Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động về phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu...

Tài liệu Lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động về phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường mầm non ngô quyền - vĩnh yên - vĩnh phúc

.DOCX
57
976
147

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG LỰA CHỌN VÀ ỨNG DỤNG MỘT SỐ TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG VỀ PHÁT TRIỂN SỨC MẠNH CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN (5 - 6 TUỔI) TRƯỜNG MẦM NON NGÔ QUYỀN - VĨNH YÊN - VĨNH PHÚC KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC Chuyên ngành: Giáo dục Thể chất Người hướng dẫn: ThS. NGUYỄN HỮU HIỆP HÀ NỘI - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là: Nguyễn Thị Thu Hương Sinh viên lớp K36B - GDMN Trường ĐHSP Hà Nội 2. Tôi xin cam đoan đề tài này là của riêng tôi, kết quả nghiên cứu của đề tài không trùng với bất cứ đề tài nào nghiên cứu về vấn đề này tại trường Mầm Non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc. Toàn bộ những vấn đề được đưa ra bàn luận, nghiên cứu là những vần đề mang tính thời sự, cấp bách và đúng thực tế tại trường Mầm Non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc. Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2014. Sinh viên Nguyễn Thị Thu Hương MỤC LỤC ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1 Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU..........................4 1.1. Vị trí, vai trò và mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân................................................................................4 1.1.1. Vị trí vai trò của giáo dục Mầm non (GDMN)....................................4 1.1.2. Mục tiêu nhiệm vụ của giáo dục mầm non (GDMN)..........................4 1.2. Vị trí vai trò của môn giáo dục thể chất (GDTC)...................................5 1.3. Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ mẫu giáo (5 - 6 tuổi) trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc......................................................................5 1.3.1. Đặc điểm tâm lí....................................................................................5 1.3.2. Đặc điểm sinh lí...................................................................................7 1.4. Một số nét đặc trưng của trò chơi vận động............................................9 1.4.1. Khái niệm trò chơi vận động................................................................9 1.4.2. Ý nghĩa trò chơi vận động....................................................................9 1.4.3. Đặc điểm và phân loại trò chơi vận động...........................................11 1.5. Cơ sở giáo dục sức mạnh......................................................................14 1.5.1. Khái niệm và phân loại sức mạnh......................................................14 1.5.2. Phương pháp giáo dục sức mạnh.......................................................15 Chương 2. NHIỆM VỤ, PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU. .20 2.1 Nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................20 2.2. Các phương pháp nghiên cứu chính......................................................20 2.3. Tổ chức nghiên cứu...............................................................................23 Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU........................................................25 3.1. Thực trạng công tác giáo dục thể chất và sử dụng trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường Mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc............................................................25 3.1.1. Thực trạng công tác GDTC trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc..................................................................................................25 3.1.2. Thực trạng việc sử dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường mầm non Ngô Quyền Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc..................................................................................26 3.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường mầm non Ngô Quyền Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc..................................................................................28 3.2.1. Cơ sở lựa chọn một số trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Ngô Quyền.....................................28 3.2.2 Lựa chọn test đánh giá sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc.....................................................34 3.2.3 Tiến trình giảng dạy trò chơi vận động...............................................36 3.2.4. Ứng dụng và đánh giá hiệu quả của trò chơi đã chọn nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường mầm non Ngô Quyền Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc..................................................................................37 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ......................................................................43 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................45 PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 3.1 Diễn giải Kết quả phỏng vấn giáo viên về lựa chọn một số Trang 29 TCVĐ nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu Bảng 3.2 giáo lớn (n = 20) Bảng phỏng vấn mức độ ưu tiên test kiểm tra 35 đánh giá sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn trường Bảng 3.3 mầm non Ngô Quyền (n = 20) Tiến trình giảng dạy TCVĐ nhằm phát triển sức 37 mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn trường mầm non Ngô Bảng 3.4 Quyền. Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm của hai 38 Bảng 3.5: nhóm ĐC và TN (nA = nB = 15) Kết quả kiểm tra sau TN của nhóm ĐC và TN (n A 39 Biểu đồ 1 = nB = 15). Thành tích bật xa của hai nhóm ĐC và TN trước 40 Biểu đồ 2 và sau thực nghiệm. Thành tích ném túi cát của hai nhóm ĐC và TN 41 Biểu đồ 3 trước và sau thực nghiệm. Thành tích nhảy ô của hai nhóm ĐC và TN trước 41 và sau thực nghiệm DANH MỤC CHỮ VIẾT STT Từ viết tắt Giải thích từ viết tắt 1 ĐC Đối chứng 2 ĐHSP Đại học sư phạm 3 GDĐT Giáo dục đào tạo 4 GDTC Giáo dục thể chất 5 GDTL Giáo dục thể lực 6 GDMN Giáo dục mầm non 7 NXB Nhà xuất bản 8 STT Số thứ tự 9 TCVĐ Trò chơi vận động 10 TDTT Thể dục thể thao 11 TN Thực nghiệm 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo dục Việt Nam đang đứng trước nhiều yêu cầu mới của xã hội, phải xây dựng con người có phẩm chất đạo đức, có năng lực vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời Bác Hồ căn dặn. Sức khỏe là vốn quý, điều đó không chỉ có Đảng, nhà nước và nhân dân ta thừa nhận mà nó được cả nhân loại thừa nhận. Cho nên thế hệ trẻ được đào tạo phải có sức khỏe cả về thể chất và tinh thần, có kĩ năng lao động trí óc lẫn chân tay, mưu trí, dũng cảm trong chiến đấu bảo vệ sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng từng dặn “Giáo dục phải đảm bảo tính toàn diện trong đó giáo dục thể chất là một mặt không thể thiếu được. Nếu các đồng chí được Đảng và nhà nước giao trọng trách giáo dục mà coi nhẹ Giáo dục thể chất là một điều không đúng mà còn là một sai lầm”[3]. Như vậy, giáo dục thể chất có một vai trò rất quan trọng trong nền giáo dục quốc dân. Giúp con người phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần. Chỉ thị 36/CT - TW ngày 24/3/1994 của Ban bí thư TW đảng giao trách nhiệm cho bộ giáo dục và đào tạo, tổng cục thể dục thể thao thường xuyên phối hợp chỉ đạo công tác giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các trường học, để việc tập luyện TDTT trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên. Giáo dục mầm non là nấc thang khởi đầu trong hệ thống giáo dục quốc dân với mục tiêu giúp trẻ em phát triển thể chất, tình cảm trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp 1. Qua đó cho thấy giáo dục thể chất cho trẻ trước tuổi đi học đặt cở sở cho sự phát triển toàn diện, tôi luyện cơ thể, rèn tinh thần sảng khoái, rèn kĩ năng vận động cơ bản, hình thành thói quen vận động cần thiết trong cuộc sống. 2 Một trong những phương tiện của giáo dục thể chất để phát triển sức mạnh cho con người thì cho chơi vận động là phương tiện tốt để tạo ra sự hứng thú cho các em. Trong khi chơi, các em được giao lưu với nhau, có sự hợp tác, đoàn kết với nhau trong khi chơi để đạt được kết quả tố nhất. Tuổi mẫu giáo, các em đến trường không chỉ được học tập mà các em còn được hoạt động vui chơi hàng ngày vì lứa tuổi mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi nên việc lựa chọn và ứng dụng trò chơi vận động cho các em là một việc làm ý nghĩa giúp các em phát triển toàn diện, giúp các em nhanh nhạy hơn với môi trường xung quanh. Lựa chọn và ứng dụng trò chơi vận động vào giảng dạy các giờ phát triển thể chất có vai trò quan trọng, giúp cho học sinh tiếp thu nhanh hơn kĩ thuật động tác, phát triển các tố chất thể lực, gây hứng thú cho học sinh trong các giờ tập luyện. Nhưng qua tìm hiểu thấy việc tổ chức hướng dẫn trò chơi vận động trong dạy học ở trường mầm non còn thiếu quan tâm, chưa chú trọng và còn mang tính tùy tiện, chưa xác với mục đích của giờ học, còn hoài nghi chưa dám chắc trò chơi có ảnh hưởng tốt tới chất lượng giờ học phát triển thể chất hay không. Để đóng góp phần giải quyết các vấn đề trên việc nghiên cứu đưa ra một số trò chơi vận động sao cho phù hợp với điều kiện thực tế, nâng cao chất lượng học tập môn thể chất cho trẻ trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên Vĩnh Phúc là vấn đề cần thiết của công tác giáo dục thể chất trường học. Với lí do trên, chúng tôi đã mạnh dạn đề cập đến đề tài: “Lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động để phát triển sức mạnh cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc”. * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non và đặc điểm về phương pháp sử dụng trò chơi vận động của giáo dục thể chất trong trường học, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nài với mục đích để lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động để phát triển sức 3 mạnh cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Ngô Quyền nói riêng và các trường mầm non nói chung. * Giả thuyết khoa học Việc áp dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Ngô Quyền chưa phù hợp, các bé chưa thể hiện và phát huy hết khả năng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc”. Nếu việc lựa chọn trò chơi phù hợp, phát triển sức mạnh cho trẻ 5 - 6 tuổi đạt hiệu quả, các em sẽ tiếp thu nhanh hơn các kĩ thuật động tác, phát triển các tố chất thể lực, gây hứng thú cho các em trong tập luyện. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Vị trí, vai trò và mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân 1.1.1. Vị trí vai trò của giáo dục Mầm non (GDMN) GDMN là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong báo cáo giám sát toàn cầu về giáo dục cho mọi người năm 2005, UNESCO đã đánh giá: “những năm đầu của cuộc sống là giai đoạn chủ yếu của sự phát triển trí tuệ, nhân cách và hành vi”, “Bằng chứng cho thấy rằng việc chăm sóc giáo duc trẻ ở lứa tuổi trước tuổi học có liên quan đến việc phát triển nhận thức và xã hội tốt hơn” [1]. Nhà giáo dục Xô viết A.S.Makarenko khẳng định: Những cơ sở căn bản của việc giáo dục trẻ được hình thành từ trước tuổi lên 5. Những điều dạy cho trẻ trong thời kì đó chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ. Về sau việc giáo dục đào tạo con người vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, cùng những nụ hoa thời đó được vun trồng trong 5 năm đầu tiên. Lịch sử GDMN ghi nhận: GDMN là khâu đầu tiên của quá trình đào tạo con người mới Việt Nam. GDMN góp phần giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ. Nhờ có phát triển GDMN, phụ nữ yên tâm công tác, lao động sản xuất, có điều kiện học hành nâng cao hiểu biết và hưởng thụ những phúc lợi nho nhỏ trong gia đình cũng như có cơ hội đóng góp cho xã hội. Như vậy GDMN là bậc học đầu tiên trong hệ thống GD quốc dân. Tầm quan trọng của GDMN là chỗ nó đặt nền móng ban đầu cho việc GD hình thành và phát triển nhân cách trẻ em. 1.1.2. Mục tiêu nhiệm vụ của giáo dục mầm non (GDMN) Điều 21, 22 luật giáo dục (2005) đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ GDMN “GDMN thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng đến 6 tuổi” [6]. Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát 5 triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1. 1.2. Vị trí vai trò của môn giáo dục thể chất (GDTC) GDTC có một vị trí vô cùng quan trọng, là một bộ phận không thể thiếu của giáo dục quốc dân, là sự phát triển con người toàn diện. Vai trò của GDTC là: GDTC là cơ sở nền tảng của nền TDTT quốc dân. GDTC là yếu tố tích cực trong đời sống văn hóa tinh thần. GDTC làm phong phú đời sống xã hội hiện đại. GDTC là yếu tố căn bản để chuẩn bị cho lao động và sẵn sàng bảo vệ tổ quốc. 1.3. Đặc điểm tâm sinh lí của trẻ mẫu giáo (5 - 6 tuổi) trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc 1.3.1. Đặc điểm tâm lí Trẻ 5 - 6 tuổi thì bé đã có khả năng tiếp thu một lượng kiến thức không nhỏ. Theo A.X. Macarenco, một nhà giáo dục nổi tiếng của Nga thì: “Nền tảng của giáo dục chủ yếu được xây dựng từ khi trước 5 tuổi, nó chiếm 90% chất lượng của cả quá trình giáo dục” [11]. Trẻ 5 - 6 tuổi có một đặc điểm tâm lí rất quan trọng là ý thức về bản ngã (cái tôi): - Trẻ bắt đầu biết phân biệt 1 cách rõ ràng giữa bản thân và những người xung quanh. Trẻ có ý thức về tính sở hữu, biết cái gì của mình và cái gì là của người khác. - Tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) tư duy của trẻ có một bước ngoặt lớn. Xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng mới - tư duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của tư duy logic. Tư duy của trẻ đã đạt tới những ranh giới của tư duy trực quan hình tượng, những hình tượng và biểu tượng trong đầu trẻ vẫn còn gắn liền với những hành động điều đó thể hiện trong những trường hợp, khi trẻ giải quyết những bài toán thực tế. 6 Sự phát triển xúc cảm và ngôn ngữ: - Ở lứa tuổi này, tình cảm đã bắt đầu phức tạp và phân hóa, từ quan hệ gắn bó mẹ - con, trẻ bắt đầu có nhu cầu giao lưu tình cảm nhiều hơn giữa mẹ con ở trẻ trai và bố - con ở trẻ gái. Trẻ đòi hỏi sự quan tâm cuộc sống một cách cụ thể và đa dạng hơn, vì vậy đã xuất hiện ở trẻ những biếu hiện về tình cảm rõ ràng cũng như những phản ứng chống đối dưới nhiều hình thức khác nhau. - Đây là lứa tuổi phát triển khá hoàn chỉnh về khả năng giao tiếp, trẻ có khả năng nói những câu đầy đủ, đôi khi phức tạp cũng như hiểu được những câu nói dài của người khác. Điều này là cơ sở cho trẻ tiếp nhận những kiến thức của lớp 1 và những bậc học tiếp theo. Ý thức về bản thân: - Ngay từ lên 3 trẻ đã biết phân biệt giữa bản thân và người khác, trẻ dần dần nhận ra những cái gì thuộc về bản thân, cái gì không thuộc về mình. Trẻ 5 - 6 tuổi đã có ý thức về những vật dụng như quần áo, đồ chơi, cái gì là của mình và cái gì là của bạn cùng chơi. Từ đó đưa tới thái độ so sánh, ganh tị hay tự tin hơn và thường có những suy nghĩ nhận định độc lập, tích tự làm chứ không cần nhờ người khác. - Ý thức về bản thân cũng giúp trẻ 5 - 6 tuổi có ý thức chan hòa với bạn cùng chơi. Biết tuân thủ luật chơi, biết mượn, chia sẻ đồ chơi với bạn biết thiết lập mối quan hệ rộng rãi và phong phú với bạn cùng chơi. - Trẻ giai đoạn này cũng rất dễ xúc động, dễ cười, dễ khóc. Tâm tư của trẻ tuổi này cũng được bộc lộ ra ngoài. Tính tình tương đối ổn định. Đời sống tình cảm của trẻ tuổi này phong phú và sâu sắc hơn rất nhiều so với tuổi trước. 1.3.2. Đặc điểm sinh lí Hệ thần kinh: sự phát triển của hệ thần kinh ở lứa tuổi này đã ở mức cao hơn so với lứa tuổi nhà trẻ. Sự trưởng thành của các tế bào thần kinh của 7 đại não kết thúc… Tuy nhiên, ở trẻ em quá trình hưng phấn và ức chế chưa cân bằng, sự hưng phấn mạnh hơn sự ức chế. Do đó, phải đối sử thận trọng với trẻ, tránh để trẻ phải thực hiện một khối lượng vận động quá sức hoặc kéo dài thời gian vận động vì sẽ làm trẻ mệt mỏi. Hệ thần kinh có tác dụng chi phối và điều tiết đối với vận động cơ thể vì vậy hoạt động vận động của trẻ có hai tác dụng: thúc đẩy sự phát triển công năng của tổ chức cơ bắp và thúc đẩy sự phát triển công năng của hệ thần kinh. Vận động cơ thể của trẻ có thể cải thiện tính không công năng của quá trình thần kinh ở chúng. Song cần chú ý tới sự luân phiên giữa vận động và nghỉ ngơi, tình trạng quá trình vận động của trẻ. Hệ vận động: bao gồm hệ xương, hệ cơ và khớp. Hệ xương: thành phần hóa học xương của trẻ có chứa nhiều nước và chất hữu cơ hơn chất vô cơ so với người lớn, nên có nhiều sụn xương, xương mềm, dễ bị cong gãy. Ở trẻ 5 - 6 tuổi xương cột sống có 2 đoạn uốn cong vĩnh viễn ở cổ và ở ngực, lồng ngực đã hẹp hơn, đường kính ngang lớn hơn đường kính trước sau, xương sườn chếch theo hướng dốc nghiêng. Hệ cơ: hệ cơ của trẻ phát triển yếu, tổ chức cơ bắp còn ít, các sợi cơ nhỏ mảnh, thành phần nước trong cơ tương đối nhiều nên sức mạnh cơ bắp còn yếu, cơ nhanh mệt mỏi. Do đó, trẻ lứa tuổi này không thích nghi với sự căng thẳng lâu của cơ bắp, cần xen kẽ giữa vận động và nghỉ ngơi thích hợp trong thời gian luyện tập. Khi trẻ được thường xuyên tham gia vận động thể lực hợp lí sẽ tăng cường hiệu quả công năng các tổ chức cơ bắp, làm cho sức mạnh và sức bền của cơ bắp phát triển. Khớp: trẻ lứa tuổi này ổ khớp còn nông, cơ bắp xung quanh khớp còn yếu, dây chằng lỏng lẻo. Hoạt động vận động phù hợp với lứa tuổi của trẻ sẽ giúp khớp được rèn luyện, từ đó tăng dần tính vững chắc của khớp. Hệ tuần hoàn: hệ tuần hoàn của trẻ đang phát triển và hoàn thiện. Buồng tim phát triể tương đối hoàn thiện, tần số co bóp của tim là 80 - 110 8 lần/phút. Để tăng cường công năng của tim, khi cho trẻ luyện tập, nên đa dạng hóa các dạng bài tập, nâng dần lượng vận động cũng như cường độ vận động, phối hợp động và tĩnh một cách nhẹ nhàng. Hệ hô hấp: đường hô hấp của trẻ tương đối hẹp, niêm mạc đường hô hấp mềm mại, mao mạch phong phú, dễ phát sinh nhiễm cảm. Lên 6 tuổi thể tích hô hấp của phổi là khoảng 215 - 220 ml. Trẻ 5 - 6 tuổi mỗi phút hít thở khoảng 20 - 22 lần. Hệ trao đổi chất: cơ thể trẻ đang phát triển đòi hỏi bổ sung liên tục năng lượng tiêu hao và cung cấp các chất tạo hình để kiến tạo các cơ quan và mô. Ở trẻ năng lượng tiêu hao cho sự lớn lên và dự trữ chất nhiều hơn là cho hoạt động cơ bắp. Do vậy, khi trẻ hoạt động vận động quá mức, ngay cả khi dinh dưỡng đầy đủ thường dẫn đến tiêu hao năng lượng dự trữ trong các cơ bắp và đọng lại những sản phẩm độc hại ở các cơ quan trong quá trình trao đổi chất. Sẽ làm ảnh hưởng đến cơ bắp và hệ thần kinh, làm giảm sự nhạy cảm. Do đó, cần thường xuyên thay đổi vận động của các cơ, chọn hình thức vận động phù hợp với trẻ. Từ việc nghiên cứu, tìm tòi dựa trên cơ sở lí luận và thực tiễn, nhận thức được vai trò to lớn của giáo dục thể chất với trẻ mầm non, trong quá trình giảng dạy chúng tôi đã lựa chọn và ứng dụng một số trò chơi vận động nhằm phát triển sức mạnh cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường mầm non Ngô Quyền - Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc góp phần nâng cao công tác giáo dục thể chất cho trường mầm non Ngô Quyền. Trẻ hào hứng vui chơi tham gia nhiệt tình, xua tan những căng thẳng, mệt mỏi. Kích thích trẻ luôn sáng tạo trong học tập và vui chơi. Trong qúa trình tham gia vào trò chơi, các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn khi thất bại, vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ… Vì tập thể mà các em phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho đội trong đó có bản thân mình, đây chính là đặc tính thi đua rất cao của trò chơi vận động. 9 Vì vậy, trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi đi sâu nghiên cứu những trò chơi mang tính vận động thể lực và đặc biệt chú ý tới sức mạnh của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi), từ đó đưa ra một số ứng dụng hiệu quả trong công tác giáo dục thể chất trường mầm non Ngô Quyền nói riêng và các trường mầm non khác nói chung. 1.4. Một số nét đặc trưng của trò chơi vận động 1.4.1. Khái niệm trò chơi vận động Trò chơi vận động (TCVĐ) là loại vận động tích cực, đây là một trong những phương pháp GDTC tốt nhất cho trẻ mầm non, rất phong phú về số lượng, đa dạng về nội dung và tạo cho các em có điều kiện sáng tạo và phát triển tư duy của mình một cách độc lập trong những trường hợp cụ thể. Đa số các trò chơi vận động dành cho trẻ mầm non đều mang tính chủ đề, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và khả năng tưởng tượng của trẻ. Khi tham gia vào trò chơi thì trẻ phải tập trung chú ý, ghi nhớ những lời giải thích của giáo viên để thực hiện đúng vận động. Do đó, đặc điểm nổ bật của TCVĐ là sự đòi hỏi phối hợp vận động của quá trình nhận thức và vận động. Như vậy, TCVĐ là trò chơi nhằm rèn luyện và hoàn thiện các vận động cho trẻ. Nó là phương tiện chủ yếu giáo dục thể lực (GDTL) cho trẻ, giải quyết các nhiệm vụ vận động dưới dạng trò chơi nên trẻ vận động tích cực và thoải mái. 1.4.2. Ý nghĩa trò chơi vận động Ở trẻ mầm non, trò chơi chiếm một vị trí quan trọng. Trẻ đến trường không chỉ được học tập mà trẻ còn được vui chơi hàng ngày vì lứa tuổi mẫu giáo hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi. Các loại trò chơi: đóng vai theo chủ đề, trò chơi học tập, trò chơi xây dựng hay trò chơi vận động… được sử dụng rộng rãi. Trong đó, trò chơi vận động được chú ý cao vì tất cả các trẻ đều được tham gia và phát triển các tố chất thể lực. 10 TCVĐ là phương tiện chủ yếu GDTL có hiệu quả cho trẻ mẫu giáo, qua TCVĐ hình thành các phẩm chất thể lực như sự nhanh nhẹn, linh hoạt, dẻo dai, góp phần củng cố nâng cao sức khỏe cho trẻ. Giáo dục trẻ về các mặt đức, trí, thể, mỹ… Đào tạo cho trẻ phát triển toàn diện từ những năm đầu đời. TCVĐ còn là một phương tiện vui chơi giải trí, một hình thức nghỉ ngơi tích cực, một hoạt động có tính văn hóa góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho trẻ. Về phương diện sinh lí vận động: TCVĐ giải tỏa tâm lí tạo nên sự lạc quan yêu đời, vui tươi thoải mái, giúp phần giảm các căng thẳng thần kinh, giảm và chống đỡ được một số bệnh tật. Ở trường mầm non, trò chơi vận động được sử dụng một cách thường xuyên. TCVĐ vừa là nội dung học tập vừa là hình thức vui chơi được trẻ yêu thích và tích cực tham gia. Trong khi chơi trẻ hào hứng, hình thành những phẩm chất đạo đức, trẻ biết giúp đỡ lẫn nhau, biết quan tâm với bạn cùng chơi. Để tham gia được vào trò chơi thì buộc trẻ phải hiểu được luật chơi, cách chơi và vai trò của mình trong khi chơi, xác định được mối quan hệ giữa bản thân và bạn cùng chơi, làm thao tác tư duy, phân tích, so sánh, chú ý, ghi nhớ, khái quát được phát triển. Khi trẻ chơi các TCVĐ thì sẽ tác động lên nhiều cơ, tăng quá trình trao đổi chất. TCVĐ là phương tiện chống lại sự mệt mỏi, căng thẳng của trẻ trong học tập. Hơn thế, TCVĐ tác động vào hệ thần kinh, các quá trình hưng phấn và ức chế được cân bằng. Đó là điều kiện tốt để hình thành thói quen vận động cho trẻ. Những trò chơi vận động dân gian có từ lâu đời thường gắn liền với các bài hát hay các câu thơ. Khi trẻ chơi thì sẽ phải nhớ những bài hát hay những câu thơ, cách chơi, luật chơi đó làm cho ngôn ngữ của trẻ phát triển, vốn từ thêm phong phú và mở rộng. 1.4.3. Đặc điểm và phân loại trò chơi vận động 1.4.3.1. Đặc điểm trò chơi vận động. 11 Hầu hết những trò chơi vận động được sử dụng trong GDTC ở trong nhà trường mầm non đã mang sẵn tính mục đích một cách rõ ràng. Trò chơi mang tính tư tưởng rất cao. Trong quá trình chơi trẻ tiếp xúc với nhau, trẻ phải hoàn thiện nhiệm vụ của mình trước tập thể ở mức độ cao, tập thể có trách nhiệm động viên, giúp đỡ bạn cùng chơi hoàn thành nhiệm vụ, vì vậy tình bạn, lòng nhân ái, tinh thần tập thể… được hình thành. Cũng trong quá trình chơi đã xây dựng cho trẻ tác phong khẩn trương, nhanh nhẹn, tính kỉ luật, sự sáng tạo để hoàn thành nhiệm vụ với tành tích cao… góp phần giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách cho trẻ. Trò chơi vận động có ý nghĩa quan trọng trong công tác GDTC cho trẻ. Trò chơi vận động mang đặc tính thi đua rất cao. Trong quá trình tham gia chơi, trẻ biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi và buồn khi thất bại, vui mừng khi thấy đồng đội hoàn thành nhiệm vụ, bản thân trẻ thấy có lỗi khi không làm tốt phần việc của mình… Vì tập thể mà trẻ phải khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại hết thắng lợi cho đồng đội. Trò chơi vận động là trò chơi có luật lệ, quy tắc nhất định mà bản thân trò chơi vận động lại mang tính thi đua và sự tự giác rất cao. Vì vậy khi đã tham gia trò chơi, trẻ phải vận dụng hết khả năng, sức lực, sự tập trung chú ý, trí thông minh và sáng tạo của mình. Một khía cạnh mà các nhà sư phạm phải quan tâm đó là tránh để các trẻ ham chơi quá mức quên ăn, quên ngủ, quên học, chơi đến mức quá sức dẫn đến mệt mỏi, trong trường hợp như vậy không những không có lợi về mặt sức khỏe mà còn ngược lại. Đây là một đặc điểm quan trọng, mà giáo viên phải chú ý khi tổ chức cho trẻ chơi. Nội dung TCVĐ đối với trẻ em các độ tuổi. Với trẻ em 12 - 18 tháng tuổi: Đuổi bắt, cô đuổi kịp ú tìm, thăm bạn búp bê, mang đồ chơi đến cho cô, bò tới đồ chơi, bò chui qua cổng. Đối với trẻ 18 - 24 tháng tuổi: Kéo cưa lừa xẻ, đi qua cầu, con rùa, gấu dạo chơi trong rừng (23 - 24 tháng), mèo và chim sẻ (23 - 24 tháng). 12 Đối với trẻ 24 - 36 tháng: Mèo và chim sẻ, nu na nu nống, chim sẻ và ô tô, con bọ dừa, bong bóng xà phòng, con rùa, bóng tròn to, bịt nắt bắt dê, dung dăng dung dẻ, trời nắng trời mưa, phi ngựa, vượt đoàn tàu. Với trẻ 3 - 4 tuổi: Quả bóng nảy, ô tô và chim sẻ, gấu và ong, nhảy qua suối nhỏ, đuổi bóng, tín hiệu máy bay. Với trẻ 4 - 5 tuổi: thi xem tổ nào nhanh, ném còn, bắt chước, tạo dáng, cáo và thỏ, ai ném xa nhất, đi như gấu, bò như chuột, tung cao hơn nữa. Với trẻ 5 - 6 tuổi: Nhảy tiếp sức, ai nhanh hơn, kéo co, đua ngựa, nhảy lò cò, ai ném xa nhất, cáo và thỏ. 1.4.3.2. Phân loại trò chơi vận động Trò chơi vận động cũng rất phong phú và đa dạng, vì vậy có rất nhiều cách phân loại căn cứ trên những quan điểm khác nhau. Dưới đây là một số cách phân loại: Căn cứ vào những động tác cơ bản của quá trình chơi. Theo cách này, ta có: trò chơi về chạy, nhảy, ném, leo trèo… và những trò chơi phối hợp hai hay nhiều hoạt động tren với nhau. Mục đích của loại trò chơi này là để người dạy dễ chon lọc và sử dụng trong việc rèn luyện những kĩ năng vận động cơ bản cho trẻ. Căn cứ vào sự phát triển các tố chất thể lực trong quá trình chơi. Ta có: trò chơi rèn luyện sức nhanh, trò chơi rèn luyện sức mạnh, trò chơi rèn luyện sức bền… tuy nhiên, theo cách phân loại này đôi khi không được chính xác mà chỉ tương đối, bởi một rò chơi không chỉ rèn luyện một tố chất thể lực cơ bản mà có khi là hai, ba tố chất. Căn cứ vào khối lượng vận động. Trò chơi “tĩnh”: Các trò chơi có khối lượng vận động không đáng kể. Ví dụ: trò chơi: “Bịt mắt bắt dê”, “Bỏ khăn”… 13 Trò chơi “động”: Các trò chơi có khối lượng vận động ở mức độ trung bình và cao, Ví dụ: Các trò chơi chạy tiếp sức “tiếp sức chuyển khăn”, “chạy đổi chỗ”, “chạy thoi”. Tuy nhiên, cách phân loại này cũng chỉ là tương đối, bởi vì khối lượng vận động và cường độ vận động của một trò chơi có thể tăng, giảm do cách tổ chức và tài nghệ điều khiển của người quản trò. Căn cứ vào yêu cầu tổ chức trò chơi. Ta có: trò chơi chia thành đội, không chia đội và trò chơi có một nhóm chuyển tiếp ở giữa. Trò chơi chia thành đội được tiến hành chơi với điều kiện số người chơi các đội phải ngang nhau, thậm chí số lượng các trẻ nam và trẻ nữ phải ngang nhau. Ví dụ: “kéo co”, “chạy tiếp sức”… Những trò chơi này thường có luật rất nghiêm và chặt chẽ. Có tác dụng giáo dục tinh thần tập thể, tính tổ chức kỉ luật cao. Trò chơi không chia thành đội được chia thành: Trò chơi có người điều khiển và trò chơi không có người điều khiển. 1.4.3.3 Một số hạn chế khi áp dụng trò chơi vận động cho trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) Một số trẻ tham gia chơi vượt quá khả năng chịu đựng để xảy ra những tai nạn đáng tiếc. Nhiều khi trẻ tham gia một cách hời hợt, thiếu tích cực không phát huy được hết hiệu quả của TCVĐ. Đôi khi trẻ nhốn nháo, giáo viên rất khó để kiểm soát được toàn bộ lớp nên chưa phát huy được hết những ưu điểm của TCVĐ. Tồn tại lớn nhất là khó kiểm soát lượng vận động trong khi tiến hành TCVĐ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất