngủ ở Canada đã khẳng định nghiên cứu của Terman là đúng:Trẻ có chỉ số IQ lớn thì tổng lượng thời gian ngủ của chúng dài. Các nghiên cứu của Canada và Mỹ đều thống nhất rằng trẻ thông minh có giấc ngủ dài hơn so với trẻ cùng lứa tuổi. 12 Mới đây, một nghiên cứu khác của Đại học Lousville về giấc ngủ đối với trẻ sinh đôi trẻ có kiểu ngủ dài và điểm số cao hơn về tập đọc, từ vựng, đọc hiểu…so với trẻ có kiều ngủ ngắn.Rõ ràng, giấc ngủ với trẻ em là rất quan trọng.Các nghiên cứu đều chứng minh có sự liên quan chặt chữ giữa giấc ngủ và khả năng học tập. Giấc ngủ trưa với thời gian chỉ bằng khoảng 1/5 thời gian của giấc ngủ đêm, tuy khá ngắn ngủi nhưng lại rất cần thiết và có ý nghĩa lớn lao đối với sức khỏe, tâm lý, trí tuệ của mỗi con người, đặc biệt với trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo. Trẻ có thời lượng ngủ đủ thì tỉnh táo, tiếp thu hết các thông tin xung quanh như một miếng bọt biển khô kiệt thấm nước. Đối chiếu tổng thời lượng ngủ với khí chất của trẻ thấy: các em nhóm dễ quản lý có thời lượng ngủ lớn hơn các em nhóm khó quản lý là 1h30’, gần tương đương một giấc ngủ ngắn ban ngày, trong khi giấc ngủ đêm có thể coi như bằng nhau. Như vậy giấc ngủ trưa có liên quan đến khí chất của trẻ. Rối loạn giấc ngủ có ảnh hưởng nhiều đến các kiểu ngủ: tư chất thông minh; đến sự rèn luyện; học tập và đến cả hiệu suất ở nhà trường của các em. Chúng ta không thể coi giấc ngủ trưa là giấc ngủ phụ, là phần bù cho giấc ngủ đêm. Giấc ngủ trưa là giấc ngủ độc lập nếu xét cả về mặt thời gian và chức năng. Nó tuân theo qui luật tự nhiên, theo nhịp điệu sinh học. Hơn thế nữa, nó còn là một nhu cầu bản năng, nhu cầu xã hội vì nó thỏa mãn sự phát triển của con người, góp phần nâng cao sức tái sản xuất xã hội. Giấc ngủ giống như việc nuôi con. Có nhiều cách nuôi con, nhưng trẻ chỉ cần một cách nào đó giúp có nhiều calo để chóng lớn. Chế độ ăn nào không cung cấp đầy đủ dinh dưỡng hoặc gây mất cân bằng dinh dưỡng thì chế độ ăn đó không tốt, có ảnh hưởng xấu đến sức lớn và phát triển của trẻ em. Điều này cũng đúng với các kiểu ngủ không ngon giấc. Điều quan trọng là phải tập cho trẻ ngủ đúng phương pháp, phải có biện pháp tổ chức ngủ khoa học.[11,7 (trang 75). 13 4.3. Các thuyết về giấc ngủ. 4.3.1.Thuyết độc tố Lêzan và Pêzôn. Theo thuyết này, trong quá trình trao đổi chất, cơ thể tích lũy nhiều chất gây ngủ.Khi nồng độ các chất đó đạt tới một mức độ nhất định, nó sẽ tác động tới tế bào thần kinh gây buồn ngủ.Trong khi ngủ, độc tố gây ngủ sẽ được thải dần ra ngoài cơ thể và từ đó sẽ làm giảm ảnh hưởng đối với cơ thể, dần dần nó cũng hết tác động đến hệ thần kinh. Khi đó, khả năng làm việc của não bộ sẽ được khôi phục dẫn đến hiện tượng tỉnh giấc.[7, trang 72, 73]. 4.3.2. Thuyết trung khu ngủ. Vào những năm 1916 - 1917, ở Châu Âu nạn dịch về viêm não gây ngủ. Vụ dịch này gây ra hai hiện tượng mâu thuẫn: ngủ liên miên và không ngủ được. Do vậy gây ra hiện tượng tử vong cao. Khi mổ não của người chết vì nhiễm dịch trên, người ta thấy ranh giới của não giữa và não trung gian bị tổn thương. Từ đó người ta đi đến kết luận rằng: ở vùng này có trung khu điều khiển trạng thái thức - ngủ của cơ thể. Chẳng hạn khi bị tổn thương ở trung khu gây ngủ thì cơ thể sẽ không ngủ được và ngược lại.[7, trang 73]. 4.3.3. Thuyết về giấc ngủ của PapLôp. Các tế bào thần kinh của vỏ não hoạt động trong ngày dần dần mệt mỏi và làm xuất hiện ức chế.Lúc đầu ức chế xuất hiện ở một nhóm tế bào hay một vùng nào đó, hoặc khuyếch tán ra các vùng xung quanh. Và nếu không có gì cản trở thì ức chế đó lan tỏa ra khắp các cơ quan dưới vỏ và dẫn đến giấc ngủ. Trong quá trình ngủ, các tế bào của vỏ não không phải ngừng hoạt động hoàn toàn mà nó chuyển sang dạng hoạt động khác nhằm đảm bảo cho quá trình chuyển hóa đặc trưng của tế bào vỏ não với mục đích khôi phục khả năng làm việc của tế bào thần kinh. Khi tế bào thần kinh đã khôi phục được 14 khả năng làm việc thì vỏ não chuyển sang trạng thái hoạt động, cơ thể tỉnh giấc.[7, trang 73, 74] 4.4. Những điều kiện để xuất hiện và khuyếch tán ức chế ngủ. Trong điều kiện tự nhiên của giấc ngủ, sự khuyếch tán có thể xảy ra do 3 nhân tố: - Hoạt động thiên biến vạn hóa trong ngày của các vùng phân tích quan trên vỏ não đã làm giảm sút khả năng làm việc, gây trạng thái mệt mỏi trong các vùng đó, làm cho các vùng đó có xu hướng chuyển sang trạng thái ức chế. Chính vì thế ở người lao động mệt mỏi thì đêm dễ ngủ thiếp đi và ngủ ngon. Ở những trẻ em khỏe mạnh, giấc ngủ hay là sự ức chế trước hết phát sinh trong các cơ quan phân tích vận động và vận động ngôn ngữ khi chúng mệt mỏi. - Sự loại trừ các kích thích bên ngoài làm cho tính cường (trương lực) của các tế bào thần kinh giảm sút và dễ chuyển sang trạng thái ức chế. Vì vậy, khi chuẩn bị cho trẻ ngủ nên cởi bớt quần áo, đặt trẻ ở tư thế thoải mái, tắt bớt đèn, vặn nhỏ đài… - Giấc ngủ còn là kết quả của một quá trình phản xạ có điều kiện, thành lập trên các tác nhân thời gian và chế độ sống của động vật và con người. Nói cách khác là xây dựng trên sự xen kẽ đều đặn và đúng kì hạn của hoạt động ban ngày và sự ngừng hoạt động ban đêm, kèm theo một số động tác quen thuộc mà ta vẫn gọi là “chuẩn bị đi ngủ”. Vì vậy cần tạo cho trẻ thói quen đi ngủ đúng giờ với những động tác chuẩn bị quen thuộc.[7, trang 74]. 4.5. Các giai đoạn chuyển từ thức sang ngủ.[7, trang 74, 75]. Tùy từng cơ thể, từng hoàn cảnh, giấc ngủ có thể say nhất vào thời gian đầu, giữa hoặc cuối. Nhưng nhìn chung, việc chuyển từ “thức” sang “ngủ” đều qua một số giai đoạn giống nhau. Mỗi giai đoạn của giấc ngủ được qui định bằng sự đáp ứng của cơ thể 15 với mỗi tác nhân kích thích có cường độ khác nhau.Lúc thức với những tác nhân kích thích khác nhau có thể có phản ứng khác nhau. 4.5.1. Giai đoạn san bằng (thiu thiu ngủ). Mọi kích thích đều có tác dụng gần như nhau, cơ thể đều có phản ứng giống nhau. 4.5.2. Giai đoạn trái ngược. Các kích thích yếu trở nên có tác dụng mạnh và ngược lại. 4.5.3. Giai đoạn cực kỳ trái ngược. Tác nhân gây hưng phấn lúc thức trở thành gây ức chế, ngược lại kích thích gây ức chế lại có tác dụng gây hưng phấn. 4.5.4. Giai đoạn ức chế hoàn toàn (ngủ say) Mọi tác nhân kích thích dù mạnh hay yếu đều không làm xuất hiện phản ứng, cơ thể không trả lời kích thích.Các tế bào thần kinh trên vỏ não ở trạng thái ức chế hoàn toàn. 4.6. Những đặc điểm đặc trưng của giấc ngủ. Giấc ngủ được đặc trưng bởi các điểm sau: - Giảm tính nhạy cảm của cơ quan cảm giác. - Giảm nhịp tim, nhịp hô hấp. - Giảm hoạt động của các tuyến tiêu hóa,bài tiết. - Giảm trương lực cơ (bắp cơ mềm, đa số cơ xương dãn). 4.7. Thời gian ngủ của trẻ. Thời gian ngủ chiếm 1/3 đời người, nhưng phân bố không đồng đều ở các lứa tuổi, và nó phụ thuộc vào khả năng làm việc của tế bào thần kinh. Trẻ càng nhỏ thời gian ngủ càng nhiều, giấc ngủ ngắn, số lần ngủ nhiều: 16 Thời gian ngủ Lứa tuổi Số lần ngủ 3–6 6 – 12 12 – 18 18 – 36 36 – 72 4 3 2 1 1 Ngày 7h30 6h00 4h30 3h00 2h00 [6, trang 89] Đêm Một ngày 9h30 10h00 10h30 10h30 10h00 17h00 16h00 15h00 13h30 12h00 Bảng 1: Số lần và thời gian ngủ của trẻ theo lứa tuổi. 5. Thực trạng giấc ngủ trưa của trẻ ở trường mầm non Hùng Vương – Vĩnh. Một số nét khách thể nghiên Phúc Yên là một thị xã đang trên đà phát triển nên việc chăm sóc giáo dục cho thế hệ trẻ, đặc biệt là trẻ em mẫu giáo ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Qua thời gian thực tập tại trường mầm non Hùng Vương tôi đã được tiếp xúc và trò chuyện với giáo viên, phụ huynh và trẻ trong trường, đặc biệt là các giáo viên đâng giảng dạy tại các lớp mẫu giáo lớn; quá trình tìm hiểu tôi được biết: - Quá trình thành lậptrường : Trường mầm non Hùng Vương được thành lập ngày 30/6/ 2006, trường mầm non Hùng Vương thuộc tổ 10, Phường Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. - Cơ cấu của trường : + Tổng số cháu: 509 cháu + Tổng số lớp : - 3 lớp mẫu giáo lớn : A,B,C - 4 lớp mẫu giáo nhỡ : A, B, C, D - 3 lớp mẫu giáo bé : A, B, C - 2 lớp nhà trẻ : A, B 17 + Tổng số cán bộ giáo viên : 41 + Ban giám hiệu: 3 người - Thuận lợi: + 12/12 lớp thực hiện chương trình “ Đổi mới hình thức chăm sóc giáo dục trẻ”. Về đội ngũ 100% giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn nghiệp vụ sư phạm, số lượng giáo viên giỏi các cấp đều tăng hàng năm, hiện nay trường có 2 giáo viên giỏi cấp tỉnh. + Về điều kiện vật chất, trang thiết bị dạy học: Trẻ được học trong ngôi trường khang trang, thoáng mát, sạch sẽ với đầy đủ phòng học, trang thiết bị nhằm phục vụ công tác chăm sóc và giáo dục trẻ. + Trẻ được đến trường đầy đủ, được học tập và vui chơi cùng bạn bè, cô giáo. Các cháu ngoan, khoẻ, tích cực tham gia các hoạt động do cô tổ chức,tỷ lệ Bé ngoan- Bé chuyên cần đạt trên 98%( số liệu năm học 20112012). Đến trường mầm non trẻ được các cô tận tình dạy dỗ, chăm sóc từ việc học hành, ứng xử trong giao tiếp trong mối quan hệ bạn bè, đến việc chăm lo cho các con từng giấc ngủ. - Khó khăn: Do trang thiết bị phục vụ giấc ngủ cho trẻ còn thiếu: trẻ chưa có phòng ngủ riêng, hai trẻ dùng chung một chăn, mỗi trẻ chưa có gối riêng, mùa đông chăn của trẻ còn mỏng,…. nhận thức của giáo viên về cách thức tổ chức giấc ngủ cho trẻ còn nhiều hạn chế: giáo viên chưa cho trẻ tham gia các hoạt động trong chế độ sinh hoạt, chưa làm vệ sinh cho trẻ trước khi ngủ, chưa tổ chức cho trẻ ngủ vào một giờ nhất định…..do đó chưa loại trừ được các tác nhân kích thích có ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ.[11]. CHƯƠNG II - KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 18 I. Thực trạng giấc ngủ trưa và thực trạng việc tổ chức giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non 1. Tiêu chí đánh giá thực trạng giấc ngủ trưa cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. Tôi đã tiến hành nghiên cứu 90 cháu mẫu giáo lớn (5-6 tuổi) của trường mầm non Hùng Vương, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là một trong những trường có nhiều điều kiện thuận lợi cho chúng tôi tiến hành. 1.1 Cách tiến hành. Tôi đã tiến hành quan sát các buổi ngủ trưa của trẻ và đánh giá hiệu quả giấc ngủ trưa của trẻ theo 3 tiêu chí: - Tiêu chí 1: Ngủ nhanh. - Tiêu chí 2: Ngủ sâu. - Tiêu chí 3: Ngủ đủ thời gian cần thiết. Mỗi một tiêu chí của giấc ngủ được đánh giá theo 3 mức độ: - Mức độ 1: 3 điểm - Mức độ 2: 2 điểm - Mức độ 3: 1 điểm Cụ thể: Tiêu chí 1: “ngủ nhanh” - Mức độ 1: Trẻ ngủ sau 15 phút - Mức độ 2: Trẻ ngủ sau 30 phút - Mức độ 3: Trẻ ngủ sau 45 phút Tiêu chí 2: “ngủ sâu” - Mức độ 1: Giấc ngủ không bị gián đoạn, không xảy ra hiện tượng bất thường của giấc ngủ (mộng du, hoảng sợ khi ngủ, giẫy giụa quá nhiều khi ngủ, xoay lật người nhiều lần). - Mức độ 2: Giấc ngủ bị gián đoạn hoặc xuất hiện những hiện tượng bất 19 thường của giấc ngủ. - Mức độ 3: Giấc ngủ bị gián đoạn và có xảy ra những hiện tượng bất thường của giấc ngủ. Tiêu chí 3: “ ngủ đủ thời gian cần thiết” - Mức độ 1: Tổng thời lượng ngủ của trẻ đạt từ 120 phút đến 150 phút. - Mức độ 2: Tổng thời lượng ngủ của trẻ đạt từ trên 60 phút đến dưới 120 phút. - Mức độ 3: Tổng thời lượng ngủ của trẻ không đạt 60 phút. Dựa trên số điểm mà trẻ đạt được ở 3 tiêu chí trên, tôi đánh giá hiệu quả giấc ngủ trưa của trẻ theo 3 loại: - Loại tốt: Nếu trẻ đạt từ 7- 9 điểm. - Loại trung bình : Nếu trẻ đạt được từ 4- 6 điểm . - Loại yếu: Nếu trẻ đạt 3 điểm. 1.2. Kết quả nghiên cứu. Sau khi quan sát giấc ngủ trưa của trẻ, tôi thu được kết quả như sau: - Loại tốt: có 36/90 trẻ (chiếm 40 %). - Loại trung bình : có 49/90 trẻ (chiếm 54,44%). - Loại yếu: có 5/90 trẻ (chiếm 5,56%). Điểm trung bình của trẻ đạt: = 6.04 Kết quả này được thể hiện qua bảng 2: Loại Kết quả Số lượng trẻ % Tốt Trung bình Yếu X 36 40 49 54,44 5 5,56 90 100 Bảng 2: Kết quả khảo sát thực trạng giấc ngủ trưa của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non . Qua kết quả điều tra trên tôi thấy vẫn có một tỉ lệ đáng kể trẻ có giấc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất