Sáng kiến kinh nghiệm
Tên đề tài:
Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1 tăng nhanh vốn từ
và hiểu nghĩa khi học môn Tiếng Việt
Người thực hiện : Vũ Kim Oanh
Trường: Tiểu học Cát Linh - Đống Đa - Hà Nội
Hà Nội 2003 - 2004
I.Lí do chọn đề tài:
Sau khi rời bàn tay chăm sóc của các cô mẫu giáo cũng như sự chăm chút của ông bà, cha
mẹ. Trẻ 6 tuổi bước vào một giai đoạn mới là được đi học và vào học lớp Một tại các trường tiểu
học. Bước đầu học chữ, học đọc, học viết nên trẻ còn nhiều bỡ ngỡ và tiếp thu kíên thức thật khó
khăn. trẻ phải biết và nói lên được những yêu cầu cần thiết của một bài học, từ đó nhìn vào âm –
vần – tiếng trẻ đọc lên đúng âm – vần – tiếng giáo viên dạy và cũng từ đây trẻ sẽ hiểu thêm được
từ – câu – bài văn. Với những yêu cầu ngày càng cao đòi hỏi học sinh lớp Một phải nắm bắt được
kiến thức một cách vững vàng để biến kiến thức đó thành kĩ năng, kĩ xảo trong môn Tiếng Việt.
cũng vì muốn học sinh học thật tốt môn học này, nên việc giúp trẻ tăng thêm vốn từ hiểu nghĩa từ
và tiến tới dùng từ chính xác tạo nền tảng vững chắc cho việc học lên những lớp trên là việc làm
khó khăn mà người giáo viên dạy lớp Một phải trải qua và khắc phục.
II. Cơ sở lí luận để chọn đề tài:
Ngôn ngữ nhân loại, ngay từ những ngày đầu sơ khai của xã hội loài người, đã hình thành và
ngày càng phát triển. Nó chính là công cụ giao tiếp vô cùng quan trọng trong đời sống hàng ngày
của con người, mà con người là sự tổng hoà của các mối quan hệ xã hội.
Chúng ta phải công nhận tiếng Việt rất giàu và đẹp. Lời hay ý đẹp đã có sẵn trong tiếng Việt
và ngày càng phát triển. Chúng ta không lấy thế làm thoả mãn mà cần có ý thức giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.
Việc giúp học sinh lớp Một tăng nhanh vốn từ, hiểu nghĩa từ và tiến tới nói đúng, nói hay là
vô cùng cần thiết. Vì nhờ đó mà các em sẽ không gặp khó khăn khi học môn ngữ pháp và tập làm
văn ở các lớp học trên.
Muốn phát triển ngôn ngữ của trẻ nhất là học sinh cấp tiểu học thì phải thông qua các hoạt
động tập thể, điều kiện và môi trường sống. Các hoạt động ngày càng phong phú và đa dạng thì
vốn hiểu biết của trẻ càng rộng. Hình thức để ta ta tăng vốn từ cho học sinh một cách nhanh chóng
và tốt nhất là thông qua hoạt động dạy học. ở tất cả các môn học, người giáo viên cần chú ý rèn
luyện cho các em biết dùng đúng từ, chọn lời hay ý đẹp để sử dụng trong cuộc sống hàng ngày, từ
đó từng bước nâng cao vốn hiểu biết của trẻ.
Đối tượng học sinh của tôi ở đây là học sinh lớp Một. ở lứa tuổi này khả năng tập trung chú ý
của trẻ chưa cao, tư duy chưa phát triển nên việc bồi dưỡng vốn từ cho các em ở giai đoạn này rất
khó khăn. Để giải quyết khó khăn ban đầu đấy thì trong hoạt động dạy học của mình, tôi đã sử
dụng một số biện pháp để giúp trẻ tăng thêm vốn từ, hiểu nghĩa từ để tiến tới dùng từ sinh động
và chính xác, tạo đà cho những năm học sau.
Ở đây, trong giới hạn đề tài, xin được trình bày một số biện pháp tôi đã sử dụng để giiúp trẻ
tăng nhanh vốn từ, hiểu nghĩa từ tiến tới dùng từ sinh động và chính xác khi dạy môn tiếng Việt ở
lốp Một (theo ba giai đoạn: Học âm – chữ cái. Học vần và Tập đọc).
III. Hướng giải quyết đề tài:
+ Giai đoạn 1:
Giai đoạn trẻ bắt đầu học âm và chữ cái:
Muốn học sinh chóng biết đọc thì người giáo viên cần phải biết kết hợp với cha mẹ học sinh
kèm cặp, giúp đỡ trẻ nhanh chóng thuộc tất cả những chữ cái đã học. Phân biệt được nguyên âm,
phụ âm và thanh điệu để làm cơ sở cho việc xây dựng tiếng mới, từ mới. Sau đó học sinh biết ghép
phụ âm với nguyên âm rồi thanh điệu để tích luỹ vốn từ cho mình. Để giúp các em hiểu, dễ dàng
tìm ra được nhiều tiếng mới, tôi hướng dẫn các em thông qua bảng ghép tiếng.
Bảng 1:
Gồm 16 con chữ ghi phụ âm đầu (b, v, l, c, n, m, d, đ, t, x, s, r, k, p, g) viết ở cột dọc đầu
tiên phía bên trái. Phía trên đầu 6 cột dọc còn lại ghi các thanh (“ngang” – không dấu “sắc”,
“huyền”, “nặng”, “hỏi”. “ngã”).
Thanh
đầu
\
.
?
~
Âm
b
v
l
….
/
…...
…...
…...
……
……
……
…….
…….
…….
…
…
…
…….
…….
…….
…
…
…
…...
…...
…...
……
……
……
…...
…...
…...
……
……
……
……
……
……
…
…
…
………
Bảng 2:
Gồm các phụ âm đầu được ghi bằng 2, 3 con chữ (th, ch, kkh, ph, nh, gh, qu, ng, ngh, tr)
được ghi ở cột dọc, và 6 cột ghi thanh như ở bảng 1.
Thanh
\
Âm
/
.
?
~
đầu
th
ch
kh
…...
…...
…...
……
……
……
…….
…….
…….
…
…
…
…….
…….
…….
…
…
…
…...
…...
…...
……
……
……
…...
…...
…
……
……
……
……
…
…
……
…
……...
………
….
Hai bảng này tôi có thể làm lấy và để dùng cho nhiều năm. Tôi có thể sử dụng để các em
chơi trò chơi học tập hoặc củng cố bài vừa học.
Ví dụ: ở bảng 1.
Khi học bài âm: i – a các em sẽ ghép được rất nhiều tiếng từ đơn.
Thanh
đầu
\
/
.
?
~
Âm
b
ba
bà
bá
bạ
bả
v
vi
vì
ví
vị
vỉ
ã
b
vĩ
………
….
Khi ghép được các tiếng mới rồi thì các em rất chóng thuộc bài, nhanh biết đọc và viết đúng
chính tả. Trên cơ sở các tiếng đơn đó, học sinh sẽ ghép các tiếng đã học với các tiếng vừa xây dựng
được để thành từ bằng cách sử dụng hộp đồ dùng thực hành tiếng Việt. Qua việc làm này học sinh
sẽ có được vốn từ phong phú.
*Ví dụ:
Đối với một số từ còn khó hiểu đối với học sinh tôi giảng giải nghĩa từ thật ngắn gọn để giúp
các em hiểu và sử dụng từ tốt.
ở đây giáo viên có rấ nhiều hình thức sử dụng để giảng giải nghĩa từ cho học sinh dễ hiểu,
dễ nhớ như: dùng tranh minh hoạ, đồ dùng trực quan, hành động, lời nói, ...
Ví dụ:
Từ “ba ba” tôi dùng tranh minh hoạ
Từ “ba lô” sử dụng vật thật
Từ “số ba” tôi viết chữ số ba dưới nhóm ba đồ vật để minh hoạ
Từ “bò lê bò càng” là một thành gnữ ý chỉ đánh đau đến nỗi phải bò, phải lê
(dùng cả chân và tay để di chuyển).
Từ đó giúp các em hiểu từ và nhận biết các đồ vật chính xác qua từ.
Với các âm g – gh, ng – ngh, c- k tôi hướng dẫn các em năm vững luật chính tả khi sử dụng
để ghép tiếng, ghép từ.
Ví dụ:
g
ng
gh
a, o, ô, ơ, u, ư
c
ngh
e, ê, i, (y)
k
Trên cơ sở luật chính tả đó khi gặp một số từ như:
Nghi ngờ – kì cọ
Ghế gỗ – nghô nghê
Các em sẽ không viết sai lỗi chính tả và dùng từ một cách chính xác hơn.
+Giai đoạn 2:
Đây là lúc trẻ chuyển sang học vần.
Khi việc tìm ra tiếng và từ mới của học sinh đã thành thạo và thành kĩ năng rồi thì sang
phần vần các em tìm từ mới khá nhanh và tiết học diễn ra sinh động hơn. Các em sẽ thi nhau tìm
và phát hiện ra nhiều từ mới kể cả học sinh trung bình ở lớp. Qua thực tế đó vốn từ ngữ của các
em sẽ rất nhièu và phong phú. ở giai đoạn này, giáo viên cũng có thể sử dụng phương pháp dùng
bảng ghép như ở trên: Ghép âm đầu với các vần rồi thanh điệu. Nhưng hiệu quả sẽ không cao và
không phát huy được trí lực của học sinh. Muốn đạt được kết quả cao trong bài học thì ta có thể
thay bằng việc giải quyết các bài tập tiếng Việt dưới dạng trò chơi học tập để học sinh tự ghép và
viết được các từ (giáo viên phải đầu tư suy nghĩ để đưa ra trò chơi hợp lí, phù hợp với đối tượng
học sinh).
Ví dụ:
Khi dạy bai vần: uê - uy, tôi đưa ra dạng bài sau để học sinh chơi.
Nối âm với vần để thành tiếng có nghĩa.
th
r
uê
ng
t
uy
kh
Trên cơ sở đó học sinh phải suy nghĩ để tìm được tiếng có nghĩa trong thực tế, rồi giáo viên
sẽ dẫn dắt các em ghép thêm dấu thanh để được các từ mới khác nữa. Theo cách ghép này các em
sẽ tìm được nhiều từ hay, có nghĩa. Từ đó, các em có vốn từ phong phú để áp dụng cho việc học
tốt môn tiéng Việt ở các lớp trên.
Ví dụ:
Các em có thể tìm được như: thuê nhà, ruy băng, đóng thuế, nguy hiểm, tuy nhiên, ma tuý,
khuy áo, tuỳ ý,tuỷ sống, tận tuỵ, nguỵ trang...
Trong quá trình học sinh ghép tiếng mới, từ mới nếu gặp những từ không bình thường, thiếu
văn hoá hoặc không có trong thực tế thì giáo viên cần uốn nắn ngay cho trẻ để các em biết chọn từ
đúng, hay khi sử dụng.
+ Giai đoạn 3
Giai đoạn tập đọc
Chuyển sang giai đoạn tập đọc thì việc tìm từ đã ở mức đòi hỏi cao hơn. Ngoài việc giúp học
sinh hiểu để tiến tới rèn đọc lưu loát, diễn cảm các bài tập đọc sách giáo khoa thì giáo viên dần dần
hướng dẫn các em bước đầu tìm những từ cùng nghĩa và từ gần nghĩa hay trái nghĩa (ở mức độ
dễ). ở đây giáo viên có thể sử dụng tranh minh hoạ để học sinh dễ tư duy và phát huy được tính
tích cực của nhiều học sinh.
Ví dụ:
Khi dạy bài tập đọc: “Sau cơn mưa”
Qua việc đưa tranh minh hoạ khi giảng bài của giáo viên, học sinh hiểu: sau trận mưa rào,
bầu trời, mặt đất, mọi vật đều tươi đẹp. Vậy khi học sinh xem tranh cảm thụ được vẻ đẹp và nội
dung tranh rồi, tôi rèn cho học sinh và hướng dẫn các em chhú ý vào từ mà tôi định cho các em
khai thác thêm. cụ thể trong câu:
“Những đoá râm bụt thêm đỏ chói”
Tôi rút ra từ: “đỏ chói” và yêu cầu các em tìm những từ cùng nghĩa và gần nghĩa (hay những
từ chỉ các sắc độ khác nhau của màu đỏ). Các em sẽ tìm được rất nhiều từ như: đỏ thắm, đỏ bừng,
đo đỏ, đỏ au, đỏ tía, đỏ ửng, đỏ rực, đỏ tươi, đỏ lựng, đỏ quạch...
Sau đó các em có thể diễn đạt lại màu đỏ của hoa râm bụt theo cảm nhận của mình.
Ví dụ:
“đỏ chói” có thể thay bằng các từ khác như: đỏ rực - đỏ thắm - đỏ tươi... để diễn đạt theo ý
hiểu của mình. Đây cũng là cơ sở giúp cho các em có vốn từ phong phú khi luyện nói câu, tập đặt
câu chứa tiếng có vần đã học sau này.
ở trình độ học sinh lớp Một tuỳ theo khả năng của các em để tìm được nhiều hay ít từ. Nếu
cần giáo viên có thể đưa ra để bổ sung cho các em theo tính chất để nâng cao sự hiểu biết của các
em. Tuy nhiên, khi học sinh đưa ra từ ngữ khó hiểu thì giáo viên phải có đủ kiến thức và tầm hiểu
biết rộng để giải đáp cho các em (nếu cần).
Ví dụ:
Học sinh tìm được từ mới có vần uê là: “khuê phòng” thì giáo viên có thể giải đáp
cho học sinh một cách dẽ hiểu: Đó là phòng giành cho các cô tiểu thư con nhà giàu có, quan lại ở
thời phong kíên ngày xưa (nay đã ít dùng từ này).
-
Từ “sĩ số”: là từ Hán – Việt (sĩ: học trò; số: số lượng) – số học trò...
IV/ Kết quả:
Qua một số cách làm trên và kết hợp với các biện pháp rèn đọc – luyện viết cho các em, tôi
đã giúp các em có sự hiểu biết và vốn từ khá phong phú. Chính vì vậy, tôi đã thu được một số kết
quả chủ yếu trong dạy học như sau: Theo đúng phân phối chương trình thì khoảng giữa học kì 2
mới học hết phần vần. Nhưng đến cuối học kì 1, 90% học sinh lớp tôi đã biết đọc thông thuộc và
thành thạo các bài tập đọc, mẩu chuyện ngắn và báo Hoạ Mi. Kết quả kiểm tra cuối học kì một
cũng luôn đạt kết quả cao. Số lượng từ, từ mới được bổ sung trong tiết học đã giúp các em tăng
vốn hiểu biết và đã mạnh dạn hơn trong cách diễn đạt và phát biểu ý kiến. Và khi đã có số lượng
từ ngữ phong phú, giàu hình ảnh rồi thì các em cũng sẽ biết dùng lời hay ý đẹp để sử dụng trong
giao tiếp với mọi người xung quanh. Từ đó dần dần, các em tự kkhẳng định mình là người học sinh
Thủ đô có nếp sống văn minh lịch sự.
V/Kết luận:
Trên cơ sở thực hiện những sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp, của bản thân có liên
quan đến giảng dạy bộ môn tiếng Việt. ở giới hạn đề tài này, tôi mạnh dạn đưa ra một số việc làm
của mình với mục đích làm giàu thêm vốn từ ngữ cho học sinh và dần hướng các em biết dùng từ
chính xác và sinh động ngay từ những năm đầu của cấp học.
Không những thế, việc giúp học sinh lớp Một tăng nhanh vốn từ và hiểu nghĩa từ khi học
môn tiếng Việt đã giúp cho tôi:
- Nắm được trình độ tiếp thu và chất lượng của từng em trong lớp mình phụ trách.
- Từ đó rút ra được những biện pháp thiết thực nhất để kèm cặp các em học sinh trung
bình và yếu.
- Dần dần nâng cao chất lượng học tập cho học sinh.
- Bài học ssẽ gây nhiều hứng thú, học sinh hiểu được ngôn ngữ và ý nghĩa của từ.
- Cũng từ đây học sinh phát huy trí tuệ một cách toàn diện và vô cùng phong phú.
Trên đây là mọt số biện pháp tôi đề ra và đã thực hiện để giúp học sinh lớp Một tăng nhanh
vốn từ và hiểu nghĩa từ khi học môn tiếng Việt. Mong được sự góp ý của BGH và các đồng nghiệp
trong trường.
Xin chân thành cảm ơn!
- Xem thêm -